Thực trạng và phương hướng phát triển sản xuất các loại cây ăn trái đến năm 2015

Tài liệu Thực trạng và phương hướng phát triển sản xuất các loại cây ăn trái đến năm 2015: Thực trạng và phương hướng phát triển sản xuất các loại cây ăn trái đến năm 2015 2006, Trung tâm Thông tin Thương mại Phát huy lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng ở một nước nhiệt đới, các tỉnh tại Việt Nam đã hình thành các vùng nguyên liệu trái cây khá tập trung phục vụ cho chế biến công nghiệp và tiêu dùng. Đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long có diện tích trồng cây ăn trái lớn nhất, chiếm khoảng 36,5% diện tích cả nước. Tổng lượng giống cây ăn trái các tỉnh ĐBSCL sản xuất bình quân trong vài năm gần đây vào khoảng 26 đến 27 triệu cây/năm. Số lượng giống cây ăn trái này được lưu thông khắp cả nước kể cả sang một số nước láng giềng. Cả nước hiện có khoảng 765.000 ha cây ăn trái, sản lượng hơn 6,5 triệu tấn với những loại trái cây chủ yếu như: dứa, chuối, cam, quýt, bưởi, xoài, thanh long, vải thiều, nhãn, chôm chôm, sầu riêng. Kim ngạch xuất khẩu trái cây trong những năm gần đây dao động ở khoảng 150 đến 180 triệu USD/năm. Tuy nhiên, các loại cây ăn trái đang trồng hầu hết đều cho...

doc44 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Thực trạng và phương hướng phát triển sản xuất các loại cây ăn trái đến năm 2015, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng và phương hướng phát triển sản xuất các loại cây ăn trái đến năm 2015 2006, Trung tâm Thông tin Thương mại Phát huy lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng ở một nước nhiệt đới, các tỉnh tại Việt Nam đã hình thành các vùng nguyên liệu trái cây khá tập trung phục vụ cho chế biến công nghiệp và tiêu dùng. Đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long có diện tích trồng cây ăn trái lớn nhất, chiếm khoảng 36,5% diện tích cả nước. Tổng lượng giống cây ăn trái các tỉnh ĐBSCL sản xuất bình quân trong vài năm gần đây vào khoảng 26 đến 27 triệu cây/năm. Số lượng giống cây ăn trái này được lưu thông khắp cả nước kể cả sang một số nước láng giềng. Cả nước hiện có khoảng 765.000 ha cây ăn trái, sản lượng hơn 6,5 triệu tấn với những loại trái cây chủ yếu như: dứa, chuối, cam, quýt, bưởi, xoài, thanh long, vải thiều, nhãn, chôm chôm, sầu riêng. Kim ngạch xuất khẩu trái cây trong những năm gần đây dao động ở khoảng 150 đến 180 triệu USD/năm. Tuy nhiên, các loại cây ăn trái đang trồng hầu hết đều cho năng suất không cao, chất lượng kém (không đẹp, kích cỡ không đều, vị không đặc trưng), giá thành cao, nên khả năng cạnh tranh thấp. Điều này dẫn tới cây ăn trái nước ta đang đứng trước thách thức lớn khi hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Theo dự báo của Tổ chức Nông – lương thế giới (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thị trường thế giới hàng năm tăng khoảng 3,6%, trong khi đó thì khả năng tăng trưởng sản xuất chỉ là 2,6% nên thị trường thế giới đối với mặt hàng rau quả luôn ở tình trạng cung không đủ cầu, dễ tiêu thụ và giá cả luôn trong tình trạng tăng. Các nước càng phát triển công nghiệp thì nhu cầu nhập khẩu rau lại càng tăng, đời sống càng được nâng cao thì nhu cầu đối với các loại hoa tươi càng tăng. Có thể khẳng định rằng thị trường thế giới đối với rau quả là rất có triển vọng. I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT Diện tích cây ăn quả cả nước trong thời gian qua tăng khá nhanh, năm 2005 đạt 766,9 ngàn ha (so với năm 1999 tăng thêm ngàn ha, tốc độ tăng bình quân là 8,5%/năm), cho sản lượng 6,5 triệu tấn (trong đó chuối có sản lượng lớn nhất với khoảng 1,4 triệu tấn, tiếp đến cây có múi: 800 ngàn tấn, nhãn: 590 ngàn tấn). Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích cây ăn quả lớn nhất (262,1 ngàn ha), sản lượng đạt 2,93 triệu tấn (chiếm 35,1% về diện tích và 46,1% về sản lượng). Do đa dạng về sinh thái nên chủng loại cây ăn quả của nước ta rất đa dạng, có tới trên 30 loại cây ăn quả khác nhau, thuộc 3 nhóm là: cây ăn quả nhiệt đới (chuối, dứa, xoài…), á nhiệt đới (cam, quýt, vải, nhãn…) và ôn đới (mận, lê…). Một trong các nhóm cây ăn quả lớn nhất và phát triển mạnh nhất là nhãn, vải và chôm chôm. Diện tích của các loại cây này chiếm 26% tổng diện tích cây ăn quả. Tiếp theo đó là chuối, chiếm khoảng 19%. Trên địa bàn cả nước, bước đầu đã hình thành các vùng trồng cây ăn quả khá tập trung, cho sản lượng hàng hoá lớn; Một số vùng cây ăn quả tập trung điển hình như sau: + Vải thiều: vùng vải tập trung lớn nhất cả nước là Bắc Giang (chủ yếu ở 3 huyện Lục Ngạn, Lục Nam và Lạng Giang), có diện tích 35,1 ngàn ha, sản lượng đạt 120,1 ngàn tấn. Tiếp theo là Hải Dương (tập trung ở 2 huyện Thanh Hà và Chí Linh) với diện tích 14 ngàn ha, sản lượng 36,4 ngàn tấn. + Cam sành: được trồng tập trung ở ĐBSCL, với diện tích 28,7 ngàn ha, cho sản lượng trên 200 ngàn tấn. Địa phương có sản lượng lớn nhất là tỉnh Vĩnh Long: năm 2005 cho sản lượng trên 47 ngàn tấn. Tiếp theo là các tỉnh Bến Tre (45 ngàn tấn) và Tiền Giang (42 ngàn tấn). Trên vùng Trung du miền núi phía Bắc, cây cam sành cùng được trồng khá tập trung ở tỉnh Hà Giang, tuy nhiên, sản lượng mới đạt gần 20 ngàn tấn. + Chôm chôm: cây chôm chôm được trồng nhiều ở miền Đông nam bộ, với diện tích 14,2 ngàn ha, sản lượng xấp xỉ 100 ngàn tấn (chiếm 40% diện tích và 61,54% sản lượng chôm chôm cả nước). Địa phương có diện tích chôm chôm tập trung lớn nhất là Đồng Nai (11,4 ngàn ha), tiếp theo đó là Bến Tre (4,2 ngàn ha). + Thanh long: được trồng tập trung chủ yếu ở Bình Thuận (diện tích khoảng 5 ngàn ha, sản lượng gần 90 ngàn tấn, chiếm 70 % diện tích và 78,6% về sản lượng thanh long cả nước). Tiếp theo là Tiền Giang, có 2 ngàn ha. Thanh long là loại trái cây có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất so với các loại quả khác. + Bưởi: Việt Nam có nhiều giống bưởi ngon, được người tiêu dùng đánh giá cao như bưởi Năm roi, Da xanh, Phúc Trạch, Thanh Trà, Diễn, Đoan Hùng…Tuy nhiên, chỉ có bưởi Năm Roi là có sản lượng mang ý nghĩa hàng hoá lớn. Tổng diện tích bưởi Năm Roi là 9,2 ngàn ha, phân bố chính ở tỉnh Vĩnh Long (diện tích 4,5 ngàn ha cho sản lượng 31,3 ngàn tấn, chiếm 48,6% về diện tích và 54,3% về sản lượng bưởi Năm Roi cả nước); trong đó tập trung ở huyện Bình Minh: 3,4 ngàn ha đạt sản lượng gần 30 ngàn tấn. Tiếp theo là tỉnh Hậu Giang (1,3 ngàn ha). + Xoài: cũng là loại cây trồng có tỷ trọng diện tích lớn của Việt Nam. Hiện có nhiều giống xoài đang được trồng ở nước ta; giống có chất lượng cao và được trồng tập trung là giống xoài cát Hoà Lộc. Xoài cát Hoà Lộc được phân bố chính dọc theo sông Tiền (cách cầu Mỹ Thuận khoảng 20-25 km) với diện tích 4,4 ngàn ha đạt sản lượng 22,6 ngàn tấn. Diện tích xoài Hoà Lộc tập trung chủ yếu ở tỉnh Tiền Giang (diện tích 1,6 ngàn ha, sản lượng 10,1 ngàn tấn); tiếp theo là tỉnh Đồng Tháp (873 ha, sản lượng 4,3 ngàn tấn). + Măng cụt: là loại trái cây nhiệt đới rất ngon và bổ. Măng cụt phân bố ở 2 vùng ĐBBSCL và ĐNB, trong đó trồng chủ yếu ở ĐBSCL với tổng diện tích khoảng 4,9 ngàn ha, cho sản lượng khoảng 4,5 ngàn tấn. Tỉnh Bến Tre là nơi có diện tích tập trung lớn nhất: 4,2 ngàn ha (chiếm 76,8% diện tích cả nước). Tuy măng cụt là sản phẩm rất được giá trên thị trường nhưng việc mở rộng diện tích loại cây này hiện nay đang gặp nhiều trở ngại do thời gian kiến thiết cơ bản dài (5-6 năm), là cây thân gỗ lớn, chiếm nhiều diện tích đất và chỉ thích hợp với đất mầu ở các cù lao. + Dứa: đây là một trong 3 loại cây ăn quả chủ đạo được khuyến khích đầu tư phát triển trong thời gian vừa qua nhằm phục vụ xuất khẩu. Các giống được sử dụng chính bao gồm giống Queen và Cayene; trong đó giống Cayene là loại có năng suất cao, thích hợp để chế biến (nước quả cô đặc, nước dứa tự nhiên…). Các địa phương có diện tích dứa tập trung lớn là Tiền Giang (3,7 ngàn ha), Kiên Giang (3,3 ngàn ha); Nghệ An (3,1 ngàn ha), Ninh Bình (3,0 ngàn ha) và Quảng Nam (2,7 ngàn ha). Ngoài ra, còn có một số loại cây ăn quả khác cũng có khả năng xuất khẩu tươi là: Sầu riêng cơm vàng hạt lép, Vú sữa Lò rèn, Nhãn xuồng cơm vàng... Tuy nhiên, những loại này có diện tích và sản lượng còn rất khiêm tốn (ví dụ diện tích của Nhãn xuồng cơm vàng mới chỉ có 200 ha, tập trung ở Bà Rịa-Vũng Tầu), không đủ tiêu thụ trong nước và giá bán trong nước thậm chí còn cao hơn giá xuất khẩu.. Về chủng loại các trái cây có lợi thế cạnh tranh, Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định 11 loại trái cây có lợi thế cạnh tranh, bao gồm: Thanh long, Vú sữa, Măng cụt, Cây có múi (Bưởi, Cam sành), Xoài, Sầu riêng, Dứa, Vải, Nhãn, Dừa và Đu đủ Theo đề án qui hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 mới nhất của Thủ tướng Chính phủ thì trong đó, đối với cây ăn quả Chính phủ định hướng: Trong những năm tới mở rộng diện tích 11 loại cây ăn quả có lợi thế; riêng đối với nhãn, vải chỉ trồng mới bằng các giống rải vụ, chất lượng cao và cải tạo vườn tạp. Diện tích cây ăn quả đến năm 2010 đạt 1 triệu ha, tầm nhìn năm 2020 khoảng 1,3 triệu ha. Bố trí chủ yếu ở Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng Sông Cửu Long, Đông nam bộ, Đồng bằng Sông Hồng và một số vùng khác có đủ điều kiện. Rà soát chương trình phát triển rau quả, hoa cây cảnh đến 2010 và qui hoạch 11 loại cây ăn quả chủ lực xuất khẩu (bao gồm: Cam sành, Bưởi Năm Roi, Bưởi da xanh, Xoài cát Hoà Lộc, Sầu riêng, Măng cụt, Thanh long, Vú sữa Lò rèn, Vải, Nhãn xuồng cơm vàng và Dứa. II. MỘT SỐ THÀNH TỰC VỀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU QUẢ 2.1. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC Các chính sách của Đảng và Nhà nước đã đóng góp một phần quan trọng vào thành tựu của đất nước nói chung, lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Nhìn chung, những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đã tác động tích cực đến ngành nông nghiệp, trong đó có ngành hàng rau quả và tạo nên những bước biến đổi lớn. Có thể sơ bộ đánh giá những thành tựu đạt được đối với một số chính sách như sau: Chính sách về đất đai có tác động lớn đến giải phóng sức sản xuất đồng thời phát huy quyền làm chủ trong phát triển sản xuất, kinh doanh; khuyến khích người sản xuất đầu tư phát triển lâu dài, phát huy hiệu quả sử dụng đất đai; thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng khai thác lợi thế sinh thái từng vùng, từng bước hình thành các vùng sản xuất rau và cây ăn quả tập trung. Các Hợp tác xã được chuyển đổi hình thức theo Luật HTX mới, tập trung chủ yếu vào vai trò cung ứng dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Từ khi có Luật Doanh nghiệp, môi trường sản xuất, kinh doanh rộng mở, thông thoáng hơn đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp ngành rau quả được cạnh tranh bình đẳng trong sản xuất, kinh doanh, chủ động tìm tòi nghiên cứu để nâng cao uy tín và chất lượng hàng hoá. Nghị quyết 09 của Chính phủ đã đề ra phương hướng phát triển lâu dài và tích cực đối với kinh tế đất nước, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp; tạo bước chuyển dịch lớn lao trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, sản xuất từng bước được điều chỉnh định hướng thị trường, tăng nhanh nguồn hàng chất lượng cao cho xuất khẩu. Nhiều địa phương đã chuyển đổi diện tích những loại cây trồng kém hiệu quả sang sản xuất rau, quả, hình thành được những vùng chuyên canh lớn với những loại rau quả đặc sản như: vùng rau Vân Nội (Hà Nội), vùng rau, hoa Đà Lạt (Lâm Đồng), buởi Phúc Trạch, bưởi Năm Roi, xoài cát Hoà Lộc, vú sữa Lò Rèn (Vĩnh Kim)... Kinh tế trang trại là một phần không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP đã có tác dụng nhất định, trang trại tăng lên rõ rệt cả về số lượng và quy mô, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nên những vùng sản xuất hàng hóa tập trung và thâm canh cao. Đã hình thành nhiều trang trại sản xuất cây ăn quả lâu năm phù hợp với từng vùng sinh thái, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Các chính sách về tín dụng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đã khuyến khích các doanh nghiệp tích cực đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của nông sản hàng hoá, trong đó có rau quả. Việc ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đã khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tìm tòi nghiên cứu sản xuất các mặt hàng mới, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu… Nhờ có chính sách khuyến khích của Nhà nước, hoạt động nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung, ngành rau quả nói riêng đã đạt được kết quả khả quan, hỗ trợ tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nhất là công nghệ sinh học đã đạt được những tiến bộ bước đầu trong việc tuyển chọn, lai tạo một số giống cây ăn quả, rau, đậu có chất lượng và năng suất cao, chuyển giao quy trình sản xuất các loại giống sạch bệnh... Việc thực hiện Chương trình Giống trong những năm qua đã tạo nên sự chuyển biến cơ bản trong việc tổ chức, quản lý, chọn tạo, nhân giống và sản xuất giống. Việc ban hành Pháp lệnh giống cây trồng đã tạo sơ sở pháp lý để tăng cường hiệu quả quản lý giống. Hệ thống quản lý chất lượng và tổ chức thanh tra, kiểm tra giống đã được củng cố, tăng cường hơn trước. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đều có Trung tâm giống cây trồng, vật nuôi; 40% các tỉnh, thành đã thực hiện cơ giới hoá khâu sấy, bảo quản và đóng gói hạt giống... Từ năm 2000 đến nay, nhiều loại giống được chọn tạo, đưa tỷ lệ áp dụng giống tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp lên khoảng 30% đối với cây ăn quả và 50% đối với rau, góp phần tăng năng suất, sản lượng và hiệu quả sản xuất. Hoạt động khuyến nông ngày càng đa dạng và phong phú, bám sát các chương trình nông nghiệp trọng điểm, góp phần tích cực trong việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đào tạo nâng cao các kỹ năng về sản xuất và nhu cầu thị trường cho bà con nông dân; tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa các đoàn thể xã hội, cơ quan nghiên cứu, phương tiện thông tin đại chúng, các doanh nghiệp, hiệp hội... với người sản xuất, trên cơ sở đó từng bước hoàn thiện nội dung, phương pháp và chính sách khuyến nông. Chính phủ chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá cho nông dân theo Quyết định 80/2002/QĐ-TTg, đã mở ra hướng đi đúng đắn, từng bước làm thay đổi nhận thức của các doanh nghiệp và hộ nông dân trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; thực sự gắn kết được 4 nhà (Nhà nước, nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp), tạo thêm nguồn lực để phát triển sản xuất hàng hoá nông sản theo hướng thị trường, đảm bảo chất lượng và hiệu quả kinh tế. Nhiều doanh nghiệp đã triển khai thực hiện tốt việc ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản với nông dân; bước đầu đã gắn được trách nhiệm, quyền lợi của mỗi bên trong việc thực hiện hợp đồng, gắn giữa sản xuất và chế biến, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định cho chế biến xuất khẩu. Đối với ngành hàng rau, quả, mô hình này đã tạo được kết quả khá khả quan: trong các năm 2002 – 2004, chỉ riêng đối với cây dứa Tổng công ty Rau quả và nông sản Việt Nam đã ký 4.924 hợp đồng với nông dân trồng 11.605 ha và đã ứng vốn đầu tư 56 tỷ đồng. Hầu hết các loại nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy chế biến đều được thực hiện thông qua hợp đồng với các hình thức phù hợp với từng chủng loại, từng thời vụ, từng địa phương. Một số doanh nghiệp tư nhân và Công ty có vốn đầu tư nước ngoài cũng tích cực tham gia ký kết hợp đồng tiêu thụ rau, hoa cao cấp với các hộ sản xuất. 2.2. VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU QUẢ Xác định được vai trò và tiềm năng phát triển của ngành hàng rau quả trong việc tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg, ngày 03/9/1999 phê duyệt Đề án phát triển rau, quả và hoa, cây cảnh thời kỳ 1999 - 2010 làm định hướng cho việc phát triển ngành hàng rau quả. Chương trình phát triển rau quả đã đạt được những thành tựu nhất định, diện tích tăng nhanh, chủng loại đa dạng, phong phú, ngày càng đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nước, xuất khẩu rau quả từng bước được mở rộng… Tuy nhiên, cho đến nay chưa có chính sách ưu đãi riêng cho ngành hàng này. Sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau, quả chỉ được hưởng những chính sách dành cho ngành nông nghiệp nói chung. Cụ thể một số chính sách như sau: 2.2.1.Chính sách đất đai Luật Đất đai ban hành năm 1993 trao quyền sử dụng đất cho nông dân thông qua các hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, trong đó mở rộng các quyền (chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thế chấp…) được nông dân hết sức hoan nghênh, tạo động lực lớn trong phát triển sản xuất. Với việc sửa đổi vào các năm 2001 và năm 2003, Luật Đất đai đã tạo hành lang pháp lý ngày càng thông thoáng, tạo điều kiện cho việc tập trung tích tụ đất cho sản xuất trang trại, sản xuất các loại cây lâu năm và sản xuất trên quy mô lớn. Nhà nước có những chính sách nhằm tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp có đất để sản xuất: giao đất nông nghiệp cho nông dân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp để khuyến khích phát huy hiệu quả sử dụng đất đai; đơn giản hoá các thủ tục cho thuê đất để phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông sản và ngành nghề ở nông thôn; tạo việc làm cho lao động ở nông thôn phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chính sách “dồn điền, đổi thửa” cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún, một trong những khó khăn chủ yếu đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Việc quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất đai được thực hiện theo hướng phát triển các vùng sản xuất chuyên canh, khai thác được lợi thế so sánh của từng vùng, bám sát nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Với những thay đổi về chính sách đất đai, nông dân được quyền tự quyết định sản xuất, chuyển đổi từ những cây trồng kém hiệu quả sang trồng rau quả. Hơn nữa, nhờ chính sách giao đất dài hạn 50 năm cho cây ăn quả, người nông dân sẵn sàng đầu tư hiệu quả vào mảnh đất của mình. 2.2.2 Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển trong điều kiện nguồn Ngân sách Nhà nước có hạn, Chính phủ đã cố gắng bố trí vốn ngân sách đồng thời có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước và các tổ chức quốc tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nhiều chính sách khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất, kinh doanh nông sản đã được ban hành. Nghị quyết số 09/2000/NQ của Chính phủ ban hành ngày 15/6/2000 về Một số chủ trương chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm đã nhấn mạnh: Cần huy động sức dân và tăng vốn ngân sách Nhà nước hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp; Quỹ Hỗ trợ phát triển hỗ trợ đầu tư với lãi suất ưu đãi đối với các dự án sản xuất, chế biến trong nông nghiệp khó thu hồi vốn nhanh. Các nguồn vốn từ Ngân sách và các thành phần kinh tế được dành để đầu tư: Các công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu cho các cây trồng có hiệu quả xuất khẩu cao; Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng để khuyến khích phát triển kinh tế trang trại và khuyến khích các doanh nghiệp ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ với người sản xuất, gắn kết sản xuất - chế biến với tiêu thụ nông sản; Ngân sách hỗ trợ một phần về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, thuỷ lợi, điện.. .), hệ thống chợ bán buôn, kho bảo quản, mạng lưới thông tin thị trường, các cơ sở kiểm định chất lượng nông sản hàng hoá cho các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung gắn với cơ sở chế biến, tiêu thụ nông sản hàng hoá có hợp đồng tiêu thụ theo QĐ 80 của Chính phủ; Ngân sách đầu tư thực hiện các chương trình, dự án (Xoá đói giảm nghèo, 135, đường giao thông nông thôn, phục hồi nâng cấp các công trình thuỷ lợi hiện có ở các vùng, an toàn hồ chứa nước, kiên cố hoá kênh mương, kiểm soát lũ…) nhằm tạo động lực thúc đẩy sản xuất nông sản, trong đó có sản xuất rau quả. Ngoài ra, trong các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển nông nghiệp và nông thôn luôn được coi là lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư. Các chính sách này ngày càng được hoàn thiện theo hướng tạo môi trường thuận lợi để thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có chính sách hỗ trợ đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất của các thành phần kinh tế, các lĩnh vực, các chương trình kinh tế lớn và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư… (Nghị định số 43/1999/NĐ-CP, ngày 26/6/1999). Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp cũng có thể thấy rõ trong Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Theo đó, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu là ưu đãi cuả Nhà nước nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. - Về Thuế thu nhập doanh nghiệp: Nhà nước có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề, trong đó có sản xuất rau quả, đầu tư phát triển sản xuất. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 18/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP và Nghị định số 26/2001/NĐ-CP của Chính phủ về Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, các cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực ngành nghề được ưu đãi đầu tư (như trồng cây ăn quả lâu năm trên đất hoang hoá đồi núi trọc, chế biến bảo quản rau quả, ứng dụng công nghệ trong sản xuất giống cây…) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 3 năm tiếp theo. Cơ sở sản xuất mới thành lập thuộc các lĩnh vực ngành nghề ưu tiên đầu tư ở các tỉnh miền núi được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong thời hạn từ 7 đến 9 năm; nếu phát sinh lỗ, doanh nghiệp còn được chuyển lỗ trong vòng 5 năm. - Về Thuế VAT: Để khuyến khích tiêu thụ nông sản, các doanh nghiệp được miễn thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp trên khâu lưu thông theo Thông tư số 91/2000/TT-BTC ngày 06/9/2000 của Bộ Tài chính về hướng dẫn thi hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ. - Về Thuế sử dụng đất nông nghiệp: Nghị định số 129/2003/NĐ-CP ngày 03/11/2003 của Chính phủ đã quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 15/2003/QH11,ngày 17/6/2003 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Các hộ nghèo, hộ sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trên toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp; người nông dân được Nhà nước giao đất sản xuất nông nghiệp, xã viên hợp tác xã… nhận đất giao khoán ổn định để sản xuất nông nghiệp đều được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức; người nông dân được quyền đóng góp ruộng đất của mình để thành lập Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã. - Các chính sách tài chính khác: Với Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, người sản xuất và kinh doanh nông sản, trong đó có rau quả, được đảm bảo đủ nhu cầu vay vốn và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn ngân hàng (thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, vay vốn bằng tín chấp, vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả)… Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, Nhà nước luôn quan tâm ưu tiên cung cấp tín dụng đầu tư cho các địa phương. Ngành Ngân hàng có nhiều cải tiến nhằm tạo thuận lợi về cho vay đối với người sản xuất và các doanh nghiệp ở nông thôn, tăng hỗ trợ thông qua Ngân hàng chính sách xã hội để giúp người nghèo và các đối tượng chính sách đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. 2.2.4 Chính sách về áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, các chương trình giống, an toàn vệ sinh thực phẩm và công tác khuyến nông trong sản xuất trồng trọt, thu hoạch và bảo quản Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX đã nhấn mạnh: “Tăng cường các hoạt động khuyến nông,… bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến”. Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất được Nhà nước khuyến khích thông qua việc ban hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Khoa học và Công nghệ. Nhà nước cam kết đối xử bình đẳng và tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ nâng cao năng lực sản xuất, chuyển dịch cơ cấu, đa dạng hoá ngành nghề, sản phẩm. Để hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, Nhà nước tạo thuận lợi cho doanh nghiệp có hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ như: tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, kinh doanh (được miễn tiền thuê đất và thuế sử dụng đất với thời hạn quy định cụ thể tuỳ theo từng địa bàn); được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; được quỹ hỗ trợ đầu tư xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn tối đa là 70% mức vốn đầu tư tại Quỹ Hỗ trợ phát triển, Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu hoặc Quỹ Hỗ trợ Phát triển Khoa học và Công nghệ hoặc trợ cấp một phần lãi suất đối với các khoản vay từ các tổ chức tín dụng;… Các doanh nghiệp có dự án đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ được hưởng các ưu đãi: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng thêm của năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp 4 năm tiếp theo; miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ trực tiếp các dự án chuyển giao công nghệ mà trong nước chưa sản xuất được… Đặc biệt, Nhà nước có chính sách khuyến khích việc ứng dụng công nghệ cao và sản xuất sản phẩm công nghệ cao. Chính phủ còn ban hành một số văn bản dưới Luật nhằm cụ thể hoá các chính sách liên quan đến đổi mới công nghệ: Nghị định 43/1999/NĐ-CP về Tín dụng đầu tư phát triển quy định đối tượng cho vay là các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn (bao gồm cả cho vay đổi mới thiết bị công nghệ mở rộng sản xuất) thuộc các thành phần kinh tế trong lĩnh vực xây dựng cơ sở bảo quản, chế biến nông sản; Nghị định 119/1999/NĐ-CP đưa ra một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ nhằm cải tiến quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh;… Những năm gần đây, Nhà nước có chính sách ưu tiên và biện pháp thúc đẩy việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nghị quyết 09 của Chính phủ khuyến khích việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng. Chất lượng nông sản được nâng cao thông qua các chương trình nâng cấp giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ sinh học, khuyến nông và nghiên cứu các quy trình kỹ thuật tiên tiến áp dụng vào sản xuất, bảo quản, chế biến..., góp phần tăng tính cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Về Khuyến nông, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/CP ngày 02/03/1993 quy định về công tác khuyến nông và Nghị định số 56/2005/NS-CP ngày 26/4/2005 về tổ chức khuyến nông, nhằm xã hội hoá hoạt động khuyến nông, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà quản lý, khoa học, doanh nghiệp với người sản xuất và giữa người sản xuất với nhau để nâng cao nhận thức về khoa học kỹ thuật sản xuất, kỹ năng quản lý và kinh doanh... tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đến nay, hệ thống khuyến nông được kiện toàn từ TƯ đến địa phương, 100% số tỉnh, thành phố thành lập Trung tâm khuyến nông, 70% số huyện có trạm khuyến nông và hơn 80% số xã có khuyến nông viên cơ sở. Về phát triển giống cây trồng: Đối với phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung, ngành hàng rau quả nói riêng, một trong những hướng tác động chủ yếu của khoa học và công nghệ là ứng dụng công nghệ sinh học trong phát triển các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và sức chống chịu bệnh cao, không thoái hoá, không làm tổn hại đến đa dạng sinh học... Đứng trước yêu cầu cấp thiết nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất nông nghiệp đồng thời tăng thu nhập cho nông dân, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Giống cây trồng, vật nuôi và giống cây lâm nghiệp thời kỳ 2000-2005 (Quyết định số 225/1999/QĐ-TTg, ngày 10/12/1999. Ngày 20/01/2006, Chính phủ ban hành Quyết định số 17/2006/QĐ-TTg về việc tiếp tục thực hiện Quyết định số 225 về Chương trình Giống cây trồng, vật nuôi và giống cây lâm nghiệp đến năm 2010 với mục tiêu: Nâng tỷ lệ sử dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lên trên 70% để phục vụ xuất khẩu, thay thế nhập khẩu nông sản; Nâng cao năng lực chọn tạo giống, áp dụng công nghệ sản xuất giống để tạo ra nhiều giống mới có đặc tính tốt, năng suất và chất lượng cao; Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu, chọn tạo, sản xuất giống nhằm hoàn thiện hệ thống sản xuất và cung ứng giống theo hướng hiện đại hóa và phù hợp với kinh tế thị trường. Việc thực hiện Chương trình Giống được hưởng nhiều ưu đãi như: Về đầu tư, Ngân sách Nhà nước đầu tư cho: Công tác nghiên cứu khoa học về giống; Quy hoạch, xây dựng cơ sở vật chất, thu thập và bảo tồn giống cây đầu dòng...; Nhập nội nguồn gen, giống mới có năng suất, chất lượng mà trong nước chưa đáp ứng được; Nhập công nghệ mới, tiên tiến về sản xuất giống; Hoàn thiện công nghệ và xây dựng mô hình trình diễn về công nghệ sản xuất giống; Tăng cường quản lý chất lượng giống; Hỗ trợ một phần cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng sản xuất giống tập trung áp dụng công nghệ cao, sản xuất giống gốc. Về tín dụng và thuế: Các tổ chức và cá nhân đầu tư sản xuất giống được hưởng những ưu đãi với mức cao nhất về các loại thuế và được ngành Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi trong việc cho vay vốn; sản xuất giống gốc được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Việc đầu tư thiết bị cơ giới hoá và công nghiệp hoá sản xuất, chế biến giống được vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Quỹ Hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia và của các địa phương dành kinh phí cho các dự án thử nghiệm về sản xuất, chế biến giống. Về đất đai: Đất đai được sử dụng với mục đích nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm về giống, sản xuất giống được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thu tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất. Công tác quản lý Nhà nước về giống ngày càng được tăng cường, Chính phủ đã ban hành Pháp lệnh Giống cây trồng (năm 2004) và Nghị định hướng dẫn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống. Hệ thống quản lý chất lượng và tổ chức thanh tra, kiểm tra về giống từ Trung ương đến địa phương không ngừng được củng cố: Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành những quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn, định mức và chuẩn hoá thiết kế mẫu các hạng mục cho chương trình giống để sử dụng trong việc xây dựng, thẩm định, phê duyệt và triển khai các dự án giống; nhiều địa phương đã tổ chức công tác kiểm tra các cơ sở sản xuất và dịch vụ giống, ban hành quy định về quản lý giống trên địa bàn, cấp giấy chứng nhận và chứng chỉ chất lượng giống; một số nơi đã xây dựng Trung tâm kiểm định chất lượng giống; hoạt động bảo hộ giống cây trồng mới, quyền tác giả đã bắt đầu được triển khai; chương trình khuyến nông tăng cường đào tạo, phổ cập kiến thức công tác giống cho nông dân... Về Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) Vệ sinh an toàn thực phẩm đã được Chính phủ xếp vào một trong 10 chương trình trọng điểm quốc gia từ năm 1999. Năm 2003, Chính phủ công bố Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm với mục đích bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người và tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về VSATTP. Nhà nước cam kết có chính sách và biện pháp để bảo đảm VSATTP như: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch về VSATTP; Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về VSATTP; Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật về VSATTP; Khuyến khích các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến nhằm bảo đảm VSATTP theo đúng tiêu chuẩn quốc tế... Người sản xuất, kinh doanh nông sản, thực phẩm phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm do mình sản xuất, kinh doanh; không được có các hành vi trái với quy định của pháp luật trong việc sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản, vận chuyển, kinh doanh thực phẩm... Quản lý, giám sát việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất cây trồng nằm trong chương trình đảm bảo VSATTP. Hệ thống chuyên ngành BVTV được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này như: quy định và cấp giấy phép việc khảo nghiệm và đăng ký lưu hành thuốc BVTV mới ở Việt Nam; công bố danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng hoặc cấm sử dụng ở Việt Nam... Các địa phương thực hiện việc quản lý Nhà nước và chỉ đạo hoạt động BVTV kết hợp với hoạt động khuyến nông trên địa bàn. Thanh tra chuyên ngành về BVTV có trách nhiệm thanh tra việc chấp hành pháp luật về phòng, trừ sinh vật gây hại, kiểm dịch thực vật, quản lý thuốc BVTV và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về BVTV... Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật ban hành năm 2001 quy định nghiêm cấm những hành vi sử dụng những biện pháp BVTV có khả năng gây nguy hiểm cho người, sinh vật có ích và hủy hoại môi trường, hệ sinh thái; đưa những sản phẩm có dư lượng thuốc BVTV quá giới hạn cho phép vào buôn bán, sử dụng... Lĩnh vực này được các cấp, các ngành hết sức quan tâm. Hiện nay, có hai Trung tâm kiểm định thuốc BVTV thuộc Cục BVTV đặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để kiểm tra dư lượng thuốc BVTV trên rau, quả tươi và một số nông sản khác. Chi cục BVTV một số địa phương (như Hà Nội, Hải phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Lâm Đồng…), các Viện (BVTV, Nghiên cứu rau quả, Công nghệ sau thu hoạch, Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Dinh dưỡng…), Tổng cục đo lường chất lượng, một số địa phương (Hà Nội, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh…) đều có các phòng kiểm nghiệm kiểm tra dư lượng thuốc BVTV. Do yêu cầu cấp thiết đảm bảo VSATTP trong sản xuất nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về VSATTP trong nông nghiệp đến năm 2010 (CV số 1052/BNN-KHCN ngày 28/4/2006) với mục tiêu đẩy mạnh sản xuất nông sản thực phẩm an toàn bằng cách áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ về giống, chế phẩm sinh học, phân hữu cơ và quy trình tiên tiến vào sản xuất. Phấn đấu giảm một cách cơ bản tồn dư hoá chất độc hại trong nông sản thực phẩm, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, góp phần nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, trong đó có rau quả. 2.2.5. Các chính sách phát triển mối liên kết có hiệu quả giữa sản xuất và tiêu thụ Luật Hợp tác xã (ban hành năm 1996, sửa đổi năm 2003) đã tạo cơ sở pháp lý và phát huy vai trò của HTX trong việc phát triển nền kinh tế thị trường. Các HTX nông nghiệp ngày càng vững mạnh, đời sống của xã viên được cải thiện, cơ sở vật chất của HTX ngày một tăng cường. Đã hình thành những mối liên kết giữa các HTX với nhau, giữa HTX với doanh nghiệp... trong sản xuất, mở rộng quy mô, tạo nguồn hàng phong phú cho thị trường. Chính phủ cũng đã ban hành một số chính sách như: hỗ trợ kinh phí từ ngân sách các cấp để bồi dưỡng, đào tạo cho các cán bộ quản lý và phụ trách chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ của HTX; ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh của xã viên HTX; hỗ trợ các HTX đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất; các tổ chức tín dụng (Ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng Phát triển Việt Nam...) cho các HTX vay vốn để đầu tư mới, đầu tư nâng cấp, mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các HTX. Luật Doanh nghiệp (ban hành năm 1999 và 2005) được coi là đòn bẩy quan trọng tạo bước đột phá trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp được quyền chủ động mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh, được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm... Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP về Kinh tế trang trại ban hành các chính sách ưu đãi (về thuế, hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng...) nhằm khuyến khích và tạo thuận lợi để phát triển sản xuất hộ gia đình theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những chính sách quan trọng góp phần thay đổi kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá có năng suất, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường; phát huy lợi thế so sánh của từng vùng; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, bảo quản, chế biến và thị trường tiêu thụ, thúc đẩy tiêu thụ nông sản một cách toàn diện và hiệu quả; đồng thời nâng cao giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác, tạo việc làm và tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Để giúp cho nông dân yên tâm sản xuất, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất và người kinh doanh, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế biến và chân hàng cho xuất khẩu, năm 2002, Chính phủ đã ban hành Quyết định 80 về một số chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng chính sách này đã bước đầu phát huy tác dụng ở nhiều địa phương, tạo nguồn hàng hoá phong phú và ổn định cho thị trường. Riêng sản xuất rau quả còn được hưởng các chính sách cụ thể như: Ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ; nhập khẩu giống mới có năng suất cao (như dứa, măng…); hỗ trợ một phần kinh phí cho đầu tư mới cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất tại một số địa phương;… Các chính sách hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại; thưởng kim ngạch xuất khẩu... tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu, thông qua đó có tác dụng khuyến khích nghiên cứu phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT RAU QUẢ CỦA VIỆT NAM Theo Tổ chức nông lương Liên hợp quốc (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới tăng bình quân 3,6%/năm, nhưng mức cung chỉ tăng 2,8%/năm. Điều này cho thấy thị trường xuất khẩu rau quả có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã giảm mạnh. Nếu năm 2001, xuất khẩu 42 nước và vùng lãnh thổ, thì năm 2004 còn lại 39 và năm 2005 chỉ còn 36. Nguyên nhân của sự suy giảm này, trước hết là giống cây ăn trái của Việt Nam mới chỉ dừng ở mức độ khai thác các giống đã có sẵn chứ chưa đầu tư thích đáng cho việc phát triển cũng như bảo quản những giống mới có chất lượng cao, phù hợp thị hiếu của các thị trường khác nhau. Hầu hết các cơ sở giống đều thiếu hẳn vườn cây đầu dòng hoặc không có vườn cung cấp mắt ghép được nhân từ cây đầu dòng được xác nhận. Đối với giống cây có múi sạch bệnh được sản xuất trong nhà lưới mỗi năm cũng chỉ khoảng 500.000 cây/năm trong khi đó nhu cầu cần đến 4 đến 5 triệu cây giống mỗi năm và giá bán lại cao (12.000 đ đến 15.000 đ/cây), do đó nhà vườn khó mua được giống tốt. 3.1. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ SẢN XUẤT Trong những năm qua sản xuất rau quả của Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế do những yếu kém nội tại của ngành rau quả cũng như những bất cập trong thực hiện các chính sách phát triển. Cụ thể là: - Về phát triển vùng chuyên canh rau quả xuất khẩu: Trong những năm qua, những nỗ lực xây dựng vùng nguyên liệu tốt cho chế biến xuất khẩu đã góp phần hình thành được nhiều vùng quả tập trung như vùng xoài cát Hoà Lộc (Tiền Giang), Thanh Long (Bình Thuận), vải thiều Bắc Giang, nho (Ninh Thuận), bưởi Năm Roi (Vĩnh Long)... Năm 2006, Việt Nam phấn đấu đưa diện tích cây ăn quả lên 760 nghìn ha, tăng 5 nghìn ha so với năm 2005 và đạt kim ngạch xuất khẩu rau quả phấn đấu đạt 330 triệu USD. Để đạt mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tập trung phát triển các loại cây ăn quả có lợi thế như loại cây có múi gồm cam, quýt, bưởi; dứa, xoài, nhãn, vải, thanh long, sầu riêng, măng cụt, vú sữa. Phát triển các giống cây ăn quả chất lượng cao, đặc sản ở các vùng như cam, quýt (Canh, Cần Thơ), bưởi (Phúc Trạch, Đoan Hùng, Năm Roi), Xoài cát (Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang), quýt hồng (Đồng Tháp). Tuy nhiên, diện tích các vùng chuyên canh còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích 755.000 ha cây ăn quả hiện có trên cả nước; phần lớn diện tích vẫn là vườn tạp, phát triển theo quy mô hộ gia đình. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự không ổn định của xuất khẩu là do quy hoạch chưa có trọng tâm, chưa tập trung tối ưu để tạo ra những vùng sản xuất có tính cạnh tranh. Số vùng chuyên canh như vải thiều Bắc Giang, vú sữa Lò Rèn, thanh long Bình Thuận, nho Ninh Thuận còn quá ít nên khi khách hàng cần sản lượng lớn, thời gian giao hàng ngắn thì khó có thể thu gom đủ. Ngoài ra, do giống và quy trình chăm sóc không đồng đều, nguồn nguyên liệu lại không ổn định, ảnh hưởng đến chất lượng chế biến. 3.2. NHỮNG TỒN TẠI Bên cạnh một số thành tựu nhất định, hệ thống chính sách của Việt Nam nói chung, nông nghiệp nói riêng còn nhiều bất cập, việc ban hành chính sách thiếu sự đồng bộ, không có tính chiến lược mà thường mang tính giải quyết tình thế. Nhiều chính sách còn chưa thực sự cụ thể hoá, mức độ phát huy hiệu lực còn rất hạn chế do không đủ các nguồn lực về tài chính, trình độ quản lý, thủ tục rườm rà, khó vận dụng: Nghị quyết 09 của Chính phủ về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm chưa có hướng dẫn và chính sách cụ thể; Quyết định 80 về khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng chưa cụ thể hoá các quy chế hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, xúc tiến thương mại, khuyến nông... và chế tài xử phạt các trường hợp vi phạm hợp đồng nên khi triển khai còn gặp nhiều lúng túng, hiệu lực chưa cao;... Quá trình xây dựng và thực thi chính sách chưa quan tâm đúng mức đến việc lấy ý kiến rộng rãi của các thành phần kinh tế khác nên các doanh nghiệp Nhà nước thường được hưởng lợi nhiều hơn, do đó chưa thực sự tạo được “sân chơi bình đẳng” trong môi trường kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế. Trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, các chính sách của Nhà nước dường như vẫn quan tâm nhiều đến việc thúc đẩy sản xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến quản lý tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm...; chưa tạo được động lực đột phá giải quyết được tình trạng manh mún trong sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, đáp ứng yêu cầu thị trường. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách tạo hành lang pháp lý cho HTX chuyển đổi, xây dựng mới, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Tuy nhiên, trong Luật HTX vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng về cơ chế, chính sách tài chính cho các HTX, các văn bản cụ thể hóa thực hiện Luật HTX làm chậm, một số nội dung hướng dẫn thực hiện không đồng bộ và chưa phù hợp với thực tế. Có những quy định cần thiết đến nay vẫn chưa được hướng dẫn thi hành (như chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển HTX). Thêm vào đó, năng lực của cán bộ HTX chưa cao, hoạt động của đa số HTX còn thụ động... nên đã phần nào hạn chế hình thức tổ chức này phát huy hiệu quả; tác động của các chủ trương, chính sách còn chậm đến các cơ sở, nhiều chính sách đã được ban hành nhưng đến nay các HTX nông nghiệp vẫn chưa được hưởng lợi từ những chính sách đó. Chính sách về đất đai vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục, điều chỉnh để khuyến khích hơn nữa người nông dân tích tụ đất, lập trang trại sản xuất hàng hoá với số lượng lớn, quy cách đồng đều, chất lượng cao... đáp ứng yêu cầu thị trường. Chưa có chế tài để gắn kết giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm sử dụng đất của người dân nên sản xuất hàng hoá chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Các chính sách về kinh tế trang trại còn chưa được cụ thể hoá, khó áp dụng trong thực tiễn. Do đó, sự phát triển của kinh tế trang trại còn mang tính tự phát, hiệu quả hoạt động còn chưa cao. Để loại hình kinh tế đặc thù này phát triển ngang tầm với ưu thế vốn có của nó, cần phải xây dựng một kế hoạch phát triển lâu dài dựa trên thế mạnh của từng vùng. Việc thực hiện các chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn chậm, thiếu đồng bộ. Tuy diện tích rau, quả và hoa, cây cảnh có tăng nhưng tại khu vực sản xuất nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến thì năng suất, chất lượng rau quả còn thấp, không đủ cho các nhà máy. Những nơi dân tự trồng thì rải rác, phân tán, diện tích manh mún, chủng loại không ổn định, chất lượng không đồng đều. Việc thực hiện chủ trương đa dạng hoá nông nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm chưa được nhiều. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn từ nguồn ngân sách Nhà nước thiếu sự cân đối giữa các ngành hàng, nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế (TD: đầu tư phát triển thuỷ lợi chủ yếu tập trung cho cây lúa, phần lớn diện tích cây ăn quả chưa có công trình thuỷ lợi). Sự chuyển biến trong điều chỉnh cơ cấu đầu tư còn chậm, chưa thực sự phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế (thiếu tính chiến lược, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài; chi phí đầu tư cao; hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn còn nhiều bất cập; thủ tục hành chính rườm rà...) nên chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Do đó, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hết sức hạn chế và có xu hướng giảm sút trong những năm gần đây, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh phát triển của nông nghiệp Việt Nam. Hiệu quả thực hiện các dự án trong lĩnh vực này còn rất nhỏ so với hoạt động đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực khác. Ngoài một số dự án sản xuất giống, chế biến nông sản..., nhìn chung các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này triển khai chậm do khó khăn về thủ tục cấp đất, nguồn nguyên liệu... Nguồn vốn tín dụng đầu tư Nhà nước dành cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn thấp so với yêu cầu, theo đánh giá chung mới chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu vay vốn của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình. Đặc biệt, các doanh nghiệp tư nhân, HTX và hộ nông dân tiếp cận nguồn vốn này còn rất ít. Tỷ lệ hộ nông dân được vay vốn tín dụng ngân hàng khoảng 70%, lại gặp nhiều vướng mắc trong các quy định về thế chấp, thu hồi nợ. Việc cho vay ưu đãi được thực hiện qua nhiều đầu mối (Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng Chính sách xã hội) với mức lãi suất khác nhau nên người nông dân khó nhận biết đầy đủ để tiếp cận nguồn vốn. Hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sản xuất, chưa thực sự bám sát yêu cầu thị trường. Cơ chế quản lý KHCN chậm đổi mới, chưa có chính sách và biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn lực Nhà nước đầu tư cho KHCN; thiếu cơ chế gắn kết nghiên cứu KHCN với hoạt động sản xuất, kinh doanh, hiệu quả ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học thấp; thiếu chính sách và biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh... Mức đầu tư cho nghiên cứu và phát triển KHCN trong ngành nông nghiệp còn thấp so với nhu cầu nên chưa tạo được những bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Việc tổ chức chuyển giao, ứng dụng KHCN vào sản xuất chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác nghiên cứu và khuyến nông; chưa thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Về Giống, mặc dù đã có những văn bản pháp quy đối với quản lý giống, việc thực thi vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống quản lý chất lượng giống còn yếu kém, số cán bộ quản lý ngành giống ở cấp tỉnh quá ít, cấp huyện hầu như không có. Do đó, hệ thống sản xuất, cung ứng giống cho dân chưa được giám sát chặt chẽ, đặc biệt việc quản lý giống lưu thông trên thị trường còn lỏng lẻo nên vẫn còn tình trạng sử dụng giống kém chất lượng, nhất là giống cây ăn quả, gây thiệt hại cho nông dân. Hệ thống khuyến nông còn nhiều bất cập, đến nay vẫn còn 30% số huyện chưa có trạm khuyến nông, 19% số xã chưa có cán bộ khuyến nông. Nội dung công tác khuyến nông mới chú ý nhiều đến hướng dẫn kỹ thuật, chưa chú trọng đến việc hướng dẫn tổ chức sản xuất, thị trường, chưa bám sát yêu cầu của nông dân... nên ở nhiều nơi chưa đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, còn thiếu cơ chế chính sách khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu chủ động trực tiếp tham gia vào công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho nông dân. Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trong những năm gần đây rất đáng lo ngại. Đặc biệt, trong sản xuất rau quả, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất bảo quản không đúng quy định hoặc cấm lưu hành trên thị trường đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về VSATTP đến nay về cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn VSATTP còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý và và các tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về VSATTP còn yếu, phân tán, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành. Việc thực hiện ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản theo Quyết định 80 của Chính phủ vẫn còn nhiều bất cập. Nhà nước chưa tạo được một hành lang pháp lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là vấn đề hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông. Các chính sách về tín dụng, vốn sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng, giống mới, khoa học kỹ thuật…theo QĐ 80 chưa được các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, chưa khai thông. Đối với những trường hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng (như thiên tai, dịch bệnh), Nhà nước chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ cho các bên tham gia hợp đồng. Các chương trình xúc tiến thương mại hiện nay vẫn chưa chú trọng vào phát triển thị trường phi truyền thống trong khi chính những thị trường này mới là những thị trường mà Nhà nước cần hỗ trợ xúc tiến thương mại để các doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường. Hiện nay các hoạt động đàm phán để ký kết các thoả thuận hoặc các hiệp định về thương mại rau quả của Việt Nam còn chậm và cần phải triển khai mở rộng cũng như đẩy nhanh tiến độ của các hoạt động nay thông qua đàm phán ký kết các FTA hoặc các hiệp định về buôn bán rau quả với một số thị trường trọng điểm như Trung Quốc, Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ…Do chưa ký kết được thoả thuận song phương về buôn bán rau quả với một số thị trường, đặc biệt là với Trung Quốc nên rau quả của Việt Nam hiện nay rất kém cạnh tranh với rau quả của những nước đã có thoả thuận cắt giảm thuế quan như Thái Lan tại thị trường quốc tế. Đây là một trong những rào cản đối với rau quả của Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc cũng thắt chặt hoạt động kiểm soát rau quả nhập khẩu sau khi Trung Quốc gia nhập WTO tạo thêm khó khăn cho rau quả xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này. Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu thập và xử lý thông tin đã có những tiến bộ đáng kể nhưng còn rời rạc, chậm về thời gian, thiếu hệ thống từ cơ sở vật chất đến phương thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, chưa thực sự trở thành một công cụ mạnh để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất. Do thiếu thông tin về thị trường nên người sản xuất rất lúng túng trong việc quyết định đầu tư nên trồng cây gì? qui mô ra sao? để có hiệu quả. Thị trường chưa thực sự hướng dẫn sản xuất, chưa có tác động tích cực đổi mới cơ cấu sản xuất hướng theo nhu cầu của thị trường. Công tác tổ chức dự báo thị trường, thu thập xử lý thông tin chậm về thời gian, mức độ, tin cậy không cao, trên thực tế chưa trở thành công cụ mạnh hướng dẫn sản xuất. Tầm vĩ mô, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng các quan hệ song phương và đa phương, tạo điều kiện xuất khẩu rau quả còn rất hạn chế, thiếu chủ động. Hoạt động nghiên cứu tiếp thị thuộc các tổ chức kinh tế, chuyên môn chậm phát triển, còn bị xem nhẹ, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển ngành rau quả nói chung, đẩy mạnh xuất khẩu rau quả nói riêng. Sự yếu kém trong việc xác định hệ thống thị trường xuất khẩu chủ lực và những mặt hàng rau quả xuất khẩu trọng điểm là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình phát triển sản xuất - lưu thông - xuất khẩu rau quả. Để sản xuất đạt hiệu quả cao cần đầu tư vào những lĩnh vực thị trường thực sự có nhu cầu. Người sản xuất đòi hỏi phải có nhu cầu thường xuyên về thông tin thị trường tiêu thụ để có quyết định đầu tư sản xuất hợp lý. Tuy vậy, người sản xuất không thể tự giải quyết vấn đề này cho mình, mà đòi hỏi có sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp. 3.3 Nguyên nhân của những tồn tại và những vấn đề đặt ra Xét về nguyên nhân khách quan, xuất phát điểm của nông nghiệp Việt Nam thấp trong khi nguồn lực của cả Nhà nước và nhân dân còn hết sức hạn hẹp. Hơn nữa, một bộ phận cán bộ và một số ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có năng suất, chất lượng cao, đa dạng hoá sản phẩm và định hướng thị trường nên chưa thực sự quan tâm chỉ đạo và có cơ chế chính sách đủ mạnh để thực hiện. Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều bất cập. Nhiều chủ trương chính sách đã được ban hành những còn chậm trong việc hướng dẫn tổ chức thực hiện. Một số chính sách chậm được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu và phát triển sản xuất. Việc tuyên truyền phổ biến các chính sách để nâng cao nhận thức của người nông dân, giúp họ định hướng sản xuất hợp lý ở nhiều nơi vẫn còn chậm và chưa thực sự quan tâm. Cơ cấu đầu tư chậm được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu phát triển của cơ cấu kinh tế mới. Nhu cầu vốn cho đầu tư cho CSHT nông thôn rất lớn trong khi nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm khoảng 6% tổng chi ngân sách và đáp ứng được khoảng 60 - 70% yêu cầu thực tế. Vốn của nông dân và các doanh nghiệp, HTX chiếm tỷ trọng lớn nhất trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp nhưng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thường có quy mô vừa và nhỏ lại chỉ chiếm gần 10% tổng số doanh nghiệp cả nước, do đó tốc độ mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế. Trong khi đó, chưa có nhiều cơ chế, chính sách hữu hiệu nhằm khuyến khích, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho đầu tư hạ tầng nông nghiệp nên nguồn vốn này chỉ mới chiếm khoảng 7% tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Việc đầu tư phát triển hệ thống thông tin giá cả, thị trường chưa theo kịp yêu cầu nên khả năng phân tích, dự báo còn nhiều yếu kém, chưa hướng dẫn cho nông dân nên sản xuất loại sản phẩm gì để có hiệu quả cao. Hạ tầng dịch vụ phục vụ thương mại hàng nông sản còn thiếu nhiều, hệ thống chợ bán buôn hàng nông sản chưa được quy hoạch và đầu tư phát triển mạnh, thiếu các cảng chuyên dụng, chi phí bốc xếp, lưu kho cao...làm giảm hiệu quả tiêu thụ, chưa khuyến khích được người nông dân phát triển sản xuất. Một số quy định về đất đai vẫn còn chưa thực sự phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, chưa khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp, nông hộ mong muốn xây dựng được những vùng sản xuất nguyên liệu tập trung ổn định lâu dài nhưng lại gặp khó khăn về dồn đổi, chuyển nhượng đất nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhìn chung còn chậm so với yêu cầu, chưa thực sự tạo nên chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người nông dân về tầm quan trọng của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Nhiều nơi nông dân vẫn tập trung vào sản xuất các loại cây truyền thống, ít chịu đổi mới. Phát triển sản xuất nhiều loại cây trồng, trong đó có rau, hoa, quả còn phân tán và mang nặng tính tự phát. Năng lực, trình độ cũng như việc tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu công nghệ cao chưa đáp ứng được nhu cầu. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các tổ chức nghiên cứu KH&CN còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ và sử dụng kém hiệu quả, thiếu các cán bộ có trình độ chuyên môn cao đã ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả của công tác nghiên cứu. Việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất chưa tạo ra bước đột phá để tăng nhanh năng suất, chất lượng và hiệu quả nhằm phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Mạng lưới khuyến nông tuy đã hình thành đến tận cụm xã nhưng nhìn chung vẫn chưa phát triển tương xứng với yêu cầu của sản xuất. Việc quản lý giống thiếu sự chặt chẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả kinh tế của nhiều loại rau, quả. Khâu quản lý chất lượng hàng hoá còn nhiều bất cập gây tâm lý bất an của người tiêu dùng đối với các sản phẩm sản xuất trong nước. Công tác giáo dục, tuyên truyền về VSATTP trong cộng đồng chưa triệt để; thực trạng kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, manh mún, chưa đủ điều kiện để áp dụng kỹ thuật cao trong sản xuất; hầu hết các địa phương chưa có một bộ máy hữu hiệu để quản lý vấn đề này;… Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và kiểm nghiệm về Vệ sinh an toàn thực vật và kiểm dịch thực vật còn hạn chế về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, trang thiết bị của một số cơ sở kiểm định thuốc BVTV còn nghèo nàn đã ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động kiểm nghiệm, đánh giá dư lượng thuốc BVTV đối với hàng nông sản. Trình độ nhận thức của nông dân còn hạn chế nên việc sử dụng phân bón, thuốc BVTV, thuốc bảo quản còn nhiều bất cập; nhiều nơi, nhất là các vùng ven đô thị đã xây dựng được các vùng rau, quả “an toàn” nhưng số lượng còn nhỏ bé, chưa thiết lập được mạng lưới kiểm soát, chứng nhận nên vẫn chưa khuyến khích phát triển sản xuất. Các chính sách mới thường chậm đến với hợp tác xã, kể cả văn bản dưới luật. Các HTX nông nghiệp còn quá nhiều hạn chế và yếu kém cả về tổ chức, quản lý và hoạt động. Trong quản lý, sản xuất kinh doanh, nhiều hợp tác xã còn lệ thuộc rất lớn vào chính quyền địa phương. Việc chuyển đổi và thành lập mới HTX còn mang nặng tính hình thức và thiếu những mô hình hoạt động có hiệu quả. Trình độ quản lý điều hành sản xuất, kinh doanh và nhận thức về HTX kiểu mới và Luật HTX của nhiều cán bộ cơ sở còn hạn chế; nhiều hợp tác xã khó khăn về cơ sở vật chất và thiếu vốn, không đủ sức cạnh tranh với tư nhân; cơ chế cho hợp tác xã vay vốn còn bất cập; thiếu cập nhật thông tin thị trường... nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Phát triển Kinh tế trang trại còn thiếu nguồn vốn để xây dựng những kế hoạch đầu tư dài hơi nên nhiều trang trại hoạt động chưa hiệu quả, nhiều địa phương còn thiếu quy hoạch tổng thể và chưa xác định được mô hình trang trại phù hợp nên đã nảy sinh nhiều vấn đề như hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chưa đủ đáp ứng được nhu cầu cần thiết của các trang trại. Hơn nữa, do đầu ra còn hạn chế nên việc đầu tư chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch chưa thực sự được các chủ trang trại quan tâm, dẫn đến nông sản của nhiều trang trại thiếu tính cạnh tranh so với những mặt hàng cùng loại được sản xuất với quy mô nhỏ. Phát triển kinh tế trang trại chưa thực sự đầu tư vào những sản phẩm mang tính lâu dài, những loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế; chưa đầu tư có chiều sâu và thiếu định hướng lâu dài về xây dựng những mô hình sản xuất hiện đại. Quá trình đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, tiêu thụ trong nông nghiệp, nông thôn chậm chuyển biến, thiếu tính đồng bộ. Chưa hình thành được hệ thống phân phối, kênh tiêu thụ phù hợp với nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn, hiện đại và yêu cầu hội nhập, mở cửa thị trường. Công tác tổ chức triển khai, phổ biến, tuyên truyền và vận động doanh nghiệp, người dân thực hiện Quyết định 80 còn yếu, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở cấp tỉnh, chưa được triển khai mạnh đến cấp huyện và nhất là cấp xã. Nhiều địa phương chưa chú ý đúng mức đến vai trò và tầm quan trọng của hình thức tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Việc triển khai thực hiện còn nặng về hình thức, thiếu đi sâu vào nội dung, chưa chủ động sáng tạo ban hành những chính sách cụ thể của địa phương để hỗ trợ các bên tham gia hợp đồng. Do đó, bà con nông dân và ngay cả chính quyền tại một vài địa phương chưa hiểu biết đầy đủ về chính sách liên kết ''4 nhà'', còn nhiều lúng túng trong cả khâu sản xuất và tiêu thụ. Trong sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản, đặc biệt ngành hàng rau quả, vẫn chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa vùng nguyên liệu và cơ sở sản xuất, bảo quản, chế biến. Do đó, chưa tận dụng được hết công suất, hiệu quả của các nhà máy đồng thời tác động làm cho giá cả hàng hoá thiếu ổn định, ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất. Kết cấu hạ tầng cho vùng nguyên liệu chưa thực sự được quan tâm đầu tư. Tóm lại, trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu nông sản các chính sách đã ban hành bước đầu đã tạo nên khung khổ pháp lý mang tính hệ thống, tạo môi trường hoạt động để kinh doanh xuất khẩu đi vào quỹ đạo của quản lý luật pháp và theo các qui luật của thị trường. Thành tựu về kinh doanh xuất khẩu nông sản thời gian qua là yếu tố quan trọng khẳng định hiệu quả của hệ thống chính sách và cơ chế đã ban hành. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất - chế biến - lưu thông xuất khẩu rau, hoa, quả, Nhà nước, các Bộ, ngành có liên quan chưa tạo lập được cơ chế quản lý và chính sách kinh tế thực sự khuyến khích đối với người kinh doanh rau, hoa, quả nói chung, kinh doanh xuất khẩu rau, hoa, quả nói riêng như chính sách đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học; đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch; chính sách khuyến khích về thuế; chính sách khuyến nông; chính sách bảo hiểm đối với lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu rau quả... Đồng thời, chưa có các giải pháp đủ mạnh có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng của xuất khẩu rau, hoa, quả. Những chính sách đã ban hành chung trong lĩnh vực sản xuất - lưu thông xuất khẩu nông sản vẫn còn hạn chế ở nhiều khía cạnh, cần được bổ sung nhằm khuyến khích xuất khẩu rau, hoa, quả. Bên cạnh đó, trong cam kết WTO, Việt Nam phải bỏ toàn bộ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản ngay khi gia nhập; với các khoản hỗ trợ trong nước được duy trì ở mức 10% giá trị sản lượng như các nước đang phát triển khác trong WTO. Trước mắt, năm 2007 sẽ bỏ thưởng xuất khẩu đối với thành tích xuất khẩu và thưởng vượt kim ngạch xuất khẩu. Để phát huy lợi thế so sánh của rau, hoa, quả Việt Nam trên thị trường thế giới, để thúc đẩy xuất khẩu rau, hoa quả cần phải có cơ chế quản lý và chính sách kinh tế thực sự tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích xuất khẩu, phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất và tham gia xuất khẩu rau, hoa, quả. Đồng thời, thực thi đồng bộ các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả của kinh doanh rau, hoa, quả xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu rau, hoa, quả phát triển. IV. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU QUẢ THỜI KỲ ĐẾN NĂM 2015 Để thực hiện mục tiêu đưa sản lượng trái cây lên 9 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu đạt 350 triệu USD vào năm 2010, thì phải quy hoạch vùng sản xuất cây ăn trái tập trung an toàn theo hướng GAP (sản xuất nông nghiệp tốt) và ứng dụng công nghệ sau thu hoạch tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài nước; xây dựng thương hiệu trên cơ sở đảm bảo chất lượng, khối lượng và uy tín về bao bì, nhãn hiệu, dịch vụ giao hàng; xây dựng chiến lược phát triển thị trường trong nước làm cơ sở cho xuất khẩu; đồng thời tăng cường quảng bá trái cây Việt Nam và xúc tiến thương mại. Phát triển cây ăn quả theo hướng xây dựng các vùng sản xuất tập trung chuyên canh (qui mô phải đạt trên 1.000ha), tạo ra khối lượng sản xuất đủ lớn, có chất lượng cao, đồng đều đáp ứng được yêu cầu của thị trường, trên cơ sở phát huy lợi thế và tiềm năng của từng loại cây trồng ở từng vùng. Tập trung phát triển 11 loại cây ăn quả có lợi thế cạnh tranh, trong đó có một số loại cây chủ lực phục vụ xuất khẩu như: Cam sành, Thanh long, Xoài cát Hoà Lộc, Bưởi Năm Roi, Vải, Vú sữa và Măng cụt. Mỗi tỉnh cần chọn từ 1 đến 2 hoặc 3 cây ăn quả có hội đủ các điều kiện phát triển sản xuất thành sản phẩm hàng hoá chủ lực có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. + Cam sành: dự kiến quy hoạch phát triển cây cam sành tại vùng ĐBSCL đến năm 2010 là 31 ngàn ha, đạt sản lượng 277,2 ngàn tấn; tập trung tại các tỉnh Vĩnh Long (chủ yếu ở huyện Tam Bình và Trà Ôn), Bến tre (tập trung chính ở huyện Chợ Lách, Mỏ Cày và Châu Thành), Tiền Giang (chủ yếu ở huyện Cái Bè và Cai Lậy), Hậu Giang và Cần Thơ. + Thanh Long: Quy hoạch phát triển thanh long tại 3 tỉnh vùng Đông nam bộ và ĐBSCL là Bình Thuận, Tiền Giang và Long An; Dự kiến đến năm 2010 diện tích Thanh long ở 2 vùng này đạt 14,3 ngàn ha, cho sản lượng 236,5 ngàn tấn. Về giống, ngoài giống Thanh long vỏ đỏ ruột trắng hiện nay, cần chú ý phát triển các giống mới như vỏ đỏ ruột đỏ; vỏ đỏ ruột tím và vỏ vàng ruột trắng nhằm đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. + Bưởi Năm roi: Quy hoạch phát triển bưởi Năm roi đến 2010 là 15 ngàn ha, đạt sản lượng 121,5 ngàn tấn; chủ yếu tại các tỉnh Vĩnh Long (tập trung chính ở huyện Bình Minh và Trà Ôn) và tỉnh Hậu Giang (chủ yếu ở huyện Châu Thành). + Xoài cát Hoà Lộc: Dự kiến đến 2010 có 9,0 ngàn ha xoài cát Hoà Lộc, cho sản lượng xấp xỉ 40 ngàn tấn. Tập trung ở hai tỉnh Tiền Giang (trong đó chủ yếu ở huyện Cái Bè) và tỉnh Đồng Tháp (tập trung chính ở huyện Cao Lãnh). + Sầu riêng: Quy hoạch vùng sầu riêng chủ lực tập trung tại vùng Đông nam bộ, trong đó chủ yếu ở tỉnh Đồng Nai (tập trung chính tại các huyện Cẩm Mỹ, Thị xã Long Khánh, Xuân Lộc…) và tỉnh Tây Ninh (chủ yếu tại các huyện Hoà Thành, Tân Châu và Tân Biên). Ngoài ra, cũng có thể phát triển tại một số tỉnh tại vùng ĐBSCL như Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long…Các giống Sâù riêng chất lượng cao như DONA, Chín Hoá, Ri 6 cần được chú trọng phát triển. Dự kiến đến năm 2010 tổng diện tích sầu riêng cả nước đạt gần 16 ngàn ha, cho sản lượng xấp xỉ 52 ngàn tấn. + Măng cụt: Dự kiến quy hoạch đến 2010 phát triển cây măng cụt tại một số tỉnh vùng ĐBSCL và Đông nam bộ, đạt diện tích 11,3 ngàn ha, cho sản lượng 24 ngàn tấn; Trong đó Bến Tre là tỉnh có diện tích măng cụt lớn nhất (tập trung ở các huyện Chợ Lách, Châu Thành); Tiếp theo là Vĩnh Long (tập trung ở huyện Vũng Liêm); Trà Vinh và Bình Dương (tại các huyện Thuận An, Bến Cát và Dầu Tiếng). + Vải thiều: Hai vùng trồng vải tập trung sẽ là Thanh Hà - Hải Dương và Lục Ngạn Bắc Giang. Dự kiến quy hoạch đến năm 2010 diện tích vải cả nước đạt 90 ngàn ha, cho sản lượng 315 ngàn tấn; trong đó Bắc Giang đạt 36 ngàn ha, cho sản lượng 177,5 ngàn tấn và vùng Hải Dương: 14,1 ngàn ha, đạt sản lượng 70 ngàn tấn. Về cơ cấu giống, cần chú ý phát triển các giống chín sớm và chín muộn để nhằm hạn chế tác động của thị trường khi tập trung thu hoạch lúc chính vụ, dẫn đến cung vượt quá cầu. 4.1. Các chính sách phát triển sản xuất Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gấp rút, sự tham gia của Việt Nam vào AFTA, AC-FTA, APEC hiện nay và WTO trong tương lai không xa đòi hỏi phải có những cải cách kinh tế theo hướng mở cửa thị trường và tuân thủ các quy định quốc tế. Đối với ngành nông nghiệp, các biện pháp phi thuế quan như hạn chế nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu không còn hợp lệ cần phải xoá bỏ. Thuế quan và hạn ngạch dần được thay thế bởi các biện pháp về hỗ trợ nghiên cứu phát triển, tiêu chuẩn chất lượng và môi trường đối với hàng nông sản; nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp an toàn, sản phẩm hữu cơ có chứng nhận VSATTP ngày càng tăng trên thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Để ngành nông nghiệp hội nhập thành công, cần phải phát triển sản xuất theo quy mô lớn, áp dụng được những tiến bộ khoa học kỹ thuật để tạo ra những sản phẩm chất lượng, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Trong thời gian tới, các giải pháp, chính sách để phát triển ngành nông nghiệp nói chung, ngành hàng rau quả nói riêng sẽ tập trung vào khuyến khích phát triển sản xuất như: chuyển dịch cơ cấu sản xuất; hỗ trợ việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ lãi suất đầu tư cho các dự án phát triển sản xuất, bảo quản, chế biến nông lâm sản; miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp; hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học, khuyến nông, chọn lọc, lai tạo và sản xuất giống, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới vào sản xuất; hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại... 4.1.1. Chính sách về chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đất đai, khuyến nông Để đạt được bước tiến nhanh và bền vững trong giai đoạn phát triển mới của ngành rau quả, cần phải tạo được sự phát triển mạnh mẽ về chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đổi mới chính sách đất đai, cải tiến trình độ khoa học công nghệ và quản lý... để tăng năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả của hàng hóa. Do đó, cần phải phát huy được sự nỗ lực của cả người sản xuất và kinh doanh, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành và vai trò thúc đẩy, hỗ trợ thiết thực của Nhà nước thực hiện các giải pháp: - Phát triển sản xuất rau quả gắn liền với chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, phù hợp với nhu cầu của thị trường, mở rộng thị trường trong nước đồng thời hướng mạnh ra xuất khẩu. Đổi mới cơ cấu sản xuất rau quả hợp lý để nâng cao năng suất và tăng giá trị thu được trên một đơn vị diện tích; phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến... và các dịch vụ cung cấp đầu vào, giải quyết đầu ra đối với sản xuất rau quả ngay tại địa bàn nông thôn, góp phần phát triển sản xuất bền vững và cải thiện đời sống nông dân và dân cư nông thôn. Căn cứ vào điều kiện sinh thái từng vùng, xác định các loại cây trồng phù hợp, gắn kết chặt chẽ với sản xuất chế biến, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và có tiềm năng xuất khẩu. Trên cơ sở đó, hình thành các vùng chuyên canh, xây dựng các khu công nghệ cao và đẩy mạnh công tác khuyến nông áp dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học, nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, nâng cao trình độ bảo quản, chế biến, tăng sức cạnh tranh của rau quả Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước. Các cấp, các ngành liên quan cần tiếp tục thực hiện công tác quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ đồng thời thực hiện các chính sách khuyến khích doanh nghiệp và người nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh, ứng dụng công nghệ mới, đào tạo nhân lực, cải tiến hệ thống thông tin giá cả thị trường, xây dựng thương hiệu... để góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và ngành rau quả nói riêng. - Nghiên cứu điều chỉnh các chính sách về đất đai, nhằm khuyến khích các tổ chức trong và ngoài nước tăng cường đầu tư vào nông nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, các doanh nghiệp mở rộng hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ vào sản xuất; khuyến khích người nông dân tích tụ đất, phát triển một cách ổn định và lâu dài việc sản xuất rau quả hàng hoá trên quy mô lớn, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường. Cần có chế tài về gắn kết chặt chẽ quyền lợi sử dụng đất với nghĩa vụ và trách nhiệm sử dụng đất để đảm bảo sản xuất hàng hoá đạt hiệu quả cao, gắn với mục tiêu và kế hoạch phát triển kinh tế đồng thời phát huy được lợi thế so sánh cuả từng vùng. Vận động nông dân chuyển nhượng ruộng đất, tạo cho những hộ có điều kiện sản xuất có thêm ruộng đất để mở rộng quy mô sản xuất theo hướng sản xuất trang trại. Khuyến khích nông dân góp quyền sử dụng đất và sức lao động của mình hợp tác với doanh nghiệp và các hợp tác xã để phát triển sản xuất hàng hoá, góp phần ổn định và cải thiện đời sống. - Phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới cơ bản cơ chế quản lý KHCN, đặc biệt là cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động KHCN. Chính phủ tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc biệt là các loại hình công nghệ cao; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng KHCN, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất. Có các chính sách khuyến khích nhập khẩu và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ tiên tiến trên thế giới; khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ trong nước gắn với thực tiễn, áp dụng hợp lý vào sản xuất, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản xuất rau quả. Đồng thời có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức KHCN liên kết với nhau trong việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Tiếp tục đầu tư cho các Viện, Trung tâm nghiên cứu rau, hoa, quả để có đủ năng lực nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, kỹ thuật canh tác... Đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất rau quả như nuôi cấy mô tế bào, kỹ thuật trồng các loại rau cao cấp...; xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt… Tập trung nghiên cứu, chuyển giao công nghệ vào các khâu bảo quản, bao bì vận chuyển cho rau, quả, hoa tươi nhằm giảm mức hao hụt, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản, chế biến quy mô nhỏ cho nông dân ở các vùng trồng rau quả rải rác không có điều kiện áp dụng công nghệ trên quy mô lớn. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống khuyến nông phù hợp với chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu đảm bảo 100% số huyện có trạm khuyến nông, mỗi xã có một cán bộ khuyến nông, mỗi thôn làng có một cộng tác viên khuyến nông. Để công tác khuyến nông đạt hiệu quả cao, cần kết hợp giữa hướng dẫn kỹ thuật canh tác với việc nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách của Nhà nước, thông tin về biến động giá cả thị trường, hướng dẫn bà con nông dân tổ chức sản xuất định hướng thị trường, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người nông dân... Nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách nhằm động viên, khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ quan đào tạo, nghiên cứu khoa học... chủ động tham gia vào công tác chuyển giao khoa học công nghệ, kỹ thuật canh tác cho nông dân. - Để thực hiện tốt công tác VSATTP, quản lý việc sử dụng thuốc BVTV và thuốc bảo quản nông sản, rau quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành, thiết lập được hệ thống giám sát chặt chẽ về VSATTP từ Trung ương đến địa phương. Huy động sự tham gia của toàn thể cộng đồng, xã hội hoá các hoạt động bảo đảm VSATTP. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý VSATTP phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy năng lực của các Phòng kiểm nghiệm trong việc phân tích, đánh giá, thông báo nguy cơ vi phạm quy định về sử dụng thuốc BVTV; tăng cường hệ thống quản lý sản xuất và tiêu thụ rau, hoa, quả tươi theo đúng tiêu chuẩn VSATTP, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất và bảo quản rau, hoa, quả tươi; tổ chức tốt công tác đào tạo, tập huấn nâng cao nghiệp vụ giám sát việc thực hiện VSATTP; tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, nâng cao trình độ nhận thức và trách nhiệm của người sản xuất trong việc sử dụng thuốc BVTV, chất bảo quản...; phát triển các vùng sản xuất rau, quả an toàn, đảm bảo chất lượng VSATTP phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Nghiên cứu phát triển các loại giống mới chất lượng cao và tăng cường công tác quản lý giống: Cần có các chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào ngành giống để phát triển sản xuất giống theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư nâng cấp và hoàn thiện các cơ sở sản xuất giống từ Trung ương đến địa phương; nâng cao năng lực quản lý chất lượng giống và hệ thống quản lý Nhà nước về công tác giống ở tất cả các cấp; hoàn thiện khung pháp lý về quản lý giống phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Chú trọng việc ứng dụng công nghệ sinh học để nâng cao chất lượng chọn tạo giống, tạo ra nhiều giống mới năng suất cao, chất lượng tốt, giống trái vụ, rải vụ, phục tráng giống đặc sản địa phương... để đưa vào sản xuất. Các địa phương lựa chọn những loại cây chủ lực có thế mạnh và tiềm năng phát triển để được đầu tư trong Chương trình Giống; xây dựng một số mô hình sản xuất giống quy mô công nghiệp phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của từng địa phương. Tiếp tục đầu tư cho các Viện, Trung tâm nghiên cứu rau, hoa, quả để có đủ năng lực nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống; đặc biệt quan tâm đến việc chuyển giao các loại giống tốt, sạch bệnh đã qua khảo nghiệm vào sản xuất đại trà. Gắn kết chương trình giống quốc gia với chương trình khuyến nông để chuyển giao nhanh các tiến bộ về giống, kỹ thuật canh tác, thâm canh mới vào vùng sản xuất nguyên liệu. - Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực chuyển giao khoa học công nghệ, khuyến nông, vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật Tăng cường hợp tác, trao đổi tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học trong lĩnh vực rau quả với các nước thông qua các hội nghị, hội thảo, diễn đàn khoa học quốc tế... Ngoài chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đề nghị Nhà nước xem xét có chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu đối với công nghệ sản xuất, bảo quản, chế biến rau quả để tăng cường nhập khẩu công nghệ tiên tiến. Nhiều doanh nghiệp phản ánh các đề tài của các cơ quan nghiên cứu không thiết thực phục vụ cho doanh nghiệp; Vì vậy ngoài các ưu đãi đã có Nhà nước cần phải đưa ra các hỗ trợ tài chính mạnh hơn nữa nhằm giúp các doanh nghiệp đủ cơ sở vật chất kỹ thuật để họ tự tiến hành các hoạt động nghiên cứu ứng dụng phục vụ sản xuất kinh doanh; chẳng hạn như: có chính sách để các doanh nghiệp được tiếp cận với các nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học (không chỉ các doanh nghiệp Nhà nước mà cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, kể cả tư nhân); tăng mức hỗ trợ từ không quá 30% như hiện nay lên tới 50-70%. Khuyến khích mọi tổ chức cá nhân, kể cả nước ngoài tham gia nghiên cứu lai tạo và sản xuất giống tốt cung ứng cho sản xuất rau, hoa, quả. Nhập nội nguồn gen và những giống mới cần thiết để tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Về khuyến nông, tích cực tham gia các hoạt động về khuyến nông trong các chương trình hợp tác quốc tế; trao đổi kinh nghiệm về khuyến nông với các tổ chức, cá nhân trên thế giới. - Tăng cường hợp tác quốc tế về lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm: hợp tác với ủy ban tiêu chuẩn hoá thực phẩm (Codex) thế giới và khu vực trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn thực phẩm; thực hiện Hiệp định về áp dụng các biện pháp VSATTP và kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS) và Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) trong tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới nhằm hạn chế việc vi phạm các quy định về VSATTP. Kêu gọi nguồn đầu tư từ các Dự án quốc tế cho việc nâng cấp và hoàn thiện hệ thống các phòng Kiểm nghiệm VSATTP, Kiểm định thuốc BVTV và đào tạo cán bộ quản lý, kiểm nghiệm trong lĩnh vực này. Nhanh chóng xúc tiến việc ký kết Hiệp định về bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Hiệp định công nhận lẫn nhau (MRA) về tiêu chuẩn VSATTP với các nước, đặc biệt với Mỹ, EU, Nhật... 4.1.2. Chính sách hỗ trợ sản xuất, bảo quản và chế biến rau, quả xuất khẩu - Phát huy mọi nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất, kinh doanh và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đặc biệt chú trọng khu vực nông thôn; thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng đầu tư cho những ngành, lĩnh vực có tiềm năng phát triển, trong đó có ngành hàng rau quả. Tăng thêm nguồn vốn từ Ngân sách Trung ương và địa phương đồng thời huy động sức dân để đầu tư phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, trong đó có sản xuất rau quả như: xây dựng hệ thống điện lưới, thuỷ lợi, đường sá, nhà xưởng và thiết bị sản xuất - bảo quản - chế biến, cơ sở nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, cơ sở kỹ thuật nông nghiệp (trung tâm sản xuất giống, trung tâm kiểm định thuốc BVTV) và phòng chống ô nhiễm môi trường. Để đảm bảo phát triển sản xuất nông sản hàng hoá bền vững, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước kể cả về kỹ thuật và vốn đầu tư cho người nông dân đồng thời có các chính sách ưu tiên đối với các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp vì khó khăn và rủi ro trong lĩnh vực này khá lớn. Do đó, cần tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và cả người nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Thu hút mạnh hơn nữa đầu tư của nước ngoài để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất và tiêu thụ rau quả. - Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính, thực hiện chương trình cải cách chế độ thuế đi đôi với chấn chỉnh tổ chức và cải tiến phương thức thu thuế, đổi mới cơ chế tín dụng, quy chế và thủ tục cho vay. Khắc phục tình trạng phân tán của các kênh tín dụng và quá nhiều đầu mối cho vay ưu đãi với các mức lãi suất khác nhau đang tồn tại. Tạo điều kiện không chỉ cho các doanh nghiệp Nhà nước mà cả các doanh nghiệp tư nhân, HTX và hộ nông dân dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng; cần có chính sách hấp dẫn và ưu đãi hơn, đặc biệt là huy động nguồn vốn trung và dài hạn; góp phần đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh rau quả. Sản xuất, kinh doanh rau quả có rất nhiều khó khăn, đặc biệt chịu ảnh hưởng rất nhiều vào biến động thời tiết, sản xuất manh mún, lợi nhuận thấp. Để tạo thuận lợi cho sự phát triển của ngành hàng này, trước mắt đề nghị Nhà nước xem xét: đưa các dự án sản xuất, chế biến, bảo quản rau quả vào danh mục các dự án được vay vốn từ quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước với lãi suất đặc biệt ưu đãi 3%/năm, thời gian trả nợ từ 12 – 15 năm, thời gian ân hạn từ 3 – 5 năm; giãn thời gian trả nợ từ 12 – 15 năm đối với các dự án đã đầu tư; cho khoanh nợ đối với các dự án đặc biệt khó khăn. - Chính sách thuế: Để khuyến khích phát triển cây ăn quả trong các vùng quy hoạch Nhà nước nên có các chính sách ưu đãi về thuế cho các các hoạt động sản xuất và kinh doanh trái cây như sau: + Miễn thuế VAT cho các HTX và cơ sở kinh doanh trái cây (hiện nay mức thuế này là 5% và chỉ các hộ kinh doanh cá thể thì được miễn); + Miễn thuế nông nghiệp cho các hộ trồng mới hoặc cải tạo vườn cây ăn quả trong thời gian trồng mới, kiến thiết cơ bản và 3 năm đầu cho thu hoạch; + Giảm thuế xuất khẩu trái cây cho các doanh nghiệp (xuống 30-50%). - Chính sách tín dụng: Các doanh nghiệp có dự án đầu tư sản xuất, chế biến-bảo quản và tiêu thụ trái cây ở vùng sâu, vùng xa chưa được hưởng các hỗ trợ tài chính như thông tư của Bộ Tài chính; Lãi suất cho vay đầu tư quá cao (5,4 – 9,0%/năm) thời gian trả nợ quá ngắn (3-5 năm). Cần phải sửa đổi các chính sách tín dụng hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng được vay vốn với lãi suất ưu đãi; tăng thời gian trả nợ (lên tới 12-15 năm) và giảm mức lãi suất vay (xuống 3%/năm). - Chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: theo luật Khuyến khích đầu tư, Nhà nước cam kết sẽ đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp (có thể hiểu là cơ sở chế biến bảo quản rau quả), nhưng thực tế hầu hết các doanh nghiệp đều phải tự đầu tư cơ sở hạ tầng dẫn đến khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp; Kiến nghị: + Cụ thể hoá Khoản 2, Điều 8, Chương 2 (về Đảm bảo hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp và khu chế xuất) bằng các văn bản dưới luật, có thể dưới dạng Nghị định hoặc Quyết định cho từng khu công nghiệp cụ thể của Chính phủ. Hạ tầng cơ sở chủ yếu bao gồm: đường giao thông, điện, nước và hệ thống thoát nước. + Xây dựng chính sách (chủ yếu về tài chính) để huy động nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành kinh tế tham gia xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, ví dụ như: được giao đất không thu tiền sử dụng đất; được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần vốn đầu tư dự án; được miễn giảm thuế tài nguyên theo quy định tại Nghị định số 68/1998/NĐ-CP ngày 3/9/1998 của Chính phủ… 4.1.3. Xây dựng thí điểm các mô hình Trung tâm sản xuất và xuất khẩu rau, hoa, quả Các địa phương rà soát lại quy hoạch diện tích trồng rau, hoa, quả trên địa bàn, phát triển sản xuất hợp lý trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng. Tuỳ theo điều kiện và yêu cầu phát triển của từng địa phương, trước mắt xây dựng các mô hình thí điểm giải quyết đồng loạt các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ; áp dụng khoa học kỹ thuật canh tác và bảo quản tiên tiến, chú trọng phát triển mô hình sản xuất công nghệ cao, công nghệ sạch; tạo sản phẩm có chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm với số lượng ổn định đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Từ những mô hình thí điểm thành công, sẽ phát triển thành các vùng chuyên canh sản xuất rau, hoa, quả phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng như: Miền Bắc (phát triển sản xuất rau, hoa, quả tại một số tỉnh ĐBSH và Trung du, Miền núi phía Bắc...); Miền Trung (phát triển sản xuất rau, hoa tại Đà Lạt, thanh long tại Bình Thuận...); Nam Bộ (phát triển sản xuất trái cây như xoài, chôm chôm, nhãn, bưởi... tại các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL). Để có được nguồn hàng rau, hoa, quả với khối lượng lớn, giá cả ổn định, đảm bảo chất lượng và yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu, bên cạnh việc phát triển sản xuất, các cấp các ngành cần quy hoạch lại cơ sở hạ tầng thương mại (kho tàng, cảng biển, bến bãi vận chuyển, trung tâm giao dịch, chợ...), nâng cấp và xây dựng mới các chợ đầu mối rau, hoa, quả, nông sản tại các khu vực trọng tâm của các vùng, các khu đô thị... và thành lập các Trung tâm trung chuyển và giao dịch rau, hoa, quả tươi tại những địa bàn thích hợp. Các chợ đầu mối và Trung tâm này sẽ là nơi giao dịch ký kết các hợp đồng mua bán và tập kết rau, hoa, quả tươi của các vùng lân cận để thực hiện các hợp đồng tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; do đó, cần phải chọn các địa điểm thuận lợi về đường giao thông giao lưu giữa các vùng, gần các vùng sản xuất rau, hoa, quả chuyên canh lớn và các cửa khẩu biên giới, cảng biển... và có tiềm năng phát triển về lâu dài. Trước mắt, có thể xem xét lựa chọn một số địa điểm để thành lập các Trung tâm như: + Tại cửa khẩu biên giới phía Bắc, thành lập Trung tâm trung chuyển và giao dịch rau, hoa, quả tại Lào Cai để tập kết, bảo quản và ký kết các hợp đồng xuất khẩu rau, hoa, quả sang thị trường Trung Quốc, nhằm giảm thiểu tình trạng hư hại sản phẩm hàng hoá và tránh nguy cơ bị ép cấp, ép giá. + Tại miền Trung thành lập Trung tâm trung chuyển và giao dịch rau, hoa, quả tươi tại Đà Lạt với chức năng tập kết, bảo quản các loại rau, hoa, quả từ các địa phương phía Nam dành để xuất khẩu. + Tại Nam Bộ, chọn một chợ đầu mối lớn kinh doanh mặt hàng trái cây tại thành phố Hồ Chí Minh để làm nơi thu gom, bảo quản, trung chuyển hàng hoá cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Để tạo thuận lợi cho việc xây dựng các mô hình thí điểm sản xuất - tiêu thụ rau, hoa, quả và các trung tâm trung chuyển và giao dịch rau, hoa, quả tươi, đề nghị Nhà nước xem xét áp dụng các chính sách khuyến khích như: Cấp đất với thời hạn sử dụng lâu dài; Hỗ trợ một phần cho việc phát triển cơ sở hạ tầng (mạng lưới điện, nước, đường giao thông...) và việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho sản xuất hàng hoá phục vụ xuất khẩu (như nhà kính, nhà lưới, hệ thống tưới tiêu, nhà lạnh, kho tàng, khu đóng gói hàng hoá...) cho các doanh nghiệp xây dựng mô hình thí điểm và trung tâm trung chuyển, giao dịch hàng hoá; Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được phép vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị sản xuất, bảo quản, giống cây trồng và vật tư nông nghiệp...; Chú trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực với kỹ năng cao, đảm bảo sản xuất, bảo quản hàng hoá đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, nâng cao nghiệp vụ giám sát đảm bảo VSATTP từ khâu trồng trọt, bảo quản đến tiêu thụ; Hỗ trợ các hoạt động quảng bá sản phẩm, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu... 4.1.4 Chính sách liên kết trong sản xuất theo mô hình - Mô hình liên kết Hiệp hội: Để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong sản xuất và kinh doanh rau, hoa, quả đồng thời phối hợp, thống nhất hành động giữa các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của các đối tác trong bối cảnh hội nhập và tự do hoá thương mại, các Hiệp hội ngành hàng đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết các doanh nghiệp và làm chức năng cầu nối giữa Nhà nước với các doanh nghiệp. Hiện nay, trong lĩnh vực rau, hoa. quả mới có Hiệp hội trái cây Việt Nam hoạt động, đã và đang góp phần thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ trái cây trên các vùng, miền. Trong thời gian tới, ngoài Hiệp hội Trái cây, cần xem xét thành lập các Hiệp hội chuyên về từng loại cây trồng, hoặc có thể thành lập các Hiệp hội chuyên về từng loại rau, hoa, quả đặc sản. Giữa các Hiệp hội này cần xây dựng quy chế liên kết, phối hợp nhằm thực hiện mục tiêu phát triển sản xuất và tiêu thụ rau, hoa, quả, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực chính như: Xác định phương hướng phát triển sản