Nghèo ở đô thị Việt Nam trước những thách thức của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế

Tài liệu Nghèo ở đô thị Việt Nam trước những thách thức của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế: Xó hội học, số 1(113), 2011 Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn 66 Nghèo ở đô thị Việt Nam tr−ớc những thách thức của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế Phùng Thị Tố Hạnh∗ Trong những năm tr−ớc Đổi mới, Việt Nam là một quốc gia nghèo. Một bộ phận lớn ng−ời nghèo tập trung ở khu vực nông thôn, ng−ời nghèo đô thị chỉ chiếm khoảng 1/4 trong tổng số. Thực tiễn và lý luận đã chứng minh rằng, có mối liên quan mật thiết giữa nghèo khổ ở nông thôn và đô thị. Ng−ời nông dân thiếu đất, mất đất ở nông thôn, sẵn sàng gia nhập vào đội quân di c− vào thành thị để tìm việc làm, trở thành nguồn bổ sung tiềm năng cho đội ngũ ng−ời nghèo đô thị. Nghèo khổ đô thị là một vấn đề xã hội phức tạp, có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau trong một môi tr−ờng kinh tế xã hội không ngừng vận động và phát triển trong các thành phố (Nguyễn Xuân Mai và cộng sự, 2002). Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, tác động tiêu cực đến mọi tầng lớp dân c−, giảm nghèo ở ...

pdf11 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 753 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghèo ở đô thị Việt Nam trước những thách thức của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xó hội học, số 1(113), 2011 Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn 66 Nghèo ở đô thị Việt Nam tr−ớc những thách thức của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế Phùng Thị Tố Hạnh∗ Trong những năm tr−ớc Đổi mới, Việt Nam là một quốc gia nghèo. Một bộ phận lớn ng−ời nghèo tập trung ở khu vực nông thôn, ng−ời nghèo đô thị chỉ chiếm khoảng 1/4 trong tổng số. Thực tiễn và lý luận đã chứng minh rằng, có mối liên quan mật thiết giữa nghèo khổ ở nông thôn và đô thị. Ng−ời nông dân thiếu đất, mất đất ở nông thôn, sẵn sàng gia nhập vào đội quân di c− vào thành thị để tìm việc làm, trở thành nguồn bổ sung tiềm năng cho đội ngũ ng−ời nghèo đô thị. Nghèo khổ đô thị là một vấn đề xã hội phức tạp, có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau trong một môi tr−ờng kinh tế xã hội không ngừng vận động và phát triển trong các thành phố (Nguyễn Xuân Mai và cộng sự, 2002). Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, tác động tiêu cực đến mọi tầng lớp dân c−, giảm nghèo ở đô thị càng trở nên phức tạp. Tìm hiểu ng−ời nghèo đô thị là ai, họ đã và đang đ−ơng đầu với những khó khăn của suy thoái kinh tế nh− thế nào để giúp mình và gia đình tồn tại, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này. Trong khuôn khổ giới hạn về các số liệu và thông tin, bài viết sẽ tập trung vào một số đặc điểm cơ bản của ng−ời nghèo đô thị và những tác động của suy thoái kinh tế đến tình trạng việc làm, thu nhập, những khó khăn họ đang gặp phải trong bối cảnh hiện nay. 1. Một số đặc tr−ng cơ bản của ng−ời nghèo đô thị ở Việt Nam 1.1. Vài nét về ng−ời nghèo đô thị Tr−ớc Đổi mới, một bộ phận lớn dân c− đô thị đều làm việc trong các cơ quan Nhà n−ớc, ăn l−ơng tháng, h−ởng mọi chế độ do Nhà n−ớc bao cấp. Sự phát triển đô thị theo mô hình xã hội chủ nghĩa vào những năm 70 - 80 là thành phố không có các khu ổ chuột, không có dân nhập c− tự do từ nông thôn, không có xây dựng tự phát, phân hóa giàu nghèo ch−a mạnh (Trịnh Duy Luân, 2003). Với sự ra đời của các chính sách Đổi mới, kinh tế thị tr−ờng ở Việt Nam phát triển dẫn đến tăng tr−ởng kinh tế đồng thời đẩy nhanh quá trình phân hóa giàu nghèo tại các thành phố. Các nhóm dân c− nghèo sống trong các khu nhà ở tồi tàn, cơ sở hạ tầng thấp kém trở nên rõ nét hơn. Nghèo khổ ở đô thị và nông thôn có quan hệ mật thiết với nhau thông qua con đ−ờng nhập c−. Ng−ời nhập c− có thể giảm nghèo cho hộ gia đình bằng cách mang về tiền tiết kiệm trong thời gian đi làm và đầu t− vào sản xuất, cải thiện điều kiện nhà ở. Nhiều nghiên cứu cho thấy, di c− là một chiến l−ợc sống cho hầu hết các hộ gia đình nông thôn, trong đó có các hộ nghèo (Nguyễn Hữu Minh và cộng sự, 2006). Nghèo khổ ở nông thôn cũng chính là một nguồn tiềm năng cho nghèo đô thị. Hay nói cách khác, nghèo đô thị cũng có một nguồn gốc từ nông thôn. ∗ Th.S. Viện Xã hội học. Phùng