Tham gia hoạt động kinh tế của người di cư tại thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu Tham gia hoạt động kinh tế của người di cư tại thành phố Hồ Chí Minh: Xã hội học, số 4 (116), 2011 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 80 THAM GIA HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI DI CƯ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGÔ THỊ KIM DUNG* Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009, thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) có dân số 7.162.864 người. Từ năm 1999 đến năm 2009, trong vòng 10 năm, dân số thành phố tăng thêm 2.125.709 người, bình quân tăng hơn 212.000 người/năm, tốc độ tăng 3,54%/năm (tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của thành phố chỉ đạt 1,27%) (Hạnh Nhung, 2009). Lao động di cư là nguồn nhân lực quan trọng bổ sung vào nguồn nhân lực của thành phố để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Người lao động di cư nhanh chóng tìm được việc làm trong các khu vực kinh tế khác nhau, chủ yếu là trong khu vực kinh tế tư nhân; đáp ứng cả nguồn nhân lực có tay nghề cao lẫn không có tay nghề, lao động phổ thông. Một trong những khía cạnh quan trọng của quá trình hội nhập của người di cư tự do vào đời sống đô thị tại Tp.Hồ Chí Minh là vấn...

pdf8 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tham gia hoạt động kinh tế của người di cư tại thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học, số 4 (116), 2011 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 80 THAM GIA HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI DI CƯ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGÔ THỊ KIM DUNG* Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009, thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) có dân số 7.162.864 người. Từ năm 1999 đến năm 2009, trong vòng 10 năm, dân số thành phố tăng thêm 2.125.709 người, bình quân tăng hơn 212.000 người/năm, tốc độ tăng 3,54%/năm (tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của thành phố chỉ đạt 1,27%) (Hạnh Nhung, 2009). Lao động di cư là nguồn nhân lực quan trọng bổ sung vào nguồn nhân lực của thành phố để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Người lao động di cư nhanh chóng tìm được việc làm trong các khu vực kinh tế khác nhau, chủ yếu là trong khu vực kinh tế tư nhân; đáp ứng cả nguồn nhân lực có tay nghề cao lẫn không có tay nghề, lao động phổ thông. Một trong những khía cạnh quan trọng của quá trình hội nhập của người di cư tự do vào đời sống đô thị tại Tp.Hồ Chí Minh là vấn đề việc làm. Bài viết này tóm lược một vài kết quả nghiên cứu từ đề tài “Sự hội nhập của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh”, số liệu thu thập từ 658 người di cư tự do sinh sống tại 6 quận, huyện. Bài viết tập trung vào một số điểm sau đây: khả năng tìm được việc làm, gia nhập vào thị trường lao động của những người di cư và thu nhập của họ. 1. Thời gian tìm việc khi mới đến Thành phố Hồ Chí Minh Năm 2009, GDP của Tp. HCM đạt 8%. Khoảng 30 % GDP của thành phố là do người di cư đóng góp. Nền kinh tế thành phố tăng trưởng mạnh, đặc biệt là tỷ trọng khu vực kinh tế phi chính thức lớn, thu hút lao động từ các tỉnh đến, nhất là dòng di cư nông thôn-đô thị. Cơ hội việc làm là rất lớn cho người di cư. Bảng 1. Thời gian tìm được việc làm khi đến Tp. HCM Thời gian tìm việc Tần số % % có