Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 260
35-40 THỜI GIAN SỬ DỤNG MÀN HÌNH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở HỌC SINH TRƯỜNG THPT GÒ VẤP, QUẬN GÒ VẤP, TP. HỒ CHÍ MINH 
Lương Thị Thùy Dung*, Huỳnh Ngọc Vân Anh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Sự gia tăng nhanh của các thiết bị màn hình những năm gần đây dẫn đến việc tăng nhanh thời 
gian sử dụng màn hình ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là lứa tuổi học sinh. Sử dụng màn hình quá mức có những ảnh 
hưởng tiêu cực đến thể chất và tâm lý của học sinh, tuy nhiên tại Việt Nam vấn đề này vẫn chưa nhận được sự 
quan tâm đúng mức của xã hội. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình (TGSDMH) cao và mối liên quan với các 
yếu tố bản thân và gia đình ở học sinh trường THPT Gò Vấp, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2019 tại 
trường THPT Gò Vấp, quận Gò Vấp. Có tổng cộng 583 học sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu theo phương pháp PPS. 
Những học sinh đồng ý tham gia được khảo sát bằng bộ câu hỏi soạn sẵn gồm những thông tin về bản thân, gia 
đình và bộ câu hỏi thời gian sử dụng màn hình dựa trên các hành vi tĩnh tại dành cho thanh thiếu niên của 
HELENA. Kiểm định Chi bình phương (hoặc kiểm định Fisher) và hồi quy Poisson với ngưỡng ý nghĩa khi p 
<0,05 được sử dụng để xác định mối liên quan giữa TGSDMH và các yếu tố bản thân, gia đình. 
Kết quả nghiên cứu: Thời gian sử dụng màn hình trung vị là 428 phút/ngày (tương đương với hơn 7,1 
giờ/ngày), tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình cao là 93,3%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thời gian sử 
dụng màn hình với các yếu tố giới tính, khối lớp, học lực, kinh tế gia đình và nghề nghiệp của mẹ. Trong đó học 
sinh nam có tỷ lệ sử dụng màn hình cao gấp 1,05 lần học sinh nữ (96,1% so với 90,9%), các khối lớp càng nhỏ 
hay học lực càng kém thì tỷ lệ sử dụng màn hình cao càng cao. Những học sinh có điều kiện kinh tế gia đình 
trung bình có tỷ lệ sử dụng màn hình cao gấp 1,24 lần những học sinh có điều kiện kinh tế nghèo. Những học 
sinh có mẹ là công nhân có tỷ lệ sử dụng màn hình cao thấp hơn những học sinh có mẹ làm công việc kinh doanh, 
lao động tự do và nghề nghiệp khác. 
Kết luận: Tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình cao là 93,3%. Các yếu tố liên quan đến thời gian sử dụng màn 
hình là giới tính, khối lớp, học lực, điều kiện kinh tế gia đình và nghề nghiệp của mẹ. 
Từ khóa: thời gian sử dụng màn hình, học sinh THPT 
ABSTRACT 
SCREEN TIME AND ASSOCIATED FACTORS AMONG HIGHSCHOOL STUDENTS 
OF GO VAP SCHOOL, GO VAP DISTRICT, HO CHI MINH CITY 
Luong Thi Thuy Dung, Huynh Ngoc Van Anh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 260 – 267 
Background: The rapid development of smart devices in recent years has been accompanied by a 
dramatic increase in screen time (ST), at all ages, especially student age. Excessive screen time has 
beenmany negative effects on student’s physical and mental health, but in Vietnam this issue has not 
received adequate attention from society. 
Objectives: To determine the prevalence high screen time and associated factors among highs school 
students of Go Vap school, Go Vap district, Ho Chi Minh City, in 2019. 
*Khoa Y Tế Công Cộng, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Lương Thị Thùy Dung ĐT: 0359682418 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 261
Methods: A cross ‐ sectional study, was conducted from April 2019 to June 2019 at Go Vap high school, Go 
Vap district. Sample size was 554 students selected by the PPS method. Data were collected using a structured 
questionnaire that included information about personal, family and “Screen‐time based sedentary behavior 
questionnaire” of HELENA. Statistical analysis was performed using chi‐squared test (or using Fisher if there 
were more than 20% expected frequency <5) and Poisson Regression with a significance level of p <0.05 to 
consider factors related to screen time. Using the prevalence ratio (PR) with 95% confidence interval to measure 
the associations. 