Thị Tố Hạnh 67 Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn Ng−ời nghèo tại đô thị, chiếm tỉ lệ thấp trong nhóm ng−ời nghèo nói chung ở Việt Nam. Các số liệu thống kê chính thức cho thấy, khoảng d−ới 10% ng−ời nghèo tại Việt Nam sinh sống ở các vùng đô thị, nh−ng d−ờng nh− con số này còn thấp hơn về mức độ và tỉ lệ ng−ời nghèo đô thị trên thực tế. Những ng−ời nhập c− không có đăng ký hộ khẩu th−ờng là những ng−ời nghèo nhất tại các thành phố, hạn chế về khả năng tiếp cận các dịch vụ và các ch−ơng trình của chính phủ và th−ờng không đ−ợc thống kê một cách đầy đủ trong các cuộc điều tra. Một số liệu tính toán cho thấy, nếu tính thêm cả những ng−ời di c− không có đăng ký thì tỉ lệ ng−ời nghèo đô thị sẽ tăng lên đến 15% (Tài liệu Thẩm định Dự án Nâng cấp Đô thị Việt Nam, 2004). Ngoài ra, một bộ phận dân c− có thu nhập thấp, ở rất gần với ng−ỡng nghèo, chỉ cần một rủi ro hay một suy giảm nhẹ về điều kiện kinh tế cũng đủ đẩy họ xuống d−ới ng−ỡng nghèo, trở thành ng−ời nghèo đô thị. Phân bố nơi ở của ng−ời nghèo đô thị, ng−ời thu nhập thấp tùy thuộc trong từng vùng đô thị, từng thành phố. Một số nghiên cứu cho thấy, không phải tại các vùng đô thị ng−ời nghèo đều c− trú riêng biệt cho dù trong những năm gần đây sự phân hóa về khu ở đã trở nên rõ ràng hơn (Trịnh Duy Luân, 2003). Chẳng hạn, tại Hà Nội khu nghèo đan xen trong các khu ở, không tồn tại biệt lập. Trong khi tại một số thành phố khác có các khu ở nghèo/thu nhập thấp, nh− Hải Phòng, TP HCM, Cần Thơ, Nam Định. Tuy nhiên, ng−ời nghèo, có thu nhập không ổn định, th−ờng sống trong những khu vực có nhà cửa tạm bợ, cơ sở hạ tầng yếu kém, môi tr−ờng ô nhiễm: bụi, bẩn, ngập lụt,... 1.2. Đặc điểm của ng−ời nghèo đô thị Phần này chủ yếu dựa vào những nghiên cứu nghèo đô thị đ−ợc thực hiện trong thời gian gần 15 năm (1990 - 2004) do các tổ chức quốc tế và các Viện nghiên cứu của Việt Nam tiến hành. Về một mặt nào đó, ng−ời nghèo đô thị th−ờng bao gồm: 1) Ng−ời sinh sống ở đô thị (từ tr−ớc đến nay), là những ng−ời nghèo gốc ở thành thị, nói cách khác, họ sinh ra và lớn lên ở thành thị từ nhiều đời; hoạt động nghề nghiệp của họ là các hoạt động phi nông nghiệp. Có thể nói rằng họ có cách/kiểu sống đô thị (life style) trong một chừng mực nào đó; 2) Ng−ời nghèo sống ở vùng nông thôn ven đô, khi thành phố mở rộng, họ trở thành ng−ời dân đô thị. Hoạt động nghề nghiệp của họ là sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Trong một chừng mực nào đó, có thể nói rằng họ có cách/kiểu sống nông thôn hay pha trộn và; 3) Ng−ời nghèo nhập c−: phần lớn là nông dân di c− tự do từ vùng nông thôn đến đô thị (không kể những ng−ời nhập c− theo kế hoạc của Nhà n−ớc, nh− chuyển công tác trong thời bao cấp,...). Hoạt động nghề nghiệp của họ là phi nông nghiệp, phần lớn làm nghề tự do, lao động phổ thông, có thể nói rằng họ có cách/kiểu sống nông thôn trong một chừng mực nào đó. Ng−ời nghèo sống trong các vùng ven đô và ng−ời nghèo nhập c− cũng chính là các nhóm nghèo mới xuất hiện trong quá trình mở cửa, phát triển kinh tế thị tr−ờng và hội nhập quốc tế. Nghèo ở đô thị Việt Nam tr−ớc những... Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn 68 Các nghiên cứu về nghèo khổ ở Việt Nam cho thấy, ng−ời nghèo đô thị có một số các đặc điểm đ−ợc trình bày trong phần sau đây. a) Nghề nghiệp, học vấn, kỹ năng, tình trạng việc làm Về nghề nghiệp: Các nghiên cứu cho thấy ng−ời nghèo đô thị th−ờng làm các nghề nh− buôn bán dịch vụ nhỏ tại nhà, lao động tự do, làm công ăn l−ơng trong các cơ sở sản xuất, hay làm công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp của Nhà n−ớc hoặc t− nhân (Nguyễn Xuân Mai và cộng sự, 2002). Về kỹ năng: Các công việc của họ phần nhiều là lao động phổ thông, không đòi hỏi tay nghề. Một nghiên cứu về ng−ời nghèo tại Hải Phòng đã cho thấy, vào thời điểm khảo sát, có khoảng 1/2 số ng−ời lao động nghèo đang làm các công việc không có tay nghề (Nguyễn Xuân Mai và cộng sự, 2002). Về tình trạng việc làm: Đa số ng−ời nghèo đô thị là lao động tự do, không ổn định, thất th−ờng và có thu nhập thấp (Nguyễn Xuân Mai và cộng sự, 2002). Theo số liệu thống kê, lao động đô thị luôn đối mặt với tình trạng thiếu việc, cho dù họ đang có việc làm, nh−ng muốn làm thêm và có khả năng làm thêm (Viện Quản lý Kinh tế Trung −ơng, 2006). Điều này d−ờng nh− khẳng định chắc chắn