Luận văn Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Tài liệu Luận văn Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Luận văn Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước Style Definition: ch11: Font: 13 pt, Centered, Indent: First line: 0", Space Before: 0 pt, After: 0 pt, Line spacing: Multiple 1.45 li MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những thành tựu phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng trong những năm qua, có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). FDI thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng cho phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo thêm việc làm, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của thành phố ven biển miền Trung. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng của thành phố, đóng góp ngày càng tăng trong tổng sản phẩm của thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, hoạt động FDI những năm qua còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Đồng ...

pdf104 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước Style Definition: ch11: Font: 13 pt, Centered, Indent: First line: 0", Space Before: 0 pt, After: 0 pt, Line spacing: Multiple 1.45 li MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những thành tựu phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng trong những năm qua, có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). FDI thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng cho phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo thêm việc làm, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của thành phố ven biển miền Trung. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng của thành phố, đóng góp ngày càng tăng trong tổng sản phẩm của thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, hoạt động FDI những năm qua còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra triển vọng và thách thức lớn trên nhiều lĩnh vực trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2006-2010) đã đặt ra yêu cầu: Thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh đi đôi với tiếp tục nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi nhằm tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) [2, tr.60]. Nâng cao sự tác động tích cực của FDI đối với phát triển KT-XH thành phố sẽ góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16-10-2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, hoàn thành mục tiêu: đưa thành phố Đà Nẵng trở thành “một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế- xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ;…. phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020”. Nghiên cứu sự tác động FDI đối với phát triển KT-XH trong thời gian qua ở thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao sự tác động tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với KT-XH của Đà Nẵng là rất cần thiết. Do vậy, vấn đề “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung là vấn đề được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam đã xuất bản nhiều sách, báo, công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam như: - Những vấn đề giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp chủ biên – NXB Pháp lý H.1992); - Luận văn tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Huy Thám “Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam” (H.1999); - Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cơ sở pháp lý - hiện trạng - cơ hội - triển vọng (NXB Thế giới H.1994); - Luận án PTS của Mai Đức Lộc “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế Việt Nam" (H.1994); - Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp (Trần Xuân Tùng, Nxb Chính trị quốc gia H.2005). - Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam (Nguyễn Anh Tuấn, Nxb Tư pháp, H.2005). - Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (CIEM SIDA, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.2006). Các đề tài trên đã nghiên cứu bản chất và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, đề ra một số giải pháp trong thu hút, quản lý FDI ở Việt Nam. Đặc biệt, đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Đà Nẵng được công bố giúp chung ta có cái nhìn tương đối rõ hơn tình hình, triển vọng của hoạt động đầu tư nước ngoài của thành phố ven biển miền Trung này như: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố Đà Nẵng (Luận án Thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Hữu Chiến H.1999); Một số giải pháp cơ bản nhằm thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (đề tài khoa học cấp thành phố- Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng- ĐN. 2003). Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề: “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” dưới góc độ khoa học kinh tế - chính trị. Do đó, đề tài luận văn này là cần thiết và không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Tìm giải pháp nâng cao sự tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của FDI vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài; - Thực trạng sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng; - Tìm ra nguyên nhân những sự tác động tích cực cũng như tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng; - Đề ra các giải pháp để nâng cao tác động tích cực của FDI đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối tượng khảo sát: các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng, tình hình KT-XH có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Phạm vi khảo sát: địa bàn thành phố Đà Nẵng, thời gian từ khi thành phố Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, để trở thành đơn vị hành chính trực thuộc trung ương (năm 1997-nay). 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia, phân tích, tổng hợp, so sánh…, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả của một số công trình nghiên cứu có liên quan. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Đánh giá sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với KT-XH ở thành phố Đà Nẵng kể từ khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đến nay; - Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao sự tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố trong thời gian tới. - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1 ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ VAI TRÒ FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ –XÃ HỘI 1.1. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1.1 Khái niệm đầu tư (Investment) Có nhiều cách hiểu đầu tư, nhưng thông thường đầu tư được coi là “bỏ vốn (tiền của, sức lao động, thì giờ…) vào một công cuộc” [11, tr.257]; hoặc là việc “nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”[11, tr.257], nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm, khái niệm, định nghĩa về đầu tư, trong đó có 2 khái niệm tiêu biểu về đầu tư như sau:  Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm tạo ra năng lực vốn lớn hơn. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn.  Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương đối dài (từ 2 năm trở lên) nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích KT-XH. Theo những định nghĩa trên, thì hoạt động đầu tư phải có các đặc trưng sau: đầu tư là một hoạt động tài chính (bỏ vốn thu lợi nhuận), vốn đầu tư có thể là tiền hoặc tài nguyên nói chung; đầu tư là hoạt động trong khoảng thời gian tương đối dài; đầu tư hoạt động bỏ vốn hiện tại, nhằm thu lợi trong tương lai, vì thế đầu tư có tính rủi ro cao. Tóm lại, đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong một thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận (hoặc các lợi ích KT-XH). Vốn đó từ nhiều nguồn khác nhau như quỹ tích luỹ của tái sản xuất xã hội hoặc thu hút từ nước ngoài dưới nhiều hình thức. Người bỏ vốn đầu tư được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư, chủ đầu tư có thể là cá nhân, tổ chức hay nhà nước. Nếu phân loại đầu tư theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, thì có thể chia làm hai loại đầu tư:  “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).  “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”(điều 3, Luật Đầu tư). 1.1.2. Đầu tư nước ngoài 1.1.2.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Đầu tư nước ngoài có một số đặc điểm khác với đầu tư nội địa đó là: Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài, điều này sẽ có liên quan đến các quy định về xuất nhập cảnh, về phong tục tập quán, ngôn ngữ...; Các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới, đặc điểm này liên quan đến các chính sách, pháp luật về hải quan và cước phí vận chuyển; Vốn đầu tư có thể là tiền tệ, vật tư hàng hóa, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nhưng được tính bằng ngoại tệ, đặc điểm này liên quan đến chính sách tài chính và tỷ giá hối đoái của các nước tham gia đầu tư. Quan niệm đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước theo Luật Đầu tư năm 2005 của nước ta là: “Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư). 1.1.2.2. Hình thức biểu hiện của đầu tư nước ngoài - Vốn ODA, đây là nguồn viện trợ song phương hay đa phương dưới dạng viện trợ không hoàn lại hay lãi suất và thường đi kèm theo điều kiện về chính trị. - Vốn tín dụng thương mại, chủ yếu là nhằm hỗ trợ cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các nước. - Vốn đầu tư từ việc bán cổ phiếu, trái phiếu... cho người nước ngoài (Foreign Portfolio Investment). Thực chất là người nước ngoài tham gia đầu tư vào các công ty đã phát hành ra cổ phiếu, trái phiếu. - Vốn FDI, là nguồn vốn đầu tư khá phổ biến hiện nay của nước ngoài (có thể là tư nhân, tổ chức, hay nhà nước hoặc là sự phối hợp) đầu tư vào một quốc gia nào đó nhằm mục đích kiếm lợi nhuận là chủ yếu, thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh ngay tại nước nhận đầu tư. Các hình thức đầu tư trên đều được các nhà đầu tư nước ngoài vận dụng linh hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Trên thực tế, nguồn vốn ODA và FDI phổ biến hơn, hai nguồn này đều có vị trí quan trọng theo quan điểm của từng nước, ở từng thời điểm. 1.