Result: Students spent 428 minute/day (equivalent over 7.1 hour/day) in screen time. The prevalence of high 
ST (screen viewing ≥2 hours per day) was 93.3%. There were significant associations with screen time and 
gender, grade, academic performance, family’s economic conditions and maternal occupation. The prevalence of 
high ST was in boys 1.05 times higher than in girls. In the smaller grade, the prevalence of high ST was higher 
than an upper grade. Prevalence of high ST in the worse academic performance group was higher than the 
prevalence of high ST in the better academic performance groups. Students with an average family’s economic 
conditions had a prevalence of high ST of 1.24 times higher than students with poor family’s economic conditions. 
Students whose mothers are workers had a lower prevalence of high ST than students with mothers doing 
business, freelance, and other careers. 
Conclusion: The prevalence of high ST (screen viewing ≥2 hours per day) was 93.3%. Factors related to 
screen time were gender, grade, academic performance, family’s economic conditions and maternal occupation. 
Key word: screen time, high school students 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ngày nay, học sinh đang lớn lên trong một 
thế giới công nghệ cao và là một trong những 
đối tượng đi đầu trong xu hướng sử dụng các 
thiết bị công nghệ tương tác bằng màn hình. 
Theo CDC, năm 2018 thanh thiếu niên từ 15 - 18 
dành trung bình 7,5 giờ mỗi ngày để sử dụng các 
thiết bị màn hình. Tỷ lệ thời gian sử dụng màn 
hình (TGSDMH) cao ở học sinh được ghi nhận 
đang tăng nhanh trong những năm gần đây, 
năm 2015 tại Brazil tỷ lệ TGSDMH mức độ cao là 
79,5% và tỷ lệ này ở nam là 84,3%, ở nữ là 
76,1%(4). đến năm 2016 nghiên cứu của 
Christofaro DG ở Brazil và cho kết quả tỷ lệ sử 
dụng màn hình mức độ cao 93,8% ở nam và 
87,2% ở nữ(3). 
Bên cạnh đó rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra 
những tác hại lớn của TGSDMH quá mức lên cả 
thể chất lẫn tinh thần của học sinh như tăng tỷ lệ 
thừa cân béo phì(8) tăng tỷ lệ lo âu, stress, trầm 
cảm(6), và rối loạn giấc ngủ(5). Vì những ảnh 
hưởng lớn lên sức khỏe nên một số nước đã đưa 
ra khuyến cáo nên hạn chế thời TGSDMH của 
học sinh dưới 2 giờ mỗi ngày(1,11). 
Tại Việt Nam các thiết bị màn hình được học 
sinh sử dụng rất nhiều và đa dạng, tuy nhiên 
tình trạng sử dụng màn hình quá mức lại chưa 
được quan tâm đúng mức vì vậy mà những 
nghiên cứu về vấn đề này còn khá ít và không đi 
sâu. Chính vì lý do này việc đánh giá lại 
TGSDMH và các yếu tố liên quan ở học sinh là 
cần thiết để đưa ra những giải pháp nhằm thay 
đổi các hành vi, lối sống mang lại sức khỏe và 
kết quả học tập tốt hơn cho học sinh trung học 
phổ thông (THPT). 
TP. Hồ Chí Minh là một trong 2 thành phố 
lớn nhất cả nước vì vậy với điều kiện kinh tế xã 
hội phát triển học sinh ở khu vực này có nhiều 
cơ hội tiếp cần cũng như sở hữu các thiết bị màn 
hình hơn những khu vực khác trong cả nước. 
Trường THPT Gò Vấp là một trường công lập 
trọng điểm của quận Gò Vấp và số lượng học 
sinh khoảng 1700 em, đây là một trường nằm 
trong khu vực nội thành và có nhiều nét tương 
đồng về đặc tính kinh tế, văn hóa, xã hội với các 
trường khác trong khu vực TP. Hồ Chí Minh. 
Vì những lý do trên chúng tôi quyết định 
thực hiện nghiên cứu với mục tiêu xác định tỷ lệ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 262
học sinh có TGSDMH cao và các yếu tố liên 
quan ở học sinh trường THPT Gò Vấp, quận Gò 
Vấp, TP. Hồ Chí Minh. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Được thực hiện trên học sinh trường THPT 
Gò Vấp, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh từ 
tháng 04/2019 đến tháng 06/2019. 
Tiêu chí chọn vào 
Học sinh có mặt tại thời điểm điều tra và 
đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chí loại ra 
Học sinh không trả lời hết các câu hỏi trong 
phiếu khảo sát và những học sinh vắng mặt 
trong 2 lần thu thập dữ liệu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 
Tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ, 
trong đó sai lầm loại 1 là 0,05; sai số biên cho 
phép là 0,05 và p chọn bằng 0,538 (theo nghiên 
cứu của Nguyễn Ngọc Vân Phương và cộng 
sự(8)), hệ số thiết kế là 2 cho mẫu cụm, được điều 
chỉnh cho dân số chọn mẫu hữu hạn là 1722 và 
dự trù tỷ lệ mất mẫu 10%, từ đó tính được cỡ 
mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 583 học sinh. 