hơn kết quả của các nghiên cứu ở Việt Nam đó là ng−ời nghèo đô thị có một tỉ lệ khá cao không có việc hoặc việc làm không đầy đủ (Nguyễn Xuân Mai và cộng sự, 2002). Về tình trạng thất nghiệp: Tình trạng không có việc làm của ng−ời nghèo đô thị th−ờng phổ biến hơn so với các nhóm thu nhập khác. Trong một cuộc khảo sát tại 10 ph−ờng nghèo nhất ở Hải Phòng, nhóm thu nhập thấp nhất có tỉ lệ thất nghiệp cao gấp 2,5 lần so với các nhóm khá giả khác (15,8% so với 5,5%). Tại TP. Hồ Chí Minh, tỉ lệ ng−ời nghèo không có việc làm cũng ở tình trạng tuơng tự (20,2% trong tổng số 915 ng−ời trong độ tuổi lao động đ−ợc phỏng vấn). Trong số ng−ời thất nghiệp, có một bộ phận là công nhân viên chức Nhà n−ớc nghỉ việc do giảm biên chế (Nguyễn Xuân Mai và cộng sự, 2002). Nh− phần trên đã đề cập tới, nhóm nghèo mới bao gồm ng−ời nghèo từ các vùng ven đô hay ng−ời nghèo nhập c− luôn là nguồn tiềm năng cho nhóm nghèo đô thị. Đây cũng là một lý do khiến tỉ lệ thất nghiệp trong ng−ời nghèo đô thị tăng cao hơn tỉ lệ chung. Về học vấn: tỉ lệ dân số biết chữ trên toàn quốc là khá cao do chính sách −u tiên phát triển giáo dục của Nhà n−ớc đã đạt đ−ợc những thành tích đáng kể (khoảng 91% dân số từ 10 tuổi trở lên theo Tổng Điều tra Dân số & Nhà ở, 1999). Nhờ vậy, ng−ời nghèo cũng nh− ng−ời khá giả, đều có đ−ợc cơ hội nâng cao học vấn của mình. Tuy nhiên, học vấn ng−ời lao động nghèo đô thị, th−ờng thấp hơn so với các nhóm thu nhập khác. Nghiên cứu về ng−ời nghèo tại Hải Phòng cho thấy, nếu chia theo 5 nhóm thu nhập, nhóm thu nhập thấp nhất (nhóm nghèo) có tỉ lệ mù chữ cao gấp 8 lần, tỉ lệ ng−ời có học vấn cấp 1 cao gấp 2,5 lần, và tỉ lệ ng−ời có học vấn cấp 2 cao gần gấp 2 lần so với nhóm thu nhập cao nhất. Trong khi, tỉ lệ ng−ời có học vấn từ cấp 3 trở lên của nhóm nghèo lại chỉ gần bằng 1/2 tỉ lệ này của nhóm cao nhất (Trịnh Duy Luân, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Mai, 1999). Phùng Thị Tố Hạnh 69 Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn b) Thu nhập, chi tiêu và nợ nần Về thu nhập, nhiều nghiên cứu cho thấy, do tính chất của công việc, thu nhập của ng−ời nghèo đô thị th−ờng thấp, không ổn định (trừ một số ít ng−ời có l−ơng h−u hay làm công có hợp đồng dài hạn...). Về chi tiêu, một nghiên cứu 1000 hộ gia đình ở 10 ph−ờng nghèo nhất tại thành phố Hải Phòng cho thấy, khoản chi cho l−ơng thực, thực phẩm chiếm khoảng 73% trong chi tiêu hàng tháng, chi cho học hành của con cái chiếm khoảng 15%, còn lại chi cho các khoản khám chữa bệnh và các nhu cầu khác nh− quần áo, điện, n−ớc,... Có khoảng 90% các gia đình có thu nhập thấp không thể cân bằng thu - chi và họ buộc phải vay nợ, có nguy cơ lâm vào đói nghèo (Tim Cambell, 1999). Các khoản nợ này cũng chính là cái vòng luẩn quẩn mà hộ gia đình nghèo rơi vào (Ngân hàng Thế giới, 1999). c) Đông con, thiếu sức lao động Các hộ nghèo th−ờng đông con, có ng−ời già yếu, bệnh tật, ốm đau, là các hộ neo đơn (Phùng Thị Tố Hạnh và cộng sự, 2003). Hộ nghèo th−ờng có nhiều ng−ời ăn theo và có ít lao động tạo ra thu nhập. Hay nói cách khác, số ng−ời làm ra thu nhập phải cáng đáng nhiều ng−ời ăn theo hơn so với các hộ gia đình khác. Hộ nghèo đô thị cũng th−ờng là các hộ gia đình khuyết (chồng hay vợ), trong đó khuyết chồng nhiều hơn vợ (khuyết chồng 24,5% so với khuyết vợ 6,4%,) (Trịnh Duy Luân, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Mai, 1999). Nói cách khác, có nhiều hộ nghèo đô thị trong đó phụ nữ làm chủ hộ. Một số hộ mới thành lập (hộ mới tách), hộ bị mất một thành viên là lao động chính/tr−ởng thành,... cũng đều thiếu nguồn lao động cho thu nhập, thiếu các nguồn lực nh− đất đai (nh− các hộ nông nghiệp), vốn,... cũng thuộc diện nghèo khổ. d) Dễ bị tổn th−ơng Các hộ nghèo dễ bị tổn th−ơng do những khó khăn mang tính thời vụ, những biến động bất th−ờng xảy ra với gia đình hay cộng đồng. Bất cứ một nguy cơ nào nh− nhà có ng−ời ốm, không có việc, thiếu việc làm,... đều làm cho cuộc sống của ng−ời nghèo bị đe dọa. Các khoản chi bắt buộc cho thuốc men, khám chữa bệnh, hay đóng tiền học cho con cái đều phải vay m−ợn và khó có khả năng trang trải trong một thời gian ngắn. Đặc biệt khi gia đình có ng−ời đau ốm đ−ợc xem nh− một biến cố nghiêm trọng làm đảo lộn sinh hoạt của gia đình, và phải mất hàng năm sau các gia đình nghèo mới có thể hồi phục đ−ợc (Ngân hàng Thế giới, 1999). Hơn thế, các vấn đề nh− nâng cấp/giải tỏa, tái định c−,... xảy ra tại cộng đồng, những hộ nghèo th−ờng biết đến sau cùng do còn bận đi làm kiếm ăn. Các tệ nạn xã hội nh− ma túy, bạo lực,... xảy ra tại nơi ở cũng dễ đe dọa đến sự an toàn cho trẻ em con cái họ (Ngân hàng Thế giới, 1999). Một số ng−ời nghèo mới, chẳng hạn, ng−ời nhập c− không có hộ khẩu nên không đ−ợc tham gia vào các cuộc họp tại cộng đồng, không đ−ợc mời dự họp (Nguyễn Hữu Minh và cộng sự, 2006). Cũng vì lý do ấy, họ cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ công cộng nh− khám chữa bệnh tại thành phố. Nghèo ở đô thị Việt Nam tr−ớc những... Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn 70 2. Tác động của suy giảm kinh tế đến nghèo đô thị Từ cuối năm 2008, các nền kinh tế lớn ở Bắc Mỹ và châu Âu đang lâm vào cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ những năm 30 của thế kỷ tr−ớc. Nhiều tập đoàn lớn, công ty xuyên quốc gia làm ăn thua lỗ, phá sản hay có nguy cơ bên bờ vực phá sản. Để cứu vãn tình thế, các công ty, doanh nghiệp,... buộc phải giảm quy mô sản xuất, hạn chế hoạt động sản xuất và giảm nhu cầu lao động. Suy thoái kinh tế thế giới đã ảnh h−ởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực với các cấp độ khác nhau. Nền kinh tế Việt Nam, trong đó xuất khẩu đóng vai trò quan trọng bị ảnh h−ởng mạnh. Thị tr−ờng xuất khẩu cho các mặt hàng may mặc, điện tử, chế biến thủy hải sản,... bị thu hẹp, nhu cầu tại các n−ớc nhập khẩu hàng hóa Việt Nam giảm và đều bị ảnh h−ởng trầm trọng (Ngoc Q Pham, 2009). Các ngành sản xuất nh− may mặc, dệt, giày da,... tận dụng lợi thế nguồn lao động phổ thông trong n−ớc, đã bộc lộ những hạn chế của nó, khi lực l−ợng lao động trẻ đã trở nên d− thừa, không có việc và khó chuyển đổi sang những ngành khác do trình độ thấp, yếu kém về kỹ năng và tay nghề. Nh− một kết quả, cuộc sống của ng−ời dân bị đe dọa. Đối với ng−ời thu nhập thấp, họ buộc phải đối đầu với nhiều khó khăn về việc làm, thu nhập,... để nuôi sống mình và gia đình. Lạm phát, giá cả các mặt hàng thiết yếu nh− l−ơng thực, thực phẩm, xăng, dầu, gas,... tăng, ảnh h−ởng đến đời sống của ng−ời dân. Những gia đình hay cá nhân, có thu nhập mấp mé với ng−ỡng nghèo dễ bị tái nghèo hay rơi vào tình trạng nghèo, trong khi ng−ời nghèo lại càng nghèo khổ hơn. Nhóm c− dân nghèo đô thị sẽ có nguy cơ trở nên lớn hơn về số l−ợng và trầm trọng hơn về mức độ tổn th−ơng. 2.1. Tác động đến tình trạng việc làm và thu nhập a) Mất việc, thiếu việc Do kinh tế suy thoái, nguồn vốn đầu t− bị hạn chế, thị tr−ờng bị thu hẹp, nhà sản xuất buộc phải cắt giảm chi phí, nhân công, giảm l−ơng hay các khoản phúc lợi khác. Ng−ời lao động có nguy cơ hoặc là bị mất việc, hoặc bỏ việc vì l−ơng thấp không đủ để chi trả cho các nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình. Số liệu mới đây của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến cuối năm 2008, cả n−ớc hiện có 1.030.000 ng−ời thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị −ớc tính là 4,65% (năm 2007 là 4,64%). So với tổng số ng−ời lao động ở thành thị là 11.372.000 ng−ời thì con số thất nghiệp là 528.798 ng−ời (Nguyễn Xuân Mai, 2009). Tạo nghề cho ng−ời lao động nằm trong chính sách giảm nghèo khổ, tuy nhiên, trong thời kỳ suy thoái, các Trung tâm hỗ trợ nghề đều giảm đáng kể các chỉ tiêu tuyển dụng cho công việc mới. Chẳng hạn, tại Trung tâm Hỗ trợ việc làm ở Hà Nội, tính đến cuối năm 2008 có khoảng từ 3 đến 4 nghìn cơ hội việc làm trong khi có khoảng từ 6 đến 8 nghìn cơ hội vào thời điểm đầu năm (Ngoc Q Pham, 2009). Xuất khẩu lao động giảm do nhu cầu của thị tr−ờng n−ớc ngoài thu hẹp. Tại các n−ớc nhập khẩu lao động, d−ới tác động của suy thoái kinh tế, tỉ lệ thất nghiệp cũng tăng nhanh. Phùng Thị Tố Hạnh 71 Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn Một số n−ớc đã cấm các doanh nghiệp thuê lao động n−ớc ngoài nhằm −u tiên giữ việc làm cho ng−ời bản xứ (nh− Malaysia), hoặc giảm số l−ợng đối với lao động n−ớc ngoài. Trong cả hai tr−ờng hợp điều này đều làm giảm bớt cơ hội cho lao động Việt Nam ra n−ớc ngoài làm việc. Việc làm mới trở nên ít hơn, cơ hội có việc làm hay có thu nhập cho ng−ời dân giảm sút và càng trở nên hiếm hoi hơn cho ng−ời nghèo đô thị. Theo số liệu thống kê, đã có khoảng 67.000 lao động trong cả n−ớc làm việc trong các doanh nghiệp đã bị