giá trị Dưới 1 tháng 362 55,0 66,7 Từ 1 – dưới 2 tháng 80 12,2 14,7 Trên 6 tháng 44 6,7 8,1 Từ 2 - dưới 3 tháng 30 4,6 5,5 Từ 3 – dưới 6 tháng 27 4,1 5,0 Tổng 543 82,5 100.0 Không có việc làm 70 10,6 Không nhớ 45 6,8 Tổng 115 17,5 Tổng chung 658 100,0 Nguồn: Đề tài”Sự hội nhập của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh”. * ThS, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, thành phố Hồ Chí Minh. Ngô Thị Kim Dung 81 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Khả năng hấp thu lao động của thị trường lao động được đáng giá thông qua chỉ báo thời gian người di cư tìm được việc làm sau khi đến Tp.HCM. Trên 2/3 người di cư tìm được việc làm ngay trong tháng đầu tiên hoặc tháng thứ 2 sau khi đến Tp.HCM: 66,7% tìm được việc làm dưới 1 tháng, 14,7% tìm được việc làm từ 1 tháng đến dưới 2 tháng. Điều này cho thấy nhu cầu nguồn nhân lực của thành phố rất lớn. Khả năng hấp thu lao động của thị trường lao động thành phố rất mạnh do người di cư tìm được việc làm rất nhanh chóng. Bảng 2. Thời gian tìm được việc làm khi đến Tp.HCM phân theo trình độ học vấn Thời gian tìm được việc làm Mù chữ Tiểu học THCS THPT Trung học đến đang học ĐH Đại học trở lên Tổng Dưới 1 tháng Tần số 3 74 176 74 19 16 362 % 100,0 65,5 68,0 66,7 52,8 76,2 66,7 Từ 1 - dưới 2 tháng Tần số 19 36 19 6 80 % 16,8 13,9 17,1 16,7 14,7 Từ 2 - dưới 3 tháng Tần số 5 18 3 2 2 30 % 4,4 6,9 2,7 5,6 9,5 5,5 Từ 3 - dưới 6 tháng Tần số 5 12 5 3 2 27 % 4,4 4,6 4,5 8,3 9,5 5,0 Trên 6 tháng Tần số 10 17 10 6 1 44 % 8,8 6,6 9,0 16,7 4,8 8,1 Tổng Tần số 3 113 259 111 36 21 543 % 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Đề tài”Sự hội nhập của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh”. Trình độ học vấn có ảnh hưởng đến thời gian tìm việc của người di cư. Người di cư có trình độ học vấn khác nhau đều dễ dàng tìm được việc làm ngay 1-2 tháng đến Tp. HCM. Người có trình độ học vấn cao phải tốn nhiều thời gian hơn để tìm việc làm đầu tiên tại Tp. HCM. Có 4,8% những người có trình độ đại học trở lên mất trên 6 tháng mới tìm được việc làm, 9,5% tìm được việc làm từ 3 đến 6 tháng; trên 6 tháng: 16,7% những người có trình độ trung cấp đến đang học đại học mới tìm được việc làm, họ mất nhiều thời gian hơn để tìm được việc làm so với những người có trình độ cấp 1, cấp 2 và cấp 3. Phải chăng là do thị trường lao động giản đơn hấp thu lao động mạnh hơn, hoặc là do người di cư có trình độ học vấn cao hơn có sự cân nhắc, lựa chọn kỹ hơn về việc làm. Nhìn chung, nam di cư xin việc dễ hơn nữ di cư: trong vòng dưới 1 tháng có 69,8% nam di cư đã xin được việc làm khi đến thành phố, trong khi đó tỷ lệ này ở nữ là 63,9%. 9,7% nữ di cư tìm được việc làm trên 6 tháng, tỷ lệ này ở nam giới là 6,3%. Những người di cư có nghề nghiệp chuyên môn, công nhân-thợ kỹ thuật tìm được Tham gia hoạt động kinh tế của người di cư.. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 82 việc làm ngay trong tháng đầu tiên đến Tp.HCM chiếm tỷ lệ khá cao so với các nhóm nghề khác (trên 65%). Tuy nhiên, có 8,1% những người có nghề cần trình độ chuyên môn trên 6 tháng mới tìm được việc làm. Có lẽ những người này cần có thời gian để tìm được việc làm phù hợp với trình độ của mình. Như vậy nhu cầu nguồn nhân lực của thành phố khá đa dạng cả về nguồn nhân lực có trình độ cao và nguồn lao động phổ thông, lao động chân tay. 2. Nơi làm