Phương pháp thực hiện 
Nghiên cứu sử dụng phương pháp PPS để 
chọn ra 20 cụm thuộc 3 khối 10, 11 và 12 mỗi 
cụm lấy 30 học sinh. Từ danh sách học sinh cộng 
dồn với tổng là 1722 học sinh, khoảng cách mẫu 
là 86 và số đầu tiên được chọn ngẫu nhiên là 19. 
Cụm đầu tiên bắt đầu từ học sinh có thứ tự 
cộng dồn là 19, cụm đầu tiên sẽ là những học 
sinh có số thứ tự từ 19 đến 48. 
Cụm thứ 2 bắt đầu bằng học sinh có số thứ 
là 19 cộng với khoảng cách mẫu và bằng 105, 
cụm 2 bao gồm các học sinh có số thứ tự là 105 
đến 134. 
Cụm thứ 3 được tính bằng cách cộng thêm 
khoảng cách mẫu vào con số bắt đầu tính được ở 
cụm thứ 2. 
Tương tự với các cụm còn lại cụm phía sau 
sẽ bằng con số bắt đầu tính được ở cụm liền 
trước cộng với khoảng cách mẫu. 
Thu thập số liệu 
Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi tự 
điền về những đặc điểm bản thân, gia đình và 
TGSDMH. Tình trạng TGSDMH được đánh giá 
bằng bộ câu hỏi “thời gian sử dụng màn hình 
dựa trên các hành vi tĩnh tại dành cho thanh 
thiếu niên của HELENA”(9). Đây là bộ câu hỏi 
được xây dựng bởi Rey-Lopez JP và được đánh 
giá có độ tin cậy cao cho hầu hết các câu hỏi các 
hành vi sử dụng màn hình với K-value >0,7. Khi 
tiến hành nghiên cứu thử trên 30 học sinh chúng 
tối thu được kết quả độ tin cậy nội tại 
Cronbach’s anpha của bộ câu hỏi này là 0,78. 
So sánh với những bộ câu hỏi khác cũng 
khảo sát về TGSDMH như ASAQ (Adolescent 
Sedentary Activity Questionnaire), YLSBQ 
(Youth Leisure-time Sedentary Behavior 
Questionnaire) thì bộ câu hỏi “thời gian sử dụng 
màn hình dựa trên các hành vi tĩnh tại dành cho 
thanh thiếu niên của HELENA” thống kê được 
nhiều hành vi sử dụng màn hình trên nhiều thiết 
bị màn hình khác nhau hơn, ngoài ra cũng có sự 
phân biệt giữa ngày trong tuần và ngày cuối 
tuần do tác giả bộ câu hỏi nhận thấy có sự khác 
nhau trong thời gian sử dụng màn hình giữa các 
ngày đi học và các ngày nghỉ ở học sinh. 
TGSDMH trong một ngày sẽ bằng tổng thời 
gian thực hiện 5 hành vi khảo sát trong một 
ngày. Năm hành vi này gồm: xem TV, chơi trò 
chơi trên máy tính, chơi trò chơi trên các thiết bị 
cầm tay, sử dụng internet cho mục đích sở thích, 
sử dụng internet cho mục đích học tập. Do có sự 
khác biệt về TGSDMH giữa các ngày trong tuần 
(từ thứ 2 đến thứ 6) và các ngày cuối tuần (thứ 7 
và chủ nhật) nên TGSDMH được tính bằng cách 
cộng dồn thời gian thực hiện hành vi đó trong 1 
tuần và chia cho 7 để lấy số trung bình. Mức độ 
sử dụng màn hình gồm 2 giá trị là cao và thấp, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 263
được phân loại dựa vào TGSDMH của học sinh. 
Mức độ cao khi TGSDMH ≥120 phút/ngày(9). 
Phân tích thống kê 
Tần số và tỷ lệ phần trăm đối với các biến 
định tính mô tả đặc điểm bản thân, gia đình và 
mức độ sử dụng màn hình. 
Tuổi được mô tả bằng trung bình và độ lệch 
chuẩn. Thời gian thực hiện các hành vi sử dụng 
màn hình và TGSDMH được mô tả bằng trung 
vị và khoảng tứ phân vị. 
Sử dụng kiểm định Chi bình phương (hoặc 
phép kiểm Fisher thay thế khi có >20% số ô có 
vọng trị <5) để đo lường mối liên quan giữa 
TGSDMH với các biến nhị giá với ngưỡng ý 
nghĩa khi p <0,05. Để đo lường mối liên quan 
giữa TGSDMH với các biến thứ tự như học lực 
và khối lớp dùng kiểm định Chi bình phương 
khuynh hướng. 