mất việc, trong đó tập trung nhiều nhất ở ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh (Ngoc Q Pham, 2009). Tuy nhiên, một bộ phận lao động không ký kết hợp đồng lao động có thể sẽ không đ−ợc tính đến trong các con số này. Ba nhóm lao động bị ảnh h−ởng nhiều nhất là lao động di c−, lao động không có trình độ tay nghề và lao động theo thời vụ (Báo Ng−ời lao động, số ra ngày 7/4/2009). Đây cũng là những ng−ời làm công có nguy cơ mất việc cao vì th−ờng không có hợp đồng lao động và đ−ơng nhiên họ cũng th−ờng là ng−ời nghèo có mặt trong các đô thị hiện nay. b) Giảm giờ làm và giảm l−ơng Tình trạng việc làm của ng−ời lao động nghèo trở nên bấp bênh hơn, không có tiền l−ơng hay tiền công dẫn đến thu nhập trở nên bất ổn theo h−ớng giảm đi. Tình trạng bất ổn trong việc làm còn biểu hiện d−ới các hình thức khác nhau nh− giảm giờ làm việc trong ngày và giảm l−ơng hay tiền công. Báo cáo Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, tháng 6 năm 2009 của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cũng nhận định, "Cắt giảm việc làm là tình trạng phổ biến tại các khu công nghiệp giai đoạn cuối 2008 đầu năm 2009, song ít khi diễn ra d−ới hình thức cho nghỉ việc công khai. Phổ biến là không ký lại hợp đồng và khuyến khích tự nghỉ việc. Lao động thời vụ và lao động ngắn hạn bị mất việc nhiều hơn" (Ngân hàng Thế giới, 2009). Thực tế cho thấy, cho công nhân nghỉ việc không phải là giải pháp chủ lao động th−ờng lựa chọn vì nó có thể làm tổn th−ơng quan hệ với công nhân, gây mất ổn định đối với các doanh nghiệp. Để tránh tình trạng này, một số chủ lao động đã chọn giải pháp giảm giờ làm việc hoặc giảm l−ơng tháng của công nhân và chấp nhận đền bù. Báo cáo nói trên của Ngân hàng Thế giới cũng cho thấy, kể cả những doanh nghiệp đ−ợc ghi nhận là đã phục hồi sản xuất, công nhân cũng th−ờng chỉ đ−ợc tính giờ làm việc bình th−ờng, làm ca và không có giờ làm thêm (Ngân hàng Thế giới, 2009). Có nhà máy, công nhân chỉ làm việc 2 giờ một ngày trong suốt một thời gian, và chỉ nhận đ−ợc một số tiền công hay tiền đền bù ít ỏi từ ng−ời sử dụng (Ngoc Q Pham, 2009). Trong các tr−ờng hợp này, ng−ời lao động th−ờng phải nhận một số tiền thấp hơn l−ơng hay tiền công mà họ đã từng đ−ợc nhận. Nh− vậy, ng−ời lao động đang phải đối mặt với khả năng hoặc là mất việc, hoặc là có việc, nh−ng giảm thời gian làm. Hai ph−ơng án trên, đều dẫn đến một kết quả, đó là nguồn thu nhập của họ bị ảnh h−ởng và giảm đi. Nghèo ở đô thị Việt Nam tr−ớc những... Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn 72 c) Mức sống giảm Do thu nhập không ổn định và có xu h−ớng giảm thấp hơn, mức sống ng−ời lao động có phần giảm sút. Nh− một kết quả trực tiếp, thu nhập của cá nhân và do đó là của gia đình giảm đi ảnh h−ởng tới cuộc sống của mọi thành viên. Thêm vào đó, giá cả leo thang, đặc biệt là giá l−ơng thực, thực phẩm, giá n−ớc, điện, chất đốt, xăng, giá thuê nhà,... cũng làm ảnh h−ởng đến cuộc sống của mọi ng−ời dân trong xã hội. Các hộ gia đình buộc phải thực hiện ph−ơng châm tiết kiệm, chỉ chi cho các nhu cầu cần thiết và giảm bớt những nhu cầu khác. Mặc dù chính phủ đã có nhiều cố gắng nh− điều chỉnh mức l−ơng tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp đầu năm 2008, tăng trợ cấp cho ng−ời về h−u và các đối t−ợng chính sách,... nh−ng do tình trạng lạm phát hiện nay quá cao, nên đời sống của phần lớn ng−ời dân thành thị đều bị ảnh h−ởng. Các hộ nghèo đô thị phải đối mặt với những khó khăn về tài chính hơn nhiều lần các gia đình khác. Bài toán mà mọi ng−ời làm công nghèo phải tính đến là điều chỉnh theo h−ớng cắt giảm chi tiêu, thắt l−ng buộc bụng, −u tiên chi cho những nhu cầu cấp thiết nh− l−ơng thực, thực phẩm, điện, n−ớc,... và hạn chế những nhu cầu khác (kể cả việc cho con cái thôi học sẽ đ−ợc đề cập trong phần sau). Những khó khăn về kinh tế cũng đã gây ra những hậu quả khôn l−ờng đối với cuộc sống của gia đình những ng−ời nhập c− nghèo. Hệ quả sau cùng mà ng−ời lao động đô thị nhận đ−ợc là sự giảm sút về mức sống. Một bộ phận vốn thu nhập thấp, có mức sống thấp hơn, có nguy cơ cao trở thành ng−ời nghèo, làm tăng thêm số ng−ời nghèo đô thị. 2.2. Tác động đến các nhóm xã hội dễ bị tổn th−ơng a) Trẻ em Khó khăn về kinh tế ảnh h−ởng trực tiếp đến những nhóm nghèo, trong đó có trẻ em. Nh− trên đã đề cập tới, các hộ gia đình nghèo