Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 204 
32-nc1078 GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ CỦA ASYMMETRIC DIMETHYLARGININE 
VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH 
Ở BỆNH NHÂN VIÊM KHỚP DẠNG THẤP 
Trần Hồ Trúc Quỳnh*, Lê Đình Thanh**, Võ Thành Toàn***, Vũ Quang Huy**** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nhằm xác định nồng độ Asymmetric Dimethylarginine (ADMA) ở bệnh nhân viêm khớp dạng 
thấp (VKDT) so với nhóm người không có bệnh VKDT. Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ ADMA với một số 
yếu tố nguy cơ tim mạch (YTNCTM) ở nhóm bệnh nhân VKDT. 
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Là nghiên cứu cắt ngang có đối chứng. Chọn 20 mẫu huyết 
tương bệnh nhân VKDT và 20 mẫu huyết tương nhóm người không bệnh VKDT làm nhóm chứng. Thu thập 
thông tin bệnh nhân và các thông số khác. Tiến hành đo nồng độ ADMA bằng phương pháp hấp thụ miễn dịch 
liên kết enzyme (ELISA). 
Kết quả: Giá trị nồng độ của ADMA trung bình ở nhóm bệnh nhân VKDT cao hơn so với nhóm chứng. Có 
mối tương quan thuận giữa nồng độ ADMA với nồng độ RF (Rheumatoid factor) và mối tương quan nghịch 
giữa nồng độ ADMA với nồng độ HDL-C. 
Kết luận: Nồng độ ADMA được định lượng ở bệnh nhân VKDT giúp phát hiện sớm nguy cơ tim mạch và 
góp phần làm giảm tỉ lệ bệnh nhân tử vong. 
Từ khóa: viêm khớp dạng thấp 
ABSTRACT 
CONCENTRATION VALUE OF ASYMMETRIC DIMETHYLARGININE AND RELATIONSHIP WITH 
CARDIOVASCULAR RISK FACTORS IN RHEUMATOID ARTHRITIS 
Tran Ho Truc Quynh, Le Dinh Thanh, Vo Thanh Toan, Vu Quang Huy 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 204 – 207 
Ojectives: To determine the concentration of Asymmetric Dimethylarginine (ADMA) in patients with 
rheumatoid arthritis (RA) compared to the group of people without rheumatoid arthritis. Investigation of the 
relationship between ADMA concentration and cardiovascular risk factors in rheumatoid patients. 
Marterials and methods: This is a controlled cross-sectional study. Select 20 plasma samples of 
rheumatoid patients and 20 plasma samples of non-rheumatoid patients as control groups. Collect patient 
information and other parameters. Plasma ADMA levels were determined by enzyme linked immunosorbent 
assay (ELISA). 
Results: The average concentration of ADMA in patients with rheumatoid arthritis was higher than in the 
control group. There is a positive correlation between ADMA concentration and RF (Rheumatoid factor) 
concentration and an inverse correlation between ADMA concentration and HDL-C concentration. 
Conclusion: Quantitative ADMA concentrations in patients with rheumatoid arthritis help to detect early 
cardiovascular risk and contribute to reducing the rate of death patients. 
*Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **BV Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh 
***Khoa Chấn thương chỉnh hình BV Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh 
****Bộ môn Xét nghiệm Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: CN Trần Hồ Trúc Quỳnh ĐT: 0772162670 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 205
Key words: rheumatoid arthritis 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh 
tự miễn, mạn tính, đặc trưng bởi tế bào hoạt dịch 
tăng sinh dẫn đến phá hủy các khớp và sự tham 
gia của nhiều hệ thống. Hiện nay, bệnh VKDT 
chiếm khoảng 1% dân số nhưng nguy cơ tử 
vong trung bình tăng từ 0,9 đến 3 lần, với 35% 
đến 50% là do nguy cơ của các yếu tố tim 
mạch(3,9). Viêm khớp dạng thấp chiếm tỉ lệ tử 
vong thấp so với dân số chung nhưng gây ảnh 
hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống của 
bệnh nhân và tốn kém về mặt chi phí điều trị 
nếu không giảm thiểu các biến chứng liên quan, 
đặc biệt là biến chứng về tim mạch ở bệnh nhân 
VKDT hiện nay chưa được quan tâm. 
ADMA là enzyme có hoạt động sinh học 
thông qua việc ức chế và điều hòa tổng hợp 
nitric oxide (NO). NO có một vai trò quan trọng 
trong điều hòa hoạt động của các tế bào nội mạc 
mạch máu, ức chế kết dính tiểu cầu, ngăn cản 
tập hợp bạch cầu gây ứ đọng huyết khối, NO 
giảm trong trường hợp tăng cholesterol, giãn 
mạch, kết dính tiểu cầu, tăng độ kết dính nội mô 
mạch máugia tăng nguy cơ bệnh tim mạch(4). 