Hồi quy Poisson đơn biến và đa biến với tùy 
chọn Robust được sử dụng để xác định mối liên 
quan giữa TGSDMH với tôn giáo, tình trạng 
dinh dưỡng, tình trạng hôn nhân của cha mẹ, 
kinh tế gia đình, nghề nghiệp của cha, học vấn 
của cha, nghề nghiệp của mẹ và học vấn của mẹ. 
Lượng giá mức độ liên quan bằng tỉ số tỷ lệ hiện 
mắc PR với khoảng tin cậy 95%. 
Y đức 
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng 
khoa học khoa Y Tế Công Cộng và Hội đồng đạo 
đức y sinh học của trường Đại học Y Dược TP. 
Hồ Chí Minh số 203/ĐHYD - HĐĐĐ. 
KẾT QUẢ 
Trong tổng số 583 phiếu khảo sát phát ra thu 
lại được 554 phiếu khảo sát đạt yêu cầu. Nên 
tổng số học sinh được đưa vào phân tích là 554 
học sinh. 
Đặc điểm các yếu tố bản thân 
Học sinh tham gia nghiên cứu có tuổi 
trung bình là 16 ± 0,9 tuổi trong đó nhỏ nhất là 
16 tuổi và lớn nhất là 22 tuổi. Trong nghiên 
cứu, tỷ lệ nữ giới nhiều hơn nam giới (53,6% 
nữ và 46,4% nam). Hầu hết là dân tộc Kinh, 
chủ yếu theo đạo Phật. Trong số học sinh khảo 
sát khối 11 chiếm tỷ lệ cao nhất và khối 12 
chiếm tỷ lệ thấp nhất. Hơn một nửa số học 
sinh có học lực khá (50,7%), học lực dưới trung 
bình chiếm 3,2%. Đa số học sinh có tình trạng 
dinh dưỡng ở mức bình thường. 
Đặc điểm các yếu tố gia đình 
Trong nghiên cứu đa số học sinh sống chung 
với người thân, trong đó chủ yếu sống cùng cha 
mẹ (83,7%), tình trạng hôn nhân của cha mẹ học 
sinh đa số là sống chung (83,4%). Điều kiện kinh 
tế gia đình của các học sinh chủ yếu thuộc mức 
trung bình (61,9%), mức giàu có chỉ chiếm 3,4% 
và mức nghèo chiếm 7,1%. Kết quả cho thấy 
phần lớn cha của học sinh có học vấn từ THPT 
trở lên, nghề nghiệp chủ yếu là lao động tự do, 
kinh doanh và công nhân. Có 10 học sinh có cha 
đã qua đời chiếm tỷ lệ 1,8% tổng số học sinh 
tham gia. Khoảng 57,6% mẹ của học sinh có học 
vấn từ THPT trở lên, nghề nghiệp chủ yếu là nội 
trợ và kinh doanh. 
Đặc điểm thời gian sử dụng màn hình 
Bảng 1: Tỷ lệ thời gian sử dụng màn hình cao 
(n=554) 
Đặc tính Tần số Tỷ lệ % 
Mức độ sử dụng màn hình 
Cao 517 93,3 
Thấp 37 6,7 
Theo kết quả nghiên cứu, TGSDMH của học 
sinh có trung vị là 428,6 phút với khoảng tứ 
phân vị từ 277,4 – 581,0 phút trong đó giá trị nhỏ 
nhất là 0 phút và cao nhất là 1174 phút. Trong 
nghiên cứu, theo bộ câu hỏi về TGSDMH của 
HELENA thì tỷ lệ học sinh có mức độ TGSDMH 
cao là 93,3% (Bảng 1). 
Trong các hành vi sử dụng màn hình được 
khảo sát, “xem TV” là hành vi có TGSDMH ít 
nhất (23,6 phút/ngày) và hành vi có TGSDMH 
nhiều nhất là “chơi trò chơi trên các thiết bị cầm 
tay” với hơn 2 giờ sử dụng mỗi ngày. Học sinh 
chỉ dành khoảng 45 phút/ngày để sử dụng màn 
hình phục vụ cho học tập (Bảng 2). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 264
Bảng 2: Đặc điểm các hành vi sử dụng màn hình 
(phút/ngày) (n = 554) 
Đặc tính 
Trung 
vị 
Khoảng tứ 
phân vị 
Xem TV 23,6 0,0 – 90,0 
0,0 – 124,3 
57,9 – 232,1 
57,9 – 215,0 
15,0 – 90,0 
Chơi trò chơi trên máy tính 43,9 
Chơi trò chơi trên các thiết bị cầm tay 124,3 
Sử dụng internet theo sở thích 111,4 
Sử dụng internet để học tập 45,0 
Các yếu tố liên quan đến TGSDMH theo mô 
hình hồi quy Poisson đa biến 
Nghiên cứu cho thấy có 5 yếu tố liên quan 
đến TGSDMH bao gồm: giới tính, khối lớp, 
học lực, điều kiện kinh tế gia đình, nghề 
nghiệp của mẹ. Kết quả phân tích mối liên 
quan theo mô hình hồi quy đa biến Poisson cụ 
thể như trong Bảng 3. 