việc của lao động di cư Lao động di cư tham gia vào nhiều loại hình tổ chức lao động. Nơi thu hút lao động di cư đến làm việc nhiều nhất là các doanh nghiệp tư nhân: 47,2%; 32,9% người di cư tự tổ chức làm việc cho gia đình. 12% người di cư làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 7,9%người di cư làm cho doanh nghiệp Nhà nước. Bảng 3. Nơi làm việc phân theo giới tính Nơi làm việc Giới tính Tổng Nam Nữ Cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước Tần số 24 18 42 % 9,2 6,6 7,9 Doanh nghiệp, hộ sản xuất tư nhân Tần số 137 114 251 % 52,5 42,1 47,2 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tần số 23 41 64 % 8,8 15,1 12,0 Làm cho gia đình hoặc nơi khác Tần số 77 98 175 % 29,5 36,2 32,9 Tổng Tần số 261 271 532 % 100,0 100,0 100,0 Nguồn:Đề tài”Sự hội nhập của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh”. Cả nam và nữ di cư làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên nữ giới chiếm tỷ lệ thấp hơn: 42,1% so với 52,5%. Ngược lại, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (15,1% so với 8,8%), làm cho gia đình(36,2% so với 29,5%), nữ di cư chiếm tỷ lệ cao hơn so với nam di cư . Những người có nghề được đào tạo bài bản, trí thức có cơ hội việc làm trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước nhiều hơn các nhóm nghề khác: 25,5%; trong khi đó công nhân-thợ kỹ thuật được làm trong khu vực cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước chỉ chiếm 9,4% và thấp hơn nữa ở các nhóm nghề khác. Người di cư có trình độ chuyên môn và công nhân thợ kỹ thuật làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân có tỷ lệ tương đương nhau: 55,3% và 55,9% và cao hơn gấp đôi so với những người làm nghề kinh doanh buôn bán hoặc lao động phổ thông. Những người di cư kinh doanh, buôn bán hoặc lao động phổ thông làm việc phần lớn ở khu vực kinh tế gia đình, cá thể: chiếm 62,9%; lao động phổ thông: 71,2%. Ngô Thị Kim Dung 83 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Bảng 4. Nơi đang làm việc phân theo nhóm nghề Nơi đang làm việc Nhóm nghề Tổng Nghề cần trình độ Công nhân-thợ kỹ thuật Kinh doanh- buôn bán Làm nông Lao động phổ thông Nghề khác Cơ quan, doanh nghiệp nhà nước Tần số 12 27 1 2 42 % 25,5 9,4 1,0 5,7 8,0 Doanh nghiệp, hộ sản xuất tư nhân Tần số 26 160 28 17 19 250 % 55,3 55,9 28,9 28,8 54,3 47,4 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tần số 7 49 7 1 64 % 14,9 17,1 7,2 2,9 12,1 Làm cho gia đình hoặc nơi khác Tần số 2 50 61 3 42 13 171 % 4,3 17,5 62,9 100,0 71,2 37,1 32,4 Tổng Tần số 47 286 97 3 59 35 527 % 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Đề tài”Sự hội nhập của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh”. Những người di cư tuổi càng trẻ thì càng có nhiều cơ hội làm việc trong các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tại các công ty này phần lớn tuyển dụng công nhân trong độ tuổi 18-25 tuổi. Người di cư dưới 26 tuổi tìm được làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân chiếm 59,9%, nhóm tuổi 26-35 tuổi chiếm tỷ lệ 46,5%, nhóm tuổi 36-45 tuổi có tỷ lệ thấp hơn, chiếm 34%; các độ tuổi khác từ 46 tuổi trở lên cũng trên 30% được thu hút vào doanh nghiệp, hộ sản xuất tư nhân. Đối với doanh nghiệp nước ngoài, những người càng trẻ, tỷ lệ có việc làm càng lớn: nhóm tuổi dưới 26 tuổi chiếm 18,6%, nhóm tuổi 26-35 tuổi chiếm 12% và giảm xuống