th−ờng đông con. Kinh tế suy giảm đã khiến tình trạng việc làm càng bất ổn, thu nhập thấp hơn và không ổn định. Cắt giảm chi tiêu là một trong những biện pháp mà hầu hết các hộ gia đình, trong đó có hộ nghèo phải thực hiện. Việc đi học của trẻ em cũng đ−ợc cân nhắc: vì những lý do kinh tế, trẻ có thể bị thôi học. Trẻ bỏ học ở nhà có thể tham gia vào việc nhà nh− trông nhà, nấu ăn, trông em cho bố mẹ đi làm, hay giúp cha mẹ bán hàng, hoặc có thể tham gia các hoạt động kinh tế để có thêm thu nhập. Một số gia đình ở vùng nông thôn, gửi con cho các hộ gia đình quen biết hay những ng−ời họ hàng,... có các cơ sở lao động ở thành phố làm công và nhận đ−ợc một món tiền thù lao rẻ mạt. Đây là một giải pháp theo họ là khá hợp lý, vì một mặt gia đình không phải nuôi một miệng ăn, mặt khác, nguồn thu nhập của gia đình đ−ợc tăng thêm từ khoản tiền công hàng năm của trẻ (dù ít). Nh− vậy, nhóm trẻ nghèo nông thôn đã “gia nhập” nhóm trẻ nghèo đô thị trong tình trạng c− trú bất hợp pháp (th−ờng các chủ lao động không khai báo tạm trú cho trẻ); là nguồn lao động bất hợp pháp (vì vi phạm quyền trẻ em, và không có hợp đồng lao động) và; không đ−ợc đi học. Trẻ em làm trong các cơ sở này, bị t−ớc đoạt sự bảo vệ và giám hộ của cha mẹ, th−ờng Phùng Thị Tố Hạnh 73 Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn bị chủ lao động ép phải làm nhiều giờ, dễ bị đánh đập, gánh chịu bạo lực từ chủ lao động hay những trẻ lớn hơn, đe dọa bị đuổi đi không có nơi ở,... Từ một khía cạnh khác, trẻ dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội nh− tiêm chích, buôn bán ma túy và các tội phạm khác có liên quan. Trẻ th−ờng phải chịu đựng tình trạng bạo lực, lo lắng về thiếu an toàn, về nhà ở, mệt mỏi về công việc, luôn cảm thấy bị t−ớc đoạt, thiếu lòng tin. Nói một cách khác, trẻ em nghèo không đ−ợc đi học sẽ dễ v−ớng vào cái vòng luẩn quẩn: nghèo khổ → thất học → thất nghiệp/việc làm thu nhập thấp → nghèo khổ. Kết quả là, số ng−ời nghèo khổ đô thị trong đó có trẻ em sẽ tăng lên. b) Phụ nữ Lao động nữ chiếm khoảng một nửa trong toàn bộ lực l−ợng lao động ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy phụ nữ th−ờng chịu thiệt thòi hơn nam giới trong hoạt động nghề nghiệp, trong khi cả nam và nữ đều có vai trò bình đẳng trong tham gia vào công việc làm công ăn l−ơng. Phụ nữ th−ờng là ng−ời bị mất việc dễ nhất do tham gia ít hơn nam giới trong khu vực làm công ăn l−ơng và vì vậy dễ bị sa thải. Phụ nữ tham gia vào khu vực lao động tự do nhiều hơn nam giới và th−ờng là ng−ời bị mất việc dễ nhất. Tỉ lệ thất nghiệp lao động nữ ở khu vực thành thị cao hơn tỉ lệ thất nghiệp chung. Chẳng hạn, năm 2003 tỉ lệ thất nghiệp nữ là 7,21% trong khi tỉ lệ chung là 5,78% (Viện Quản lý Kinh tế Trung −ơng, 2006). Trong khu vực làm công ăn l−ơng, phụ nữ cũng tham gia nhiều hơn vào những nghề kém uy tín hơn và có vị thế thấp hơn trong thang bậc nghề nghiệp. So với nam giới, phụ nữ th−ờng khó tìm việc hơn do thể lực yếu, thời gian làm việc ngắn hơn do phải nghỉ chế độ thai sản, sinh con, con ốm... Mặc dầu Bộ Luật Lao động đã quy định những −u tiên dành cho lao động nữ, nh−ng giới chủ sử dụng đã không thực hiện các −u đãi xã hội. Quyền lợi của lao động nữ ít đ−ợc quan tâm, bảo đảm. Những biến động kinh tế tác động tiêu cực đến thị tr−ờng lao động, và càng nặng nề hơn đối với lao động nữ, vốn bị yếu thế hơn so với lao động nam. Số lao động nữ trong các ngành dệt may và da giày chiếm tỉ lệ cao, nh− một kết quả, họ có nguy cơ cao và dễ bị mất việc khi các doanh nghiệp này giảm hoạt động sản xuất. Mặc dầu cùng phải để con nhỏ ở quê nhà, nh−ng phụ nữ th−ờng phải chịu những nỗi đau về mặt tinh thần hơn nam giới để đến thành phố làm việc khi con còn quá nhỏ. Phụ nữ cũng là đối t−ợng của các tệ nạn xã hội, nhất là các thiếu nữ trẻ. Họ th−ờng là đối t−ợng bị lừa đảo tr−ớc những lời hứa hẹn xin cho việc làm, sau đó đẩy vào con đ−ờng mại dâm, nghiện hút. Đó là ch−a kể đến nguy cơ bị lừa đảo buôn bán ra các vùng đô thị hay ra n−ớc ngoài làm vợ bất hợp pháp Hơn thế, các hộ nghèo do phụ nữ làm chủ th−ờng chiếm tỉ lệ cao trong các gia đình khuyết vợ hay chồng, phải đối đầu với khó khăn nhiều hơn (Trịnh Duy Luân, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Mai, 1999). c) Ng−ời nhập c− Nh− phần trên đã đề cập, ng−ời nhập c− là một bộ phận đông đảo không thể tách Nghèo ở đô thị Việt Nam tr−ớc những... Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn 74 rời khỏi ng−ời nghèo đô thị Việt Nam. Theo một báo cáo của Viện Quản lý Kinh tế Trung −ơng, số thời gian có việc của ng−ời nông dân trung bình khoảng 180 ngày công/năm, tức là khoảng 80% tổng quỹ thời gian lao động (Viện Quản lý Kinh tế Trung −ơng, 2006). Đây cũng là lý do khiến họ di chuyển tìm việc ở các vùng thành thị trong thời gian không có việc ở nông thôn. Mất việc, thiếu việc do tác động của suy thoái kinh tế: Do gặp khó khăn về việc làm, một bộ phận lớn ng−ời nhập c− tìm mọi cách ở lại đô thị, với hy vọng tìm kiếm việc làm. Họ làm đủ các nghề nh− bán vé số, chạy xe ôm, cắt tóc, bán đồng nát, v.v.. . Họ bổ sung vào đội quân đông đảo những ng−ời bán hàng rong, xe thồ, xe ôm vốn đang bị chính quyền các thành phố lớn xua đuổi, o ép, hạn chế hoạt động với lý do xây dựng văn minh đô thị (Vũ Tuấn Anh, 2009). Với thu nhập ít ỏi, họ có nhiều khả năng trở thành một bộ phận nghèo ở đô thị. Hơn thế, một bộ phận ng−ời nhập c− trẻ do mất việc, thiếu việc có nguy cơ trở thành thất nghiệp. Ng−ời nhập c− đã trở thành một bộ phận không thể tách rời và làm gia tăng nhóm ng−ời nghèo trong các đô thị hiện nay. Di c− ng−ợc: Một số ng−ời nhập c−, sau nhiều cố gắng nh−ng không tìm đ−ợc việc làm ở đô thị đã quay về quê nhằm tiết kiệm chi phí thuê nhà và sinh hoạt vốn rất đắt đỏ. Chẳng hạn, tại một công ty ở Hà Nội, nhiều công nhân thất nghiệp đã quay về nhà họ ở nông thôn, làm giảm bớt nguồn lao động trong thành phố (Ngoc Q Pham, 2009). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là ng−ời nhập c− quay trở về với sản xuất nông nghiệp ở quê nhà, mà thực sự họ chỉ ở tạm một thời gian, tr−ớc khi tìm đ−ợc một công việc khác phù hợp hơn ở các vùng đô thị. Báo cáo của Ngân hàng thế giới cũng cho rằng "...việc lao động trở về quê không nhiều nh− mọi ng−ời th−ờng nghĩ, d−ờng nh− quá trình di c− là không thể đảo ng−ợc. Những ng−ời phải quay trở về quê d−ờng nh− gặp nhiều khó khăn hơn so với nhận định thông th−ờng" (Ngân hàng Thế giới, 2009). Tiền gửi về: Kinh tế suy thoái đã khiến nguồn thu nhập của nhiều công nhân nhập c− giảm đi, do không có tiền làm thêm ngoài giờ, mất việc th−ờng xuyên,... Ng−ời lao động buộc phải cắt giảm chi tiêu, đặc biệt ở các thành phố lớn nh− Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh do chi phí sinh hoạt cao. Liên quan đến điều này là nguồn tiền gửi về quê cho gia đình cũng bị ảnh h−ởng và có phần giảm sút (Ngân hàng Thế giới, 2009). Điều kiện sống: Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, khó khăn hơn nữa là ng−ời nhập c− không có nơi c− trú tại các thành phố nên họ phải thuê nhà để ở. Nh− trên đã đề cập tới, nhà ở cho ng−ời thu nhập thấp trong các thành phố hiện đang ở vào tình trạng trầm trọng cả về số l−ợng lẫn chất l−ợng. Công nhân nhập c− phải trả tiền thuê nhà đắt đỏ do giá nhà tăng. L−ơng không đủ trang trải, họ phải tìm đến nhà giá rẻ thiếu những điều kiện tối thiểu (nh− không có nhà vệ sinh, diện tích hẹp...), trong các khu ở tồi tàn với cơ sở hạ tầng xuống cấp nh− cống, rãnh quá tải, n−ớc thải gây mất vệ sinh, ngập lụt,.. hoặc rủ nhiều ng−ời cùng thuê chung để giảm chi phí. Nhà ở cho ng−ời nhập c−, công nhân, sinh viên,... những ng−ời có thu nhập thấp, vốn đã thiếu càng trở nên trầm trọng hơn. Phùng Thị Tố Hạnh 75 Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn Tiếp cận các dịch vụ xã hội: Ng−ời nhập c− th−ờng phải trả giá điện n−ớc đắt hơn ng−ời dân đô thị. Dù đã có những thay đổi rộng rãi hơn về mặt chính sách với ng−ời nhập c−, nh−ng khi bị ốm đau họ th−ờng sử dụng dịch vu y tế t− nhân mà th−ờng phải trả chi phí cao hơn do không có đủ các giấy tờ cần thiết nh− hộ khẩu, thẻ BHYT,... để tới các cơ sở y tế công. Một số ng−ời nghèo nhập c− có thẻ Bảo hiểm Y tế ở quê, nh−ng thật không đơn giản nếu họ định về quê để khám chữa bệnh khi ốm (Nguyễn Hữu Minh và cộng sự, 2006). Nh− vậy, khó khăn của nền kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến cuộc sống của phần lớn dân c−, trong đó những ng−ời nghèo đô thị hiện đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề hơn. Phụ nữ, trẻ em, ng−ời nhập c−, là những đối t−ợng dễ bị tổn th−ơng, khó hồi phục và ít đ−ợc bảo vệ, dù đã có nhiều hỗ trợ về luật pháp và các chính sách từ nhà n−ớc. 3. Kết luận Tr−ớc nguy cơ suy