xuất, kinh doanh, phổ biến và khuyến khích các thành viên áp dụng tiến bộ khoa kỹ thuật vào sản xuất; Nhận định tình hình sản xuất, giá cả thị trường, đề ra phương thức liên kết và hợp tác sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các thành viên; Cung cấp thông tin về thị trường giá cả, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, VSATTP của các nước... cho các thành viên thông qua các tạp chí định kỳ, website của Hiệp hội; Hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức cho các thành viên tham gia các lớp tập huấn, hội thảo, hội chợ triển lãm, tham quan, khảo sát thị trường trong và ngoài nước; Bảo vệ quyền lợi hội viên; Phản ánh nguyện vọng của các thành viên đến các cơ quan Nhà nước, đề xuất với Chính phủ phương hướng phát triển, cơ chế quản lý ngành hàng, các chính sách, giải pháp nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ hàng hoá... Để tạo điều kiện cho hoạt động của các Hiệp hội, cần có văn bản pháp quy của Nhà nước quy định cơ chế phối hợp hoạt động giữa các Bộ ngành liên quan với các Hiệp hội, giữa các Hiệp hội với nhau và giữa các thành viên trong Hiệp hội. Tăng cường năng lực cho các Hiệp hội ngành hàng để làm vai trò thống nhất hành động giữa các thành viên trong sản xuất, kinh doanh, xúc tiến thương mại... - Mô hình liên kết Hợp tác: Trong bối cảnh sản xuất hàng hoá phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường gay gắt, việc liên doanh, liên kết sẽ tạo điều kiện cho các hợp tác xã nâng cao năng lực, sản xuất theo quy hoạch và có kế hoạch; tiết kiệm được mức chi phí sản xuất dẫn đến giảm giá thành sản phẩm; tạo khả năng cạnh tranh để thúc đẩy sản xuất phát triển; ổn định giá cả ngay từ đầu vụ thông qua việc thực hiện các hợp đồng kinh tế chính thức... Để đạt hiệu quả cao trong sản xuất, kinh doanh nông sản nói chung, rau quả nói riêng, cần chú trọng đến vấn đề nâng cao năng lực quản lý và trình độ chuyên môn cho cán bộ HTX, tổ chức liên kết tạo nên các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng, phù hợp với nhu cầu phát triển của từng địa bàn. Liên doanh, liên kết giữa các hợp tác xã để giải quyết các vấn đề: cung ứng vật tư nông nghiệp; tổ chức các hoạt động khuyến nông, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới có giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ vào sản xuất; dịch vụ tín dụng nội bộ; góp vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, bảo quản, chế biến, tiêu thụ, bao tiêu sản phẩm, tạo nguồn hàng lớn cho thị trường... góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất. Trong quá trình hội nhập kinh tế, hàng hoá và dịch vụ xuất, nhập khẩu có khả năng cạnh tranh cao về giá cả và chất lượng, sức mua của khu vực nông thôn ngày càng tăng, các HTX sẽ là đầu mối quan trọng liên kết nhiều công đoạn của quá trình sản xuất, tiêu thụ. Do đó, các hợp tác xã cần chủ động tiếp cận các đối tác thương mại và đầu tư theo hướng vừa liên kết, vừa cạnh tranh. Chú trọng đẩy mạnh việc liên kết không chỉ giữa các hợp tác xã với nhau mà còn giữa các hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cả về vốn, tổ chức và sản xuất, kinh doanh, thị trường; từng bước phát triển các liên hiệp hợp tác xã với quy mô và hình thức đa dạng như liên kết tổ chức sản xuất, bảo quản giống cây trồng; liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm... Để việc liên kết đạt hiệu quả, trước hết cần có sự thay đổi tư duy của cán bộ quản lý của mỗi HTX và tác động của các ngành, các cấp và các chính sách cụ thể của Nhà nước. Tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền về Luật HTX và các văn bản hướng dẫn thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác và HTX. Bên cạnh đó, cần có những chính sách và giải pháp tổng hợp về quản lý, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ sở hạ tầng, tài chính, thị trường... để khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc phát triển các hình thức liên kết hợp tác. Nhanh chóng thành lập Quĩ hỗ trợ phát triển HTX nhằm hỗ trợ các HTX đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy hình thành các mô hình liên kết HTX... Thông qua Quỹ, chính sách hỗ trợ khuyến khích của Nhà nước đối với HTX sẽ tập trung hỗ trợ cho các hoạt động như: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX, dạy nghề cho người lao động, đổi mới phát triển sản phẩm, công nghệ, kỹ thuật; phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; xây dựng và nhân rộng các mô hình HTX, liên hiệp HTX mới, các mô hình điển hình tiên tiến. - Mô hình liên kết vệ tinh với vai trò lãnh đạo là các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu: Để phát triển sản xuất rau quả hàng hoá quy mô lớn, đa dạng, có năng suất và chất lượng cao, định hướng thị trường, cần đẩy mạnh sản xuất - tiêu thụ thông qua hợp đồng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và người sản xuất (hợp tác xã, hộ nông dân, trang trại hoặc đại diện hộ nông dân), trong đó các doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Do đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp chủ động, tích cực triển khai ký kết hợp đồng với người sản xuất, tạo nên sự tin cậy giữa hai bên, gắn kết chặt chẽ trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên trong việc thực hiện hợp đồng; gắn sản xuất với bảo quản, sơ chế, chế biến hàng hoá, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Dựa trên điều kiện sinh thái của từng vùng, các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương quy hoạch lại vùng sản xuất, xác định để phát triển các loại rau, hoa, quả có tiềm năng, đem lại giá trị cao và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng với người sản xuất ngay từ đầu vụ với nhiều hình thức như: ứng trước vốn, vật tư nông nghiệp (giống, phân bón, thuốc BVTV...), hỗ trợ về kỹ thuật canh tác, công nghệ bảo quản, sơ chế và mua lại rau quả hàng hoá; Bán vật tư nông nghiệp và mua lại sản phẩm rau quả; Trực tiếp tiêu thụ rau quả hàng hóa. Doanh nghiệp và nông dân cần nhận thức rõ được tầm quan trọng của sự liên kết để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ là con đường duy nhất để tồn tại trong nền kinh tế hội nhập, trước sự cạnh tranh hết sức gay gắt về chất lượng và giá cả của thị trường rau, quả trong khu vực và thế giới. Về phía doanh nghiệp, cần xác định rõ trách nhiệm cụ thể đối với người sản xuất như: cung ứng vật tư nông nghiệp; áp dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm; nâng cao tính chủ động để hoạt động quản lý, điều hành sản xuất có hiệu quả; có biện pháp khuyến khích người sản xuất có ý thức trách nhiệm tạo ra nguồn hàng ổn định và đảm bảo chất lượng để phục vụ sản xuất chế biến, tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Về phía các hộ nông dân, được sử dụng đất đai của mình để góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết với doanh nghiệp hoặc cho doanh nghiệp thuê đất sản xuất; được hỗ trợ về giống, kỹ thuật canh tác, bảo quản và bao tiêu sản phẩm ổn định lâu dài từ phía doanh nghiệp. Thông qua hợp đồng, người nông dân ngay từ đầu vụ sản xuất xác định rõ lượng vật tư nông nghiệp cần đầu tư, các biện pháp kỹ thuật, giá cả hợp lý, các khoản bảo hiểm giá nông sản... để yên tâm sản xuất. Xác định được trách nhiệm làm vệ tinh của mình, người nông dân chủ động và mạnh dạn hưởng ứng chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đầu tư phát triển sản xuất, giảm giá thành, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, gom đủ nguồn hàng theo đúng thời hạn hợp đồng với doanh nghiệp. Để phát triển hình thức liên kết sản xuất - tiêu thụ giữa doanh nghiệp và người nông dân, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách tạo điều kiện cho cả hai phía đồng thời khuyến khích các hộ nông dân hình thành các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện làm vệ tinh cho doanh nghiệp. UBND các tỉnh, thành phố cần tiếp tục rà soát, xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch các vùng sản xuất rau quả tập trung; chỉ đạo thực hiện việc đồn điền, đổi thửa ở nơi cần thiết; tạo thuận lợi để nông dân thực hiện quyền hợp pháp về sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần hoặc liên kết với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu rau quả; ưu tiên cho các doanh nghiệp được thuê đất để xây dựng kho tàng bảo quản, bến bãi vận chuyển hàng hoá...; tạo điều kiện cho người nông dân và doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ rau quả hàng hoá. Ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần việc đầu tư xây dựng CSHT sản xuất và thương mại (đường giao thông, thuỷ lợi, điện, kho tàng bảo quản, chợ, hệ thống thông tin thị trường, kiểm định chất lượng...) đối với các vùng nguyên liệu tập trung gắn với cơ sở bảo quản chế biến, tiêu thụ rau quả có hợp đồng tiêu thụ. Đẩy mạnh công tác khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật và công nghệ cho vùng nguyên liệu, sản xuất hàng hoá tập trung nằm trong hợp đồng. Về tài chính, tín dụng, tạo điều kiện cho người sản xuất ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm được vay vốn từ các ngân hàng thương mại để đầu tư phát triển sản xuất; Cải tiến thủ tục vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển để các doanh nghiệp thuộc diện vay vốn được thuận lợi, đồng thời tăng mức vốn vay đầu tư ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển để đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, tiêu thụ nông sản hàng hoá. Nghiên cứu xây dựng chế độ bảo hiểm, bảo lãnh hợp đồng, ban hành văn bản qui phạm pháp luật về chế tài xử lý tranh chấp đối với các hợp đồng thu mua nông sản thực hiện theo Quyết định 80 của Chính phủ. Các địa phương tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu rõ được nội dung, mục đích của chính sách liên kết tiêu thụ nông sản hàng hoá với các doanh nghiệp, tôn trọng và thực hiện đúng hợp đồng đã cam kết. Tăng cường vai trò của các HTX, tổ hợp tác, nhóm hộ đại diện cho nông dân làm chức năng cầu nối giữa nông dân với doanh nghiệp trong việc thực hiện hợp đồng. Vận động nông dân tự giác tham gia tổ liên kết sản xuất, HTX; chú trọng xây dựng các HTX, tổ hợp tác thành vệ tinh của doanh nghiệp trong việc thu mua và tiêu thụ nông sản tại các địa bàn. Đồng thời, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp liên kết sản xuất tiêu thụ với nông dân trong việc: nâng cao sức cạnh tranh, giảm chi phí sản xuất thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin định hướng cho kinh doanh, công tác kiểm soát chất lượng, xuất xứ hàng nông sản và đăng ký kinh doanh nông sản, tìm kiếm và mở rộng thị trường. - Mô hình liên doanh với doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài: Tiến trình hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho hàng nông sản Việt Nam hướng mạnh ra xuất khẩu đồng thời đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Cơ chế chính sách ngày càng đổi mới theo hướng phù hợp với các thông lệ quốc tế sẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài tăng thêm đầu tư vào ngành nông nghiệp. Mặt khác, việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao giá trị hàng hoá, tăng cường đầu tư xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cũng mở ra những cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Để xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, đa dạng và bền vững; áp dụng khoa học kỹ thuật làm ra các sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, cải thiện đời sống của người nông dân, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực kể cả nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần hướng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào việc phát triển công nghệ sinh học để tạo ra giống mới có năng suất, chất lượng cao; đổi mới công nghệ bảo quản, chế biến để tăng giá trị nông sản hàng hoá... Đối với ngành rau quả, để phát triển các loại cây trồng có khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu, có thể sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án phát triển sản xuất, bảo quản, chế biến rau quả theo hướng thâm canh nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Trong đó, chú trọng đầu tư vào sản xuất rau quả trên các vùng đất hoang hoá chưa sử dụng; sản xuất, nhân và lai tạo giống rau quả có hiệu quả kinh tế cao; ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ sạch vào sản xuất; đầu tư bảo quản rau quả sau thu hoạch; dịch vụ kỹ thuật canh tác và bảo vệ cây trồng; đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm, trạm thí nghiệm nhằm ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất... là các dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư và đặc biệt ưu đãi đầu tư. Các mô hình sản xuất có thể với các hình thức: huy động 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Để có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThuc trang va phuong huong phat trien san xuat cac loai cay an trai31122.doc