Học sinh nam có tỷ lệ TGSDMH mức độ cao 
cao hơn học sinh nữ 1,05 lần với phc = 0,017 và 
KTChc 95% là 1,01–1,10. Học sinh lớp 12 có tỷ lệ 
TGSDMH cao thấp nhất, cứ giảm xuống một 
khối lớp thì tỷ lệ TGSDMH cao tăng lên 1,05 lần 
với phc = 0,003 và KTChc 95% là 1,02–1,08. Cứ 
giảm xuống một bậc học lực thì tỷ lệ TGSDMH 
cao tăng lên 1,05 lần với phc = 0,011 và KTChc 95% 
là 1,01–1,09. 
Những học sinh thuộc những gia đình có 
điều kiện kinh tế trung bình có tỷ lệ TGSDMH 
mức độ cao cao hơn học sinh thuộc những gia 
đình nghèo 1,24 lần với phc = 0,010 và KTChc 95% 
là 1,05–1,47. Những học sinh có mẹ làm công 
việc kinh doanh có tỷ lệ TGSDMH mức độ cao 
cao hơn học sinh có mẹ là công nhân 1,12 lần với 
phc = 0,016 và KTChc 95% là 1,02–1,22. Những học 
sinh có mẹ là lao động tự do có tỷ lệ TGSDMH 
cao cao hơn học sinh có mẹ là công nhân 1,12 lần 
với phc = 0,008 và KTChc 95% là 1,03–1,23. Học 
sinh có mẹ thuộc nhóm nghề nghiệp khác (nghỉ 
hưu, thợ may, nghệ sĩ, không rõ nghề nghiệp), 
có tỷ lệ TGSDMH mức độ cao cao hơn học sinh 
có mẹ là công nhân 1,14 lần với phc = 0,016 và 
KTChc 95% là 1,05–1,24. 
Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến TGSDMH theo mô hình hồi quy Poisson đa biến (n=554) 
Đặc tính TGSDMH cao Tần số (%) Giá trị pthô PR thô (KTC 95% thô) Giá trị phc PRhc (KTC 95%hc) 
Giới 
Nam 
Nữ 
247 (96,1) 
270 (90,9) 
0,014 
1,06 (1,01 – 1,10) 
0,017 
1,05 (1,01–1,10) 
Khối lớp 
Lớp 12 
Lớp 11 
Lớp 10 
140 (87,0) 
189 (95,0) 
188 (96,9) 
<0,001* 
1 
1,05 (1,02 – 1,09) 
1,11 (1,04 - 1,18) 
0,003* 
1 
1,05 (1,02 –1,08) 
1,10 (1,03 –1,17) 
Học lực 
Giỏi 
Khá 
TB và dưới TB 
47 (81,0) 
261 (92,9) 
209 (97,2) 
<0,001* 
1 
1,07 (1,03 – 1,12) 
1,14 (1,06 – 1,25) 
0,011* 
1 
1,05 (1,01–1,09) 
1,10 (1,02–1,18) 
Kinh tế gia đình 
Nghèo 
Trung bình 
Khá giả 
Giàu có 
30 (76,9) 
331 (96,5) 
138 (90,2) 
18 (94,7) 
0,010 
0,083 
0,043 
1 
1,25 (1,05 - 1,49) 
1,17 (0,98 - 1,40) 
1,23 (1,01 - 1,51) 
0,010 
0,143 
0,069 
1 
1,24 (1,05 –1,47) 
1,13 (0,96 –1,34 ) 
1,19 (0,99 –1,43) 
Nghề nghiệp của mẹ 
Công nhân 
Kinh doanh 
Nhân viên nhànước 
Nội trợ/Thất nghiệp 
Lao động tự do 
Khác 
69 (86,3) 
108 (93,9) 
73 (93,6) 
183 (94,8) 
70 (94,6) 
14 (100,0) 
0,093 
0,128 
0,079 
0,047 
0,001 
1 
1,09 (0,99 – 1,20) 
1,08 (0,98 – 1,21) 
1,10 (0,99 – 1,22) 
1,10 (1,00 – 1,21) 
1,16 (1,06 – 1,27) 
0,016 
0,051 
0,059 
0,008 
0,003 
1 
1,12 (1,02 –1,22) 
1,10 (1,00 –1,21) 
1,10 (1,00 –1,21) 
1,12 (1,03 –1,23) 
1,14 (1,05 –1,24) 
phc: p hiệu chỉnh, PRhc: PR hiệu chỉnh, KTChc: KTC hiệu chỉnh, *:Kiểm định Chi bình phương khuynh hướng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 265
BÀN LUẬN 
Theo ghi nhận của nghiên cứu (Bảng 2) hành 
vi sử dụng màn hình ít nhất là xem TV và hành 
vi sử dụng màn hình nhiều nhất là giải trí trên 
các thiết bị cầm tay như điện thoại thông minh, 
máy tính bảng, ipad. Điều này là một xu hướng 
được ghi nhận ở hầu hết các nghiên cứu về 
TGSDMH. Do sự phát triển và cá nhân hóa 
những thiết bị màn hình, những thiết bị màn 