Nồng độ ADMA tăng dẫn đến NO giảm làm gia 
tăng nguy cơ tử vong ở quần thể bệnh nhân 
VKDT, là một chỉ dấu sinh học tiên lượng sớm 
biến chứng tim mạch quan trọng của bệnh 
VKDT, đó cũng là mục tiêu chính trong nghiên 
cứu này. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Định lượng nồng độ ADMA ở bệnh nhân 
VKDT ở khoa Cơ xương khớp tại Bệnh viện 
Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh và so sánh 
với nhóm người không có bệnh VKDT. 
Khảo sát mối liên quan và tương quan giữa 
nồng độ ADMA với các yếu tố nguy cơ tim mạch. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân VKDT đến điều trị tại khoa Cơ 
xương khớp bệnh viện Thống Nhất thành phố 
Hồ Chí Minh từ tháng 9/2018 đến tháng 2/1019. 
Cỡ mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện. Nghiên cứu loạt ca 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Nhóm bệnh: 20 bệnh nhân được chẩn đoán 
viêm khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn của Hội 
Thấp khớp học Hoa Kỳ và Liên đoàn chống 
Thấp khớp Châu Âu 2010 (ACR/EULAR 2010)(1). 
Nhóm chứng: 20 người được chẩn đoán 
không có bệnh VKDT. 
Phương pháp tiến hành 
Bệnh nhân đến điều trị bệnh VKDT tại khoa 
Cơ xương khớp được chỉ định làm các xét 
nghiệm bilan lipid, glucose lúc đói. Mẫu máu 
được lấy vào buổi sáng sau khi bệnh nhân nhịn 
ăn 8h. Mẫu máu được bảo quản đúng quy định. 
Thu thập thông tin hành chính: tên, tuổi, địa 
chỉ, nghề nghiệp. 
Thu thập các thông tin về tiền sử của bệnh 
nhân như: hút thuốc lá, tăng huyết áp, đái tháo 
đường,... 
Thu thập các chỉ số nhân trắc: chiều cao, 
cân nặng,.... 
Xét nghiệm ADMA: 
+Bảo quản mẫu huyết tương EDTA ở -20oC 
trước khi làm xét nghiệm phân tích ELISA. 
+Nguyên lý: Phương pháp định lượng 
ADMA là phương pháp hấp thụ miễn dịch liên 
kết enzyme (ELISA) có cạnh tranh. 
+Đơn vị nồng độ: µmol/L. 
+Thuốc thử được cung cấp bởi hãng 
Immundiadnostik AG (ADMA ELISA Kit), Đức. 
Xử lí số liệu 
Sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2010 và 
Stata 14.0. 
Các phép so sánh có ý nghĩa khi p< 0,05. So 
sánh trung bình 2 nhóm độc lập bằng T-test; 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 206 
khảo sát mối liên hệ giữa các đối tượng bằng , 
đánh giá mối tương quan giữa 2 nhóm độc lập 
bằng phương pháp hồi quy, lập phương trình 
dự báo hồi quy tuyến tính. 
KẾT QUẢ 
So sánh nồng độ Asymmetric 
Dimethylarginine (ADMA) ở nhóm bệnh và 
nhóm chứng 
Bảng 1. Nồng độ ADMA ở nhóm bệnh và nhóm chứng 
Nồng độ ADMA n X ± SD P (T-test) 
Nhóm chứng 20 0,47 ± 0,12 
Nhóm bệnh 20 0,90 ± 0,23 0,00* 
Nồng độ ADMA ở bệnh nhân VKDT cao 
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng 
(Bảng 1). 
Nồng độ ADMA theo tuổi của nhóm nghiên cứu 
Bảng 2. Nồng độ ADMA theo tuổi của nhóm nghiên cứu 
 N X ± SD Giá trị p 
40 – 50 tuổi 26 19,35 ± 7,06 > 0,05 
≥ 51 tuổi 14 18,6 ± 6,7 > 0,05 
X : trung bình, SD: độ lệch chuẩn 
Nồng độ ADMA trung bình theo tuổi ở 2 
nhóm nghiên cứu không có khác biệt ý nghĩa 
thống kê (p>0,05) (Bảng 2). 