còn 9,6% ở độ tuổi 36-45 tuổi; từ 46 tuổi trở lên không có cơ hội làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế này thường chỉ tuyển những người trẻ tuổi, dễ thích ứng với điều kiện và cường độ làm việc cao. Tỷ lệ người di cư làm việc cho gia đình tăng theo độ tuổi, 12% ở độ tuổi dưới 26 tuổi, tỷ lệ này tăng lên 34,5% đối với nhóm tuổi 26-35 tuổi, các nhóm tuổi khác từ 46 tuổi trở lên đều có trên 50% người đi làm việc cho gia đình, hoặc làm việc tự do. Các nhóm tuổi đều chỉ có một tỷ lệ trên dưới 10% người di cư tham gia vào khu vực kinh tế Nhà nước, do điều kiện tuyển dụng trong khu vực này khá khắt khe và theo chỉ tiêu được phân bổ. 3. Mức độ ổn định của việc làm của người di cư Chỉ có 28,2% người di cư làm việc có hợp đồng lao động. 71,8% người di cư không có hợp đồng lao động. Tình trạng có hợp đồng lao động cao nhất ở các doanh Tham gia hoạt động kinh tế của người di cư.. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 84 nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (84,4%), Cơ quan doanh nghiệp Nhà nước (71,4%). Trong các doanh nghiệp, hộ sản xuất tư nhân, chỉ có 26,3% người lao động làm việc có hợp đồng. Điều này cũng phản ánh tính biến động cao của lực lượng lao động. Người lao động dễ dàng bỏ việc chỗ này tìm việc làm chỗ khác. Giới chủ cũng dễ dàng né tránh thực hiện các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ khác. Bảng 5. Tình trạng hợp đồng lao động phân theo nơi làm việc Tình trạng hợp đồng lao động Nơi làm việc Tổng Cơ quan, doanh nghiệp Nhà Nước Doanh nghiệp, hộ sản xuất tư nhân Doanh nghiệp có vốn nước ngoài Làm cho gia đình hoặc nơi khác Không Tần số 12 185 10 175 382 % 28,6 73,7 15,6 100,0 71,8 Có Tần số 30 66 54 150 % 71,4 26,3 84,4 28,2 Tổng Tần số 42 251 64 175 532 % 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Số liệu của đề tài”Sự hội nhập của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh”. Trích đoạn phỏng vấn sau đây cho thấy tình hình quan hệ lao động trong doanh nghiệp: Không. Tư nhân không cần đến cái đó,vì kí hợp đồng như vậy thì lương thấp, mình phụ thuộc vào người ta mệt lắm. Nó bất tiện ở chỗ này là mình làm quá sức so với tiền lương mình muốn nghỉ cũng khó vì mình là người nhập cư làm mướn mà, còn người mướn mình họ cũng không phải là người mướn mình lâu dài, nếu không vừa ý họ đuổi hẳn, họ thuê người khác vô. Cho nên họ cũng không muốn ký hợp đồng với mình mà mình cũng không muốn ký hợp đồng với họ nữa. Nhà nước khác. Mình đây là mình đi làm mướn cho người ta. Vì họ biết rằng mình đi kiếm việc làm rất khó, họ lợi dụng chỗ đó mà ăn hiếp mình, bao giờ người đi làm cũng muốn là công việc thuận lợi cho họ. Nếu như công nhân làm trong Nhà nước ở các xí nghiệp thì có ký hợp đồng, còn thử việc, còn mình làm tư nhân thì làm sao mà có. (Nữ công nhân, quê ở Nam Định,12 năm ở TP.HCM) Các chủ doanh nghiệp đánh giá cao về người lao động di cư đến thành phố Hồ Chí Minh. Lao động di cư chịu khó hơn, chấp nhận lao động nặng nhọc hơn so với người lao động tại chỗ. Các chủ doanh nghiệp trân trọng lao động di cư với những tố chất như chịu thương, chịu khó, thật thà, nghiêm túc. Ngô Thị Kim Dung 85 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Phần lớn những người di cư có việc làm ổn định; 66% có việc làm ổn định, và 34% có việc làm không ổn định. Những người di cư không có trình độ chuyên môn, lao động phổ thông, làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức thì mức độ ổn định của công việc thấp hơn. Việc làm không ổn định vì buôn bán trái cây nên thu nhập thất thường có lúc lời nhưng cũng có lúc lỗ, có ngày được 15-20.000 đồng nhưng cũng có ngày chẳng bán được kg dưa nào. Trước đây việc buôn bán cũng dễ dàng nhưng hiện nay hàng ế ẩm vì người bán ngày càng nhiều. Nhiều lúc muốn nghỉ nhưng nghỉ rồi cuộc sống càng khổ hơn. (Nữ di cư, 26 tuổi, buôn bán trái cây, quận Bình Tân) Những người có trình độ chuyên môn thì công việc làm càng ổn định: 85,1%; công nhân-thợ kỹ thuật có tình trạng việc làm ổn định là 70,6%; mức độ ổn định của việc làm giảm dần đối với các nhóm ngành nghề khác, thấp nhất là lao động phổ thông: 35%. Bảng 6. Tình trạng việc làm phân theo nghề nghiệp Tình trạng việc làm Nghề nghiệp Tổng Nghề cần trình độ Công nhân-thợ kỹ thuật Kinh doanh- buôn bán Làm nông Lao động phổ thông Nghề khác Ổn định Tần số 40 202 67 2 21 18 350 % 85,1 70,6 69,1 66,7 35,0 42,9 65,4 Không ổn định Tần số 7 84 30 1 38 17 177 % 14,9 29,4 30,9 33,3 63,3 40,5 33,1 Đang không có việc Tần số 1 7 8 % 1,7 16,7 1,5 Tổng Tần số 47 286 97 3 60 42 535 % 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Đề tài”Sự hội nhập của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, khi hỏi về mong muốn tìm công việc khác, nhóm người di cư có trình độ chuyên môn cao và tình trạng việc làm ổn định vẫn muốn tìm việc làm khác chiếm tỷ lệ khá cao (40,4%) như các nhóm nghề khác. Có thể nhóm di cư có trình độ chuyên môn vẫn có khả năng tiếp cận việc làm và cơ hội tìm việc khác tốt hơn so với các nhóm nghề còn lại. Tỷ lệ nữ không có việc làm cao hơn nam giới; 16,9% so với 7,8%. Tỷ lệ nam di cư và nữ di cư có việc làm ổn định gần như tương đương nhau (58% và 57,4%). Nam giới có việc làm không ổn định cao hơn nữ giới: 34,3% so với 25,8%. Cả hai giới tương đối gắn bó với việc làm hiện tại, tuy nhiên mức độ gắn bó với Tham gia hoạt động kinh tế của người di cư.. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 86 công việc của nữ cao hơn. Khoảng hơn 1/3 người di cư mong muốn tìm việc làm khác, trong đó nam di cư muốn tìm việc khác có tỷ lệ cao hơn nữ : 36,8% so với 33,9%. 4. Thu nhập của lao động di cư Đa số người di cư có mức lương dưới 2 triệu đồng (80,9%), trong đó mức lương từ 1 triệu đồng đến dưới 2 triệu: 46,1%; 16% có mức lương từ 2 triệu đồng đến dưới 4 triệu; và 3,2% có mức lương trên 4 triệu đồng. Trong số những người có việc làm ổn định, mức thu nhập từ 1 triệu đến dưới 2 triệu/tháng chiếm tỷ lệ cao nhất: 47,9%; 26,5% có mức thu nhập dưới 1 triệu đồng/tháng; 21,4% có mức thu nhập từ 2 triệu đến dưới 4 triệu đồng/tháng, tỷ lệ này cao gấp 4 lần so với những người có việc làm không ổn định. Lao động di cư việc làm ổn định có mức lương cao hơn so với những người không có việc làm ổn định. Thu nhập bình quân/tháng của người di cư có việc làm ổn định cao hơn so với người di cư không có việc làm ổn định: 1.506.000 đồng so với 1.007.000 đồng. Đối với những người có tình trạng việc làm không ổn định, ½ có mức thu nhập dưới 1 triệu đồng/tháng; 42,5% có mức thu nhập từ 2 triệu đến dưới 4 triệu đồng/tháng. Bảng 7. Thu nhập phân theo tình trạng việc làm Thu nhập Tình trạng việc làm chính hiện nay Tổng Ổn định Không ổn định Dưới 1 triệu đồng 26,5 50,8 34,8 Từ 1 triệu – dưới 2 triệu đồng 47,9 42,5 46,1 Từ 2 