hình cầm tay có kích thước nhỏ gọn thuận lợi 
cho việc di chuyển, có thể sử dụng bất cứ khi 
nào và ở đâu, trong khi TV chỉ cố định ở một chỗ 
chủ yếu là tại nhà riêng. Thêm vào đó những 
loại hình giải trí trên các thiết bị cầm tay là đa 
dạng và phong phú hơn khi vừa có thể sử dụng 
tính năng xem phim xem video như TV vừa có 
thể tham dự những loại hình giải trí tương tác. 
Đó chính là nguyên nhân mà TGSDMH dành 
cho các thiết bị màn hình cầm tay nhiều hơn hẳn 
so với thời gian xem TV. Bên cạnh đó các học 
sinh chỉ dành khoảng 45 phút mỗi ngày để sử 
dụng màn hình phục vụ cho học tập còn hầu hết 
thời gian là dành cho các hoạt động giải trí, 
tương tác khác. Điều này nói lên những vấn đề 
tồn tại trong mục đích sử dụng màn hình và việc 
kiểm soát mục đích sử dụng màn hình của con 
em mình của các bậc phụ huynh. 
TGSDMH trung vị ghi nhận được trong 
nghiên cứu là 428,6 phút tương đương với hơn 
7,1 giờ sử dụng màn hình mỗi ngày, thời gian 
này tương đương với TGSDMH ở độ tuổi từ 15 
đến 18 được thống kê bởi CDC năm 2018 là 7,5 
giờ mỗi ngày (2). Tuy nhiên TGSDMH trung bình 
của nghiên cứu cao gấp 3,5 thời gian được 
khuyến cáo (1,11) và vượt xa mức TGSDMH trung 
bình trong nghiên cứu vào năm 2010 của 
Nguyễn Ngọc Vân Phương là 2,2 giờ(8). 
Tỷ lệ học sinh có TGSDMH mức độ cao 
trong nghiên cứu là 93,3% (Bảng 1), trong đó tỷ 
lệ TGSDMH cao của nam là 96,1% và của nữ là 
90,9% (Bảng 3). Tỷ lệ này cao hơn những nghiên 
cứu khác đã thực hiện trên thế giới, tuy nhiên có 
thể thấy được xu hướng tăng nhanh của tỷ lệ 
TGSDMH cao khi so sánh kết quả của các 
nghiên cứu theo mốc thời gian, xu hướng này 
cũng được ghi nhận trong một nghiên cứu đoàn 
hệ ở Việt Nam, nghiên cứu kết luận rằng 
TGSDMH ở học sinh tăng 28% trong 5 năm.(7) 
Tính từ 2004 nghiên cứu tại Tây Ban Nha có 34% 
nam và 43% nữ có mức sử dụng màn hình cao(10), 
năm 2010 tại Việt Nam tỷ lệ có TGSDMH cao là 
53,8%(8) đến năm 2015 tại Brazil tỷ lệ TGSDMH 
cao là 79,5% và tỷ lệ này ở nam là 84,3%(4), ở nữ 
là 76,1%. nghiên cứu năm 2016 của Christofaro 
DG ở Brazil cho kết quả tỷ lệ TGSDMH cao là 
93,8% ở nam và 87,2% ở nữ(3). Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi thu được cao hơn kết quả năm 
2016 tại Brazil cũng nằm trong xu hướng tăng 
TGSDMH nêu trên. Và không thể loại trừ khả 
năng xu hướng tăng TGSDMH này sẽ vẫn còn 
tiếp diễn trong thời gian tới. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi của các 
đối tượng là tương đồng với khối lớp, lớp 10 là 
16 tuổi, lớp 11 là 17 tuổi và lớp 12 là 18 tuổi. Kết 
quả cho thấy những học sinh ở khối lớp nhỏ hơn 
có tỷ lệ TGSDMH cao cao hơn, đồng nghĩa 
nhóm học sinh có tuổi thấp hơn có tỷ lệ 
TGSDMH cao cao hơn (Bảng 3). Điều này phù 
hợp với kết quả của các đã thu được trước đây, 
theo Joana Marcela Sales de Lucena có mối liên 
quan giữa TGSDMH và lứa tuổi của học sinh, cụ 
thể tỷ lệ này ở nhóm tuổi 14 - 15 là 82,1%, ở 
nhóm tuổi 16 - 17 là 79,3% và ở nhóm tuổi 18 - 19 
là 71,1%(4). 