Nồng độ ADMA theo giới của nhóm nghiên cứu 
Bảng 3. Nồng độ ADMA theo giới của nhóm nghiên cứu 
 N (%) X ± SD Giá trị p 
Nam 8 19,01 ± 9,02 > 0,05 
Nữ 32 20,2 ± 8,01 > 0,05 
X : trung bình, SD: độ lệch chuẩn 
Nồng độ ADMA trung bình theo tuổi nam 
và nữ không có khác biệt ý nghĩa thống kê 
(p>0,05) (Bảng 3). 
Nồng độ ADMA theo huyết áp 
Bảng 4. Nồng độ ADMA theo huyết áp 
Nồng độ ADMA N X ± SD p 
Tăng huyết áp 22 21,03 ± 8.07 > 0,05 
Không tăng 
huyết áp 
18 19,08 ± 9,06 > 0,05 
Nồng độ trung bình của ADMA ở hai nhóm 
tăng huyết áp và không tăng huyết áp không có 
sự khác biệt về ý nghĩa thống kê (p>0,05) (Bảng 4). 
Nồng độ ADMA theo yếu tố RF (Rheumatoid 
factor) và các yếu tố nguy cơ tim mạch 
Bảng 5. Nồng độ ADMA theo RF và các yếu tố nguy 
cơ tim mạch 
 R Giá trị p 
RF (Rheumatoid factor) 0,58 < 0,05 
BMI 0,21 > 0.05 
Cholesterol 0,16 > 0.05 
Triglycerid 0,25 > 0.05 
Glucose 0,12 > 0.05 
HDL-C - 0,28 < 0.05 
LDL-C 0,14 > 0.05 
Có mối tương quan thuận của nồng độ 
ADMA với yếu tố RF và có ý nghĩa thống kê với 
p<0,05, tương quan nghịch với nồng độ HLD-C 
và có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nồng độ 
ADMA có mối tương quan thuận với nồng độ 
BMI, cholesterol, triglycerid, glucose, LDL-C 
nhưng không có ý nghĩa thống kê với p>0,05 
(Bảng 5). 
BÀN LUẬN 
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy không có sự khác 
biệt về giới giữa 2 nhóm bệnh và nhóm chứng, 
và kết quả của Bảng 2 cũng cho thấy không có sự 
khác nhau về độ tuổi giữa nhóm bệnh nhân 
VKDT và nhóm chứng. Như vậy cho thấy mẫu 
nghiên cứu có sự tương đồng về giới và cả độ 
tuổi trung bình giữa 2 nhóm bệnh-chứng. 
Trong nghiên cứu này, nồng độ trung bình 
của ADMA ở nhóm VKDT là 0,90 ± 0,23 µmol/L, 
nồng độ này cao hơn và có ý nghĩa so với nồng 
độ ở nhóm chứng là 0,47 ± 0,12 µmol/L (p<0,001) 
(Bảng 1). Sự tăng nồng độ ADMA là do đặc 
trưng bệnh viêm khớp dạng thấp là tình trạng 
viêm mãn tính, làm rối loạn chức năng nội mô là 
giai đoạn đầu tiên cho sự xuất hiện của xơ vữa 
động mạch. 
Các cơ chế làm nồng độ ADMA gia tăng ở 
bệnh nhân VKDT được giải thích như sau: 
1. Do giảm sự hoạt động của DDAH, một 
loại enzym quan trọng trong việc điều hòa 
nồng độ ADMA(8). ADMA được hình thành từ 
sự thoái hóa protein từ các arginine được 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 207
methyl hóa. 
2. Hoạt động sinh học của DDAH tỉ lệ 
thuận với sự hiện diện của yếu tố hoại tử khối 
u TNFα, NOS và S-nytrosylation(7), người ta 
đưa ra giả thuyết rằng sự gia tăng của ADMA 
có phụ thuộc vào nồng độ giảm của DDAH 
trong huyết tương. Sự hiện diện lâu dài của 
các cytokine như IL-1a, IL-1b, IL-6 và TNFα và 
CRP từ mô hoạt dịch ảnh hưởng trực tiếp đến 
hệ thống nội mô làm rối loạn chức năng nội 
mô ở bệnh nhân VKDT. 
3. Khả năng thứ hai làm tăng ADMA là do 
quá trình oxy hóa trầm trọng ở các mô ở bệnh 
VKDT làm tăng thoái hóa protein arginine 1N-
methyltranferase(6), sự thoái hóa protein này dẫn 
đến việc hình thành ADMA. 