thoái kinh tế hiện nay, Nhà n−ớc đã có những chính sách hỗ trợ nhằm giảm bớt khó khăn cho ng−ời nghèo trong đó có ng−ời nghèo ở đô thị. Một số chính sách cơ bản đ−ợc ban hành nh− Nghị định số 33/2009/NĐ-CP ngày 06/4/2009 của Chính phủ, từ 01/5/2009 mức l−ơng tối thiểu của ng−ời lao động tăng từ 540 nghìn đồng/tháng lên 650 nghìn đồng/tháng (tăng 20%) (Tổng cục Thống kê, 2009). Ch−ơng trình Bảo hiểm thất nghiệp do Luật Bảo hiểm xã hội cũng đ−ợc đ−a ra và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 2 năm 2009, theo quyết định của Chính phủ (Ngoc Q Pham, 2009). Ch−ơng trình Nhà ở cho ng−ời thu nhập thấp đ−ợc triển khai tích cực nhằm cải thiện điều kiện sống cho ng−ời nghèo. Chính phủ đã quyết định sử dụng gói kích thích kinh tế để hỗ trợ đầu t−, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển sản xuất, tạo việc làm (Ngoc Q Pham, 2009). Tạo việc làm cho ng−ời lao động là một vấn đề cấp bách và còn nhiều nan giải. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy, có mối liên quan chặt chẽ giữa ng−ời nhập c−, ng−ời lao động không có trình độ tay nghề, theo thời vụ với các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực phi chính thức hơn là trong các doanh nghiệp nhà n−ớc. ở Hà Nội, khu vực này sử dụng 30% lực l−ợng lao động, còn ở TP. Hồ Chí Minh con số này là 32,9%, và một phần ba số hộ gia đình tại hai thành phố này có nguồn thu nhập từ khu vực kinh tế phi chính thức (Nguyễn Xuân Mai, 2009). Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực kinh tế này có thể là một giải pháp về tạo việc làm cho ng−ời dân, đặc biệt là ng−ời nghèo đô thị. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này hiện nay vẫn đang gặp phải những khó khăn trong phát triển sản xuất, dù đã có những −u tiên hỗ trợ từ nhà n−ớc, đặc biệt là việc tiếp cận gói kích thích kinh tế. Trên đây một vài nét về ng−ời nghèo đô thị và hoàn cảnh của họ d−ới tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Do những hạn chế về thông tin và số liệu thống kê nên một số tác động xã hội khác còn ch−a đ−ợc đề cập đến. Cần có các cuộc nghiên cứu sâu hơn về mức độ, về quy mô và chính xác hơn về tính khoa học để xem xét hiện t−ợng nghèo khổ đô thị nhằm đi đến những giải pháp hiệu quả./. Nghèo ở đô thị Việt Nam tr−ớc những... Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn 76 Tài liệu tham khảo 1. Ngân hàng Thế giới, 1999, Báo cáo Phát triển của Việt Nam năm 2000: Việt Nam tấn công Nghèo đói, khung 2.6, trang 29, trang 30. 2. Ngân hàng Thế giới, 2009, Điểm lại: Báo cáo Cập nhật Tình hình Phát triển kinh tế Việt Nam, trang 12. 3. Ngân hàng Thế giới, 2004, Tài liệu Thẩm định Dự án Nâng cấp Đô thị Việt Nam, trang 4. 4. Ngoc Q Pham, 2009, Impact of the Global Financial Crisis on Vietnam; A Rapid Assessment, ILO in Vietnam, trang 8 - 10, trang 11, trang 12, trang 15, trang 14. 5. Nguyễn Hữu Minh và cộng sự, 2006, Ng−ời nhập c− ở Hà Nội: Những vấn đề Xã hội đặt ra, Hà Nội, trang 2, trang 41, trang 13 - 14. 6. Nguyễn Xuân Mai, 2009, Tác động của những biến động kinh tế - xã hội trong năm 2008 tới khu vực đô thị, Tạp chí Xã hội học, số 2, 2009, trang 25. 7. Nguyễn Xuân Mai và cộng sự, 2002, Nghèo khổ đô thị tại các thành phố lớn của Việt Nam: Một số đặc tr−ng cơ bản, Báo cáo, Viện Xã hội học, trang 11, trang 18 - 19. 8. Phùng Thị Tố Hạnh và cộng sự, 2004, Tìm hiểu về các Thành phố Châu á: Nghiên cứu tr−ờng hợp Thành phố Hà Nội, do ACHR tài trợ, Hà Nội, trang 11 - 13. 9. Tim Cambell, 1999, Câu chuyện Hai thành phố ở Việt Nam, Hà Nội, khung 3.2, trang 32. 10. Trinh Duy Luan, 2003, Some Contemporary Issues of Urban Poverty and the Poor in Hanoi City, Vietnam, Report in the ACHR Conference in Bankok, Thailand, trang 1. 11. Trịnh Duy Luân, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Mai, 1999, Nghèo khổ và các vấn đề xã hội đặt ra ở Hải Phòng, Hà Nội, ch−ơng 4, trang 7, trang 2. 12. Tổng cục Thống kê, 2009, Tình hình Kinh tế - Xã hội 6 tháng đầu năm 2009, p12. 13. Viện Quản lý Kinh tế Trung −ơng (CIEM), 2006, Giải quyết việc làm ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội, trang 15. 14. Vũ Tuấn Anh, 2009, Một số tác động ban đầu của khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với nông dân, Tạp chí Xã hội học, số 2, 2009, trang 17.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso_1_2011_phungtohanh_63.pdf