Kết quả phân tích cũng cho thấy mối liên 
quan giữa học lực và mức độ sử dụng màn hình. 
Theo đó, những học sinh có học lực càng kém thì 
có tỷ lệ TGSDMH cao càng cao (Bảng 3). Kết quả 
này phù hợp với những kết luận của Wang Hao 
trong nghiên cứu thực hiện năm 2017 tại Chiết 
Giang trung Quốc, theo Wang Hao những học 
sinh có học lực khá có tỷ lệ TGSDMH mức độ 
cao gấp 1,55 những học sinh có học lực giỏi, 
những học sinh có học lực trung bình trở xuống 
có tỷ lệ TGSDMH mức độ cao gấp 2,35 lần nhóm 
học sinh giỏi(12). 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên 
quan giữa tình trạng kinh tế gia đình và 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 266
TGSDMH, theo đó những học sinh thuộc những 
gia đình nghèo có tỷ lệ TGSDMH cao thấp hơn 
những học sinh thuộc nhóm kinh tế gia đình 
trung bình trở lên (Bảng 3). Kết quả này tương 
đồng với kết quả nghiên cứu của Joana(4). Sự 
khác biệt về tỷ lệ TGSDMH cao giữa các nhóm 
điều kiện kinh tế gia đình có thể lý giải do khả 
năng tiếp cận và sở hữu các thiết bị màn hình 
giữa các nhóm kinh tế gia đình là không giống 
nhau. Vì khả năng kinh tế hạn hẹn hơn, những 
học sinh ở những gia đình nghèo sẽ ít có cơ hội 
sở hữu những thiết bị màn hình riêng, hoặc sở 
hữu cùng lúc nhiều thiết bị màn hình như 
những học sinh thuộc những gia đình có điều 
kiện kinh tế cao hơn. 
Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm được mối liên 
quan giữa nghề nghiệp của mẹ và TGSDMH của 
học sinh (Bảng 3), theo đó những học sinh có mẹ 
là công nhân có tỷ lệ TGSDMH cao thấp nhất 
(86,3%), sau khi phân tích bằng mô hình đa biến 
Poisson kết quả thu được có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp của mẹ là công 
nhân với kinh doanh, lao động tự do và những 
nghề nghiệp khác. Sự khác biệt này có thể do 
nhóm có mẹ làm công nhân thường có điều kiện 
kinh tế gia đình chưa cao, nên ít khả năng tiếp 
cận với các thiết bị màn hình. 
Nghiên cứu có điểm mạnh là sử dụng 
phương pháp lấy mẫu PPS, cỡ mẫu đủ để đại 
diện cho dân số mục tiêu. Nghiên cứu sử dụng 
bộ câu hỏi tự điền nên ít tốt kém, không tốn 
nhiều thời gian và hạn chế được những sai lệch 
do người phỏng vấn. Bộ câu hỏi TGSDMH dựa 
trên các hành vi tĩnh tại dành cho thanh thiếu 
niên của HELENA thống kê đầy đủ các hành vi 
sử dụng màn hình trên nhiều thiết bị màn hình 
khác nhau, với độ tin cậy nội tại Cronbach’s 
Alpha đạt trên 0,7 đã được kiểm tra qua nghiên 
cứu thử trên 30 học sinh trước khi tiến hành 
nghiên cứu. Nghiên cứu dùng mô hình Poisson 
đa biến để xác định các yếu tố thực sự liên quan 
đến TGSDMH. Tuy nhiên hạn chế của nghiên 
cứu là thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả nên 
chỉ phản ánh được tình trạng TGSDMH của học 
sinh tại thời điểm nghiên cứu mà không thể hiện 
được mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố liên 
quan. Thêm vào đó, nghiên cứu sử dụng bộ câu 
hỏi tự điền nên câu trả lời phụ thuộc vào độ 
trung thực của học sinh. Các tài liệu liên quan 
đến TGSDMH ở Việt Nam khá ít, do đó nghiên 
cứu sử dụng tài liệu, y văn từ nước ngoài để 
tham khảo và so sánh nên có thể dẫn đến sự 
không tương đồng về một số đặc điểm kinh tế - 
văn hóa - xã hội. 