4. Khả năng thứ ba là do viêm bao hoạt dịch 
trong bệnh VKDT với sự tăng sinh hóa sợi mạnh 
của tế bào nội mô mạch máu (2).Các tế bào nội 
mô sẽ liên tục giải phóng ADMA. Sự gia tăng 
lặp lại của các tế bào nội mô hóa sợi trong VKDT 
cùng với sự hình thành liên tiếp của ADMA 
trong quá trình thoái hóa protein dẫn đến sự gia 
tăng ADMA. 
5. Quá trình thiếu oxy trong bao hoạt dịch 
vùng viêm ở bệnh nhân VKDT làm giảm biểu 
hiện của DDAH(2). 
Từ vài giả thuyết trên, ta thấy được nồng độ 
ADMA là dấu ấn huyết thanh học gia tăng khi 
có tình trạng rối loạn nội mô, là bước đầu của 
hình thành các mảng xơ vữa, lâu dài dẫn đến 
nguy cơ về tim mạch. 
Qua kết quả từ Bảng 5, thấy được nồng độ 
ADMA có mối tương quan với yếu tố RF, theo 
nghiên cứu của Spasovski và cộng sự nghiên 
cứu giá trị chẩn đoán của ADMA và xác định 
như một chỉ dấu đánh giá rối loạn chức năng nội 
mô ở bệnh nhân VKDT, kết quả cho thấy bệnh 
nhân VKDT với RF dương tính có 57,14% 
ADMA tăng(5), và cũng trong nghiên cứu này các 
yếu tố về cholesterol, triglycerid, LDL-C là một 
yếu tố độc lập với sự rối loạn chức năng nội mô 
ở bệnh nhân VKDT nên không thấy được ý 
nghĩa thống kê có liên quan. 
KẾT LUẬN 
Như vậy, nồng độ ADMA như một chỉ dấu 
sinh học sớm để tiên lượng nguy cơ tim mạch 
cho bệnh nhân VKDT mà hiện nay vấn đề này 
không được quan tâm cần thiết. Giá trị của 
ADMA ở bệnh nhân VKDT góp phần giúp cho 
các nhà lâm sàng có định hướng rõ hơn trong 
việc điều trị và giảm thiểu các biến chứng về tim 
mạch cho bệnh nhân, giúp cho chất lượng cuộc 
sống bệnh nhân tốt hơn và giảm chi phí điều trị 
cho các biến chứng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aletaha D1, Neogi T, Silman AJ, et al (2010). "An American 
College of Rheumatology/European League Against 
Rheumatism Collaborative Initiative". Arthritis Rheumatism, 
62(9): 2569-81. 
2. Americh L, Middleton J, Gayon R, et al (2004). "Endothelial cell 
phenotypes in the rheumatoid synovium: activated, angiogenic, 
apoptotic and leaky". Arthritis Research and Therapy, 6(2):60-72. 
3. Barber Chamoux N, Soubrier M, Tatar Z, Couderc M, Dubost JJ, 
Mathieu S (2014). "Cardiovascular risk in rheumatoid arthritis". 
Joint Bone Spine, (81):298-302. 
4. Sandoo A, van Zanten VJ, Metsios GS, Carroll D and Kitas GD 
(2010). "The endothelium and its role in regulating vascular 
tone". Open Cardiovascular Medicine Journal, 4(1):302-312. 
5. Spasovski D, Latifi A, Osmani B, et al (2013). "Determination of 
the diagnostic values of asymmetric dimethylarginine as an 
indicator for evaluation of the endothelial dysfunction in 
patients with rheumatoid arthritis". Arthritis Rheum, doi: 
10.1155/2013/818037. 
6. Sydow K, Boger RH, Borlak J, et al (2000). "LDL cholesterol 
upregulates synthesis of asymmetrical dimethylarginine in 
human endothelial cells: involvement of S-adenosylmethionine-
dependent methyltransferases". Circulation Research, 87(2):99-105. 
7. Tsao PS, Ito A, Adimoolam S, Kimoto M, et al (1999). "Novel 
mechanism for endothelial dysfunction: dysregulation of 
dimethylarginine dimethylaminohydrolase". Circulation,, 
99(24):3092-3095. 
8. Vallance P and Leiper J (2004). "Cardiovascular biology of the 
asymmetric dimethylarginine: dimethylarginine 
dimethylaminohydrolase pathway". Arteriosclerosis, Thrombosis, 
and Vascular Biology, 24 (6):1023-1030. 
9. Wolfe F, Scott DL, Huizinga TW (2010). "Rheumatoid arthritis". 
Lancet, 376:1094-108. 
Ngày nhận bài báo: 15/05/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/05/2019 
Ngày bài báo được đăng: 02/07/2019