triệu – dưới 4 triệu đồng 21,4 5,5 16,0 Từ 4 triệu đồng trở lên 4,3 1,1 3,2 Tổng 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Đề tài”Sự hội nhập của người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh”. Thu nhập hàng tháng của người di cư tỷ lệ thuận với trình độ học vấn: học vấn càng cao thì mức lương càng cao. Những di cư có trình độ học vấn tiểu học, THCS và THPT mức lương dưới 1 triệu đồng/tháng chiếm 47,6% , 36% và 34,9%; trong khi đó những người có trình độ trung cấp đến đang học đại học mức lương dưới 1 triệu đồng/tháng có tỷ lệ là 13,2%; và 3,4% đối với những người tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học. Mức lương từ 1 triệu đến dưới 2 triệu đồng/tháng có tỷ lệ cao và tăng dần theo trình độ học vấn. Đối với những người đã tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học, 31% có mức lương từ 1 triệu đến dưới 2 triệu đồng/tháng. Với mức lương từ 2 triệu đồng/tháng trở lên đến dưới 4 triệu/tháng, chiếm tỷ lệ cao nhất là những người di cư có trình độ đại học trở lên: 51,7%, sau đó giảm dần ở các nhóm trình độ học vấn khác. 13,8% những người có trình độ đại học trở lên có mức lương 4 triệu đồng/tháng trở lên, với mức lương này chỉ có 1% đối với những người có trình độ học vấn tiểu học và trên 3% đối với những người có trình độ học vấn THCS, THPT. Ngô Thị Kim Dung 87 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Nữ có thu nhập thấp hơn nam giới: có đến 44,6% nữ di cư có thu nhập dưới 1 triệu đồng/tháng, với mức thu nhập này, tỷ lệ của nam di cư là 24,5%. Ở các mức lương khác từ 1 triệu đồng trở lên, tỷ lệ nam giới đều cao hơn nữ. 5. Một vài nhận xét Người lao động di cư rất năng động, nhanh chóng tìm được việc làm ngay từ một hai tháng đầu tiên đến thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến thành phố, một bộ phận người di cư đã hội nhập được vào hoạt động kinh tế ở đây. Người di cư được thị trường lao động thành phố hấp thu nhanh chóng và bản thân người di cư cũng sẵn sàng chấp nhận làm mọi công việc hợp pháp để tạo thu nhập. Trong thời gian tương đối ngắn, người di cư đã tìm được việc làm và nhất là đối với khu vực kinh tế phi chính thức, kinh tế tư nhân, gia đình. Những người di cư có trình độ học vấn cao, có trình độ chuyên môn kiếm được việc làm ổn định hơn và thu nhập cao hơn và làm việc nhiều hơn trong khu vực kinh tế Nhà nước. Những người di cư trẻ tuổi, nữ giới có cơ hội làm việc trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn so với những nhóm tuổi khác và so với nam giới. Để tạo điều kiện tốt hơn cho lao động di cư đến Tp. HCM, nên xóa bỏ điều kiện phải có hộ khẩu thường trú trong xét tuyển và ký hợp đồng lao động, không phân biệt thành phần kinh tế, ngành nghề, cơ cấu lao động. Chính quyền cần giám sát chặt việc ký hợp đồng lao động và thực hiện đúng qui định sử dụng lao động theo Luật Lao động để đảm bảo các quyền lợi của người lao động nói chung và người lao động di cư. Thông tin chính thức về việc làm, nhu cầu việc làm tại Tp.HCM cần được cung cấp đầy đủ, thường xuyên cho các địa phương, nhất là các vùng phụ cận thành phố để người lao động di cư đưa ra quyết định di chuyển hay là không. Tài liệu trích dẫn Hạnh Nhung. 2009. Dân số thành phố Hồ Chí Minh bùng nổ do tăng cơ học, trên trang (truy cập ngày 24/10/2009).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso4_2011_ngothikimdung_8048.pdf