KẾT LUẬN 
TGSDMH trung vị là 428,6 phút, trong đó 
thời gian dành cho “xem TV” là ít nhất và thời 
gian “chơi trò chơi trên các thiết bị cầm tay” là 
nhiều nhất. TGSDMH phục vụ cho việc học chỉ 
chiếm khoảng 45 phút/ngày. Tỷ lệ học sinh có 
TGSDMH mức độ cao là 93,3%, trong đó nam là 
96,1% nữ là 90,9%. Các yếu tố liên quan đến 
TGSDMH gồm giới tính, khối lớp, học lực, điều 
kiện kinh tế gia đình và nghề nghiệp của mẹ. 
Từ những kết quả thu được từ nghiên cứu 
chúng tôi có một số kiến nghị rằng các học sinh 
nên hạn chế tối đa thời gian tiếp xúc với màn 
hình, không quá 2 giờ một ngày. Sử dụng màn 
hình với mục đích lành mạnh và thiết thực hơn 
như phục vụ cho học tập nhiều hơn thay vì chơi 
trò chơi. Bên cạnh đó các bậc phụ huynh cũng 
cần quan tâm và kiểm soát các loại thiết bị, thời 
gian cũng như mục đích học sinh sử dụng các 
thiết bị màn hình. Thêm vào đó cha mẹ có thể 
đặt ra các quy định về giờ giấc và mục đích sử 
dụng thiết bị màn hình của học sinh, đặc biệt là 
những học sinh nam, những học sinh có học lực 
kém và những học sinh thuộc các khối lớp nhỏ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Australian Government Department of Health (2017). 
Australia's Physical Activity and Sedentary Behaviour 
Guidelines. URL: 
health-pubhlth-strateg-phys-act-guidelines#apa1317. 
2. Centers for Disease Control and Prevention (2018). Screen Time 
vs. Lean Time Infographic. URL: 
https://www.cdc.gov/nccdphp/dnpao/multimedia/infographics/
getmoving.html. 
3. Christofaro DG, De Andrade SM, Mesas AE, Fernandes RA, 
Farias JJC (2016). "Higher screen time is associated with 
overweight, poor dietary habits and physical inactivity in 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 267
Brazilian adolescents, mainly among girls". Eur J Sport Sci, 
16(4):l498-506. 
4. de Lucena JM, Cheng LA, Cavalcante TL, da Silva VA, de Farias 
JJC (2015). "Prevalence of excessive screen time and associated 
factors in adolescents". Rev Paul Pediatr, 33(4):407-14. 
5. Ghekiere A, Van Cauwenberg J, Vandendriessche A, Inchley J, 
et al (2018). "Trends in sleeping difficulties among European 
adolescents: Are these associated with physical inactivity and 
excessive screen time?" Int J Public Health, 64(4):487-498. 
6. Maras D, Flament MF, Murray M, et al (2015). "Screen time is 
associated with depression and anxiety in Canadian youth". 
Preventive Medicine, 73:133-138. 
7. Nguyen HHD Trang, van der Ploeg HP, Hardy LL, et al (2013). 
"Longitudinal sedentary behavior changes in adolescents in Ho 
Chi Minh City". Am J Prev Med, 44(3):223-30. 
8. Nguyen NV Phuong, Robert AR, et al (2016). "Excessive screen 
viewing time by adolescents and body fatness in a developing 
country: Vietnam". Asia Pac J Clin Nutr, 25(1):174-83. 
9. Rey-Lopez JP, Ruiz JR, Ortega FB, Verloigne M, Vicente-
Rodriguez G, Gracia-Marco L, et al (2012). "Reliability and 
validity of a screen time-based sedentary behaviour 
questionnaire for adolescents: The HELENA study". Eur J Public 
Health, 22(3):373-7. 
10. Serrano-Sanchez JA, Martí-Trujillo S, Lera-Navarro A, Dorado-
García C, González-Henríquez JJ, Sanchís-Moysi J (2011). 
"Associations between screen time and physical activity among 
Spanish adolescents". PLoS One, 6(9):e24453. 
11. Tremblay MS, LeBlanc AG, Janssen I (2011). "Canadian 
sedentary behaviour guidelines for children and youth". Appl 
Phys Nutr Metab, pp.36 
12. Wang H, Zhong J, Hu R, Fiona B, Yu M, Du H (2018). 
"Prevalence of high screen time and associated factors among 
students: a cross-sectional study in Zhejiang, China". BMJ Open, 
8(6):e021493. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019