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.3.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Có nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF): FDI là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư) không phải nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp. Theo Uỷ ban Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD) thì: FDI là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI, hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp). Tiêu thức phân biệt FDI với hoạt động đầu tư nội địa thường tập trung vào các đặc trưng sau: - Về vốn góp, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để có quyền trực tiếp tham gia điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh; - Về quyền điều hành quản lý, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp, nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý; - Về phần chia lợi nhuận, dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ, đều được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản đóng góp. Từ những quan niệm trên có thể hiểu FDI là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận. 1.1.3.2. Các hình thức cơ bản của FDI Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là: Thứ nhất, xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân làm hai hoặc đầu tư theo chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mỹ, Nhật Bản đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: Với mục đích khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động, đất đai của các nước nhận đầu tư. Các nhà đầu tư thường khai thác các lợi thế cạnh tranh đó để hoàn thiện qua lắp ráp ở nước chủ nhà. Sau đó các sản phẩm được bán trên thị trường quốc tế. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển. Thứ hai, xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có các hình thức sau: + Doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức FDI, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định. + Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. + Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp: đây là hình thức đầu tư trực tiếp, hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước. Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình xây dựng còn có hình thức: + BOT: là một phương thức đầu tư trực tiếp, thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước chủ nhà công trình đó mà không nhận bồi hoàn bất kỳ khoản nào. Hợp đồng BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp vốn của chính phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà. + BTO: là phương thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. + BT: là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài, để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. Các hình thức BOT, BTO, BT có ưu điểm là thu hút vốn đầu tư vào những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng với đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian khá dài. Như vậy sẽ làm giảm áp lực cho ngân sách, đồng thời lại có được các công trình hoàn chỉnh để phát huy các nguồn lực khác nhằm phát triển KT-XH. Tuy nhiên, với các phương thức này, nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ tiên tiến và khó kiểm soát công trình. Ngày nay, cùng với sự gia tăng của dòng vốn FDI, thì ngày càng xuất hiện nhiều hình thức đầu tư mới, đa dạng nhằm đưa lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư và nước nhận đầu tư. 1.1.3.3. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay FDI phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thương mại thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế ngày càng thúc đẩy sự phát triển các luồng vốn FDI, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của vốn đầu tư thông qua di chuyển sản xuất, kinh doanh đến địa điểm có lợi nhất về chi phí và tiêu thụ. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng tăng lên trong quá trình phân bổ và di chuyển các dòng vốn FDI trên thế giới. Ngày nay, sự vận động của FDI biểu hiện trên một số xu hướng sau:  Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh và trở thành một hình thức quan trọng trong hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo của UNCTAD về đầu tư thế giới, tổng vốn lưu chuyển quốc tế trong mấy thập kỷ vừa qua tăng mạnh với mức tăng bình quân khoảng 20 - 30%/năm. Những năm 1970, vốn FDI toàn thế giới mới ở mức khoảng 25 tỷ USD, đến thời kỳ năm 1980 - 1985 đã tăng gấp đôi, đến năm 1995 đã đạt mức 235 tỷ USD. Năm 2000, cùng với đà phục hồi của kinh tế thế giới sau một thời gian ngừng trệ do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á (1997 - 1999) vốn FDI đạt đến mức kỷ lục, vượt ngưỡng 1.000 tỷ USD, trong đó có phần tăng mạnh do xu hướng sáp nhập và mua lại các công ty, hình thành các công ty, tập đoàn khổng lồ chưa từng có trước đây. Năm 2001, FDI giảm xuống mức 760 tỷ USD và năm 2002 giảm tiếp, chỉ còn 543 tỷ USD do trào lưu mua lại, sáp nhập công ty đã giảm xuống và ảnh hưởng của tình trạng trì trệ, suy thoái của kinh tế thế giới, sự phục hồi chậm chạp của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu (EU). Nhìn chung, luồng vốn FDI đã có khối lượng lớn, chiếm tỷ trọng đáng kể và trở thành bộ phận quan trọng trong tổng vốn đầu tư và tài chính, sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông, đã tạo ra những khả năng mới cho các hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra thuận lợi, nhanh chóng hơn, là cơ sở của sự gia tăng quy mô và tính đa chiều, đa dạng của hoạt động FDI. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế khách quan, tác động đến sự phát triển của tất cả các nước, thì việc Việt Nam mở cửa thu hút FDI đang trở thành một đòi hỏi cấp thiết để tăng cường tiềm lực kinh tế, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, góp phần mở rộng thị trường, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.  Sự phân bổ dòng vốn FDI không đều, phần lớn tập trung ở các nước công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng còn rất nhỏ bé. Cũng theo báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, năm 1999 các nước phát triển chiếm 76,5% trong tổng số 865 tỷ USD vốn FDI toàn cầu, trong khi các nước đang phát triển chia nhau số vốn còn lại (khoảng 192 tỷ USD); năm 2000, thu hút vốn FDI của các nước đang phát triển được cải thiện, đạt trên 200 tỷ USD trong tổng số khoảng 1.200 tỷ USD FDI toàn cầu; năm 2001 và 2002, khoảng 80% lượng vốn FDI toàn cầu được đầu tư giữa các nước công nghiệp với nhau, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được khoảng 20% lượng vốn còn lại. EU là nguồn cung cấp FDI lớn nhất và chủ yếu là trao đổi tư bản trong nội bộ khối; vốn đầu tư ra ngoài EU lại hướng trước hết vào Mỹ. Mỹ cũng là nhà cung cấp FDI thuộc loại lớn nhất, nhưng đồng thời cũng là nước tiếp nhận FDI hàng đầu thế giới (cho đến trước năm 2002). Trước xu thế trên, để thu hút được nhiều FDI phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH, chúng ta cần phát huy những lợi thế của nước ta như: chính trị ổn định, KT-XH phát triển, môi trường đầu tư đang được cải thiện, các yếu tố đầu vào sản xuất rẻ...  Dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các TNCs của các nước phát triển. Mặc dù ngày càng có sự đa dạng hóa trong các đối tác và chủ thể tham gia vào quá trình luân chuyển FDI, nhưng thực chất dòng vốn FDI quốc tế hiện nay đang bị chi phối bởi các công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển. Các công ty xuyên quốc gia trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp với khối lượng kiểm soát trên 90% tổng FDI toàn thế giới, đồng thời là lực lượng chủ yếu vận hành những mảng lớn của nền kinh tế thế giới, nắm vững nguồn vốn tài chính, kỹ thuật, nắm giữ các ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn, kiểm soát thương mại quốc tế theo thống kê, các công ty xuyên quốc gia nắm giữ gần 40% sản lượng công nghiệp; 60% ngoại thương, 80% kỹ thuật mới của thế giới tư bản. Chỉ tính riêng 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới (tất cả đều thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản ở nước ngoài của các công ty này đã lên tới 1.400 tỷ USD, sử dụng 73 triệu lao động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm trên 16%. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia tiếp tục vươn ra các khu vực khác nhau trên thế giới với quy mô FDI ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng quyết định đối với lĩnh vực này. Bên cạnh việc giữ vững các khu vực đầu tư truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, các công ty xuyên quốc gia đang gia tăng hoạt động đầu tư vào những địa bàn mới đầy triển vọng. Đặc biệt, tất cả các công ty xuyên quốc gia đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực châu Á. Đây cũng là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật Bản, hàng thứ hai của Mỹ (sau Châu Âu) và hàng thứ ba của các nước Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu). Đối với nước ta, cần chú trọng đến thu hút FDI từ các TNCs sẽ tận dụng sức mạnh về tài chính, công nghệ và khả năng tiếp cận thị trường thế giới của các TNCs vào quá trình phát triển KT-XH, hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, Việt Nam hiện là một trong những địa bàn mới đầy triển vọng để các TNCs nhắm tới đầu tư.  Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận đầu tư với nhau ngày càng cao. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tiến trình toàn cầu hóa làm cho nguồn vốn FDI ngày càng mở rộng và gia tăng nhưng đồng thời nhu cầu thu hút sử dụng FDI ở tất cả các nước. Đặc biệt là các nước đang phát triển cũng ngày càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này. Các nước nhận FDI - đặc biệt là các nước vừa phục hồi sau khủng hoảng, các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển khác có xu hướng tập trung nỗ lực đẩy mạnh việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, mở cửa rộng hơn, tạo điều kiện kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi hơn, kích thích tiêu dùng nội địa, dỡ bỏ bớt những “rào cản” trong các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực nhạy cảm như bảo hiểm, viễn thông, năng lượng... nhằm thu hút, “lôi kéo” FDI. Trong tổng FDI toàn cầu, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được trên 20%, nhưng 2/3 của số đó lại tập trung vào một số nước có điều kiện thuận lợi và sức hấp dẫn đầu tư cao như Trung Quốc, ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc... Hàn Quốc trước đây là nước chủ yếu sử dụng vay nợ nước ngoài để phát triển. Từ cuối những năm 1980 và nhất là sau khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực đã thay đổi chính sách, chuyển sang mở cửa thu hút mạnh FDI để cơ cấu lại nền kinh tế. Trong đó có việc cơ cấu lại hệ thống các tập đoàn kinh tế, do vậy đã thoát nhanh khỏi khủng hoảng, tạo ra sức sống mới cho nền kinh tế. Nhiều nước khác trong khu vực cũng đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư, cạnh tranh trong việc thu hút FDI như Thái Lan, Malaysia, Philippin... Hiện nay đang có sự cạnh tranh khá gay gắt về thu hút FDI trong khu vực đang xuất hiện xu hướng dịch chuyển luồng vốn FDI từ một số nước ASEAN sang Trung Quốc... Không chỉ có sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư, cuộc cạnh tranh giữa các nhà đầu tư cũng không kém phần quyết liệt, tạo cho các nước tiếp nhận đầu tư có khả năng lực chọn. Các nhà cung cấp FDI đang “ráo riết” chào mời để có thể nhảy vào những lĩnh vực và thị trường kinh doanh béo bở, những dự án lớn được chính phủ nước sở tại khuyến khích bảo lãnh, bảo hộ... Trong bối cảnh đó, nước ta cần có chiến lược thu hút đầu tư và sử dụng FDI, chiến lược ấy phải phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH. Trong đó mức độ ổn định về chính trị - xã hội, kết quả của sự nghiệp đổi mới đất nước, hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư là những yếu tố quan trọng quyết định để tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam nhằm thực hiện những mục tiêu KT-XH.  FDI giữa các đối tác tham gia quá trình luân chuyển vừa có tính quốc tế hóa, vừa có tính cục bộ hóa. Các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến FDI và nhận thức được tầm quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế và phân công lao động quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa. Cùng với tốc độ lưu chuyển vốn quốc tế nhanh, thị trường tài chính của các quốc gia đang mở rộng hơn, tạo nên xu thế ngày càng hội nhập vào thị trường tài chính thế giới. Hiện tượng “đa biên hóa” trong xu hướng vận động của FDI ngày càng đậm nét, rất nhiều các công trình có sự tham gia của “tập thể” nhiều chủ đầu tư. Sự tham gia này có thể dưới dạng góp cổ phần hoặc phân nhỏ công trình thành các hạng mục đầu tư cho nhiều chủ thể tham gia. Tuy nhiên, FDI cũng mang tính cục bộ khu vực, chẳng hạn như các nước EU là những nhà đầu tư hàng đầu thế giới, nhưng phần lớn khối lượng đầu tư được thực hiện ngay trong nội bộ các nước EU. Do các yếu tố về địa lý và văn hóa mà hiện nay, trên thế giới đã hình thành các nhà đầu tư truyền thống của từng khu vực; ví dụ: Nam Mỹ là “lãnh địa” của các nhà đầu tư Mỹ, còn Nhật Bản đang nắm giữ thị phần đầu tư lớn ở Đông Á. Như vậy, đối tác đầu tư của nước ta trong thời gian tới vừa đa dạng theo hướng đa phương, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, vừa tập trung vào các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, công nghệ, có uy tín và kinh nghiệm từ Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc....  Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư. Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư. Năm 1998, EU đầu tư ra nước ngoài 368 tỷ USD, nhưng cũng tiếp nhận 230 tỷ USD vốn FDI, là khu vực đầu tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp lớn nhất thế giới. Các nước công nghiệp phát triển (G7) chiếm 4/5 tổng FDI toàn thế giới, nhưng cũng thu hút trên 2/3 tổng vốn FDI toàn cầu. Quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới ngày càng sâu sắc, giúp các quốc gia phát huy lợi thế so sánh của mình khi tham gia đầu tư ra nước ngoài, đồng thời bổ sung nguồn vốn đầu tư để khắc phục những hạn chế của mình (nhất là về công nghệ và năng lực quản lý đối với các nước đang phát triển), làm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế trong nước thông qua việc tiếp nhận FDI. Đây là cơ sở của sự gia tăng xu hướng đầu tư. Hiện nay, nhiều nước và vùng lãnh thổ đang phát triển, ngoài việc thu hút FDI từ các nước phát triển, cũng vươn lên trở thành những nhà đầu tư quốc tế có uy tín lớn như Singapo, Đài Loan.... Tuy nhiên chủ đầu tư FDI từ các nước này chủ yếu vào các nước có cùng khu vực địa lý và mang tính chất chuyển giao một số ngành, cơ sở kinh tế có năng suất lao động thấp, sang các các nền kinh tế kém phát triển hơn. Vì thế, khi tiếp nhận FDI từ các nước này, cần phải xem xét, chọn lọc những dự án phù hợp, để có thể đảm bảo tính hiệu quả trong thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững và rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam đối với thế giới. Mặt khác, chúng ta cũng cần mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoài để phát huy lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.2.1. Quan niệm cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội Phát triển là quá trình mà qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu thỏa mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa rộng, phát triển KT-XH bao gồm cả khía cạnh chính trị và phát triển con người. Phát triển KT-XH là sự phát triển, trong đó tăng trưởng kinh tế nhanh, có chất lượng, xã hội ổn định và phát triển, môi trường trong sạch. Phát triển KT-XH nhanh, bền vững đang là vấn đề vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược đối với mỗi quốc gia. Đại hội IX của Đảng đã đưa ra mô hình tổng quát kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ là: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong mô hình kinh tế này, một mặt, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường với tư cách là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; mặt khác, đề cao vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế nhằm mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [12]. Các chủ trương, định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế xã hội đều hướng đến sự phát triển bền vững, với những mục tiêu: tăng trưởng kinh tế nhanh; xã hội ổn định phát triển; môi trường trong sạch. Ngay từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định sự gắn kết giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, trong đó coi: trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế.... Trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa và các sự nghiệp phúc lợi khác. Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000 được thông qua tại Đại hội VII của Đảng nêu rõ: tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Đại hội IX của Đảng cũng đã ra nhiệm vụ: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo và môi trường, phát triển KT- XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học" [12, tr.162]. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển KT-XH [13, tr.101]. Với nhận thức về phát triển KT-XH, chúng ta có điều kiện tìm hiểu mối quan hệ và vai trò của FDI đối với phát triển KT-XH. Có thể nói, FDI có tác động mạnh mẽ đến phát triển KT-XH của nước tiếp nhận đầu tư trên nhiều mặt: tăng trưởng kinh tế, cán cân thanh toán, phúc lợi xã hội, thu nhập của người lao động, văn hoá, đạo đức… Sự tác động ấy diễn ra cả hai chiều thuận và nghịch đối với nước tiếp nhận đầu tư: có nhiều mặt tích cực, đồng thời cũng có những mặt hạn chế, bất lợi riêng. 1.2.2. Những tác động tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội FDI có tác động tích cực đến kinh tế – xã hội đối với nước tiếp nhận đầu tư trên một số mặt chủ yếu sau đây: 1.2.2.1. FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội Tăng trưởng kinh tế thường gắn với tỷ lệ đầu tư. Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp và hoạt động FDI. Với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, hoạt động sản xuất và đầu tư ở những nước này như là một “vòng đói nghèo luẩn quẩn” (theo Paul A. Samuelson). Để phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một cú huých lớn”, mà biện pháp hữu hiệu là tăng vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển nền kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu nhập tăng. So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm cơ bản sau đây: - FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư. - Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997 đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động... Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. FDI được coi là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển KT-XH. Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1988) đến hết ngày 31/6/2006, nước ta đã thu hút được trên 7.550 dự án (6.390 dự án còn hiệu lực) với mức vốn đăng ký đạt hơn 68,9 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 53,9 tỷ USD, vốn đang hoạt động trên 36 tỷ USD. Tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực FDI ngày càng tăng. Nếu năm 1994, ở mức 6,9%, thì năm 2004 là 15,2% và “năm 2005 các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP… gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước” [13, tr153]. Khu vực FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân. 1.2.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy phát triển công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển. Do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển các nước đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới. Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau như nhập khẩu thiết bị, kỹ thuật, mua hoặc hợp đồng sử dụng bản quyền, sáng chế; tự thiết kế và sản xuất theo bản thiết kế tổng thể do bên nước ngoài cung cấp... Thực tế cho thấy, FDI là một kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho các nước vừa thiếu vốn, vừa có trình độ phát triển thấp, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo đầy đủ. Các doanh nghiệp FDI còn có tác dụng phổ biến những công nghệ hiện đại, công nghệ sạch, giữ gìn môi trường theo các tiêu chuẩn tiên tiến cho các doanh nghiệp trong nước, nhờ thế mà thúc đẩy khoa học – công nghệ phát triển. Ngoài ra, do áp lực cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI, buộc các doanh nghiệp trong nước phải nhanh chóng học hỏi, vươn lên, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường đào tạo cán bộ... làm cho tốc độ hiện đại hóa được nâng lên rõ rệt. Đồng thời, FDI có tác dụng rõ nét hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác trong việc chấn hưng, làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt và sự sôi động của nền kinh tế nước tiếp nhận nhờ gia tăng các nhà đầu tư nước ngoài, kéo theo các dịch vụ cho họ vận tải, khách sạn, văn phòng, nhà hàng ăn uống, vui chơi, giải trí... Tuy nhiên, không chỉ có các nước đang phát triển quan tâm đến yếu tố chuyển giao công nghệ của FDI, mà các nước công nghiệp phát triển cũng đang tìm cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hóa sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Những ngành có khả năng cạnh tranh cao thì mở rộng đầu tư ra nước ngoài, những ngành trong nước kém sức cạnh tranh thì có thể cho doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, thậm chí thôn tính hoặc xóa bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong nước. Đây cũng là kết quả tất yếu của quá trình phân công, hợp tác lao động quốc tế, chuyên môn hóa và hợp lý hóa sự phân bổ các nguồn lực thông qua FDI. Đối với nước ta, hoạt động FDI những năm qua đã góp phần quan trọng trong nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. “Đến năm 2002 việc chuyển giao công nghệ trong khu vực có vốn ĐTNN chiếm 90% trong số 200 hợp đồng” [28, tr.186]. Nhiều công nghệ mới đã được chuyển giao. Ví dụ như: khai thác dầu khí ngoài khơi, lắp ráp các tổng đài kỹ thuật số, công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp; hệ thống lắp ráp tự động bảng mạch điện tử; sản xuất mô tơ nhỏ; chíp điện tử; công nghệ về viễn thông; nuôi trồng, chế biến một số nông, lâm, thủy sản; công nghệ dịch vụ kinh doanh khách sạn. Sự phát triển công nghệ kỹ thuật cũng tác động mạnh mẽ đến xã hội, các tiêu chuẩn mới với những đòi hỏi khắt khe hơn trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, an tòan thực phẩm, vệ sinh môi trường... làm cho chất lượng cuộc sống không ngày càng đươc nâng lên. 1.2.2.3. FDI góp phần thâm nhập thị trường thế giới và khu vực, mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Chủ thể chủ yếu của hoạt động FDI trên thế giới hiện nay là các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới chân rết toàn cầu; thông qua tiếp nhận đầu tư của các công ty, tập đoàn này, nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, làm quen với tập quán thương mại quốc tế, thích nghi nhanh hơn với những thay đổi trên thị trường thế giới... Đó là vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan trọng của FDI, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với uy tín của mình đã giúp hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. “Đến nay, hàng hóa Việt Nam đã có mặt trên 140 nước và ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường mới như: EU, châu Mỹ, Trung Đông… góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách… trong 5 năm qua (2001-2005) mỗi năm đóng góp cho ngân sách gần 1 tỷ USD” [16, tr.111]. Hoạt động FDI góp phần quan trọng đối với đẩy mạnh xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán. Trong đó, xuất khẩu là một trong những giải pháp tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thêm thu nhập cho nền kinh tế, từ đó tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Thông qua thặng dư xuất khẩu và chuyển vốn đầu tư vào Việt Nam, hoạt động FDI góp phần vào việc hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán. Ngoài ra, FDI còn góp phần tích cực hòan thiện, nâng cao nghiệp vụ quản lý xuất nhập khẩu theo tiến trình hội nhập quốc tế: như hải quan, thực hiện lộ trình cát giảm thuế; nâng cao hệ thống kinh tế - kỹ thuật xuất nhập khẩu như: thương mại điện từ, ngân hàng điện tử, vận tải (cảng công ten nơ, hệ thống vận tải bồn dầu theo tiêu chuẩn quốc tế, cầu cảng, hàng không....). Với sự đóng góp của các doanh nghiệp FDI, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh, góp phần nâng mức tăng kim ngạch xuất khẩu lên 16% năm 2005. Nếu như giai đoạn 1990-1995 kim ngạch xuất khẩu khu vực ĐTNN đạt trên 1,12 tỷ USD thì giai đoạn 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ (chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu cả nước). Đến giai đoạn 2001-2005, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) đạt mức 33,8 tỷ USD, chiếm trên 33% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nếu tính cả xuất khẩu dầu thô, tỷ lệ này đạt gần 55%. Khu vực FDI chiếm khoảng 15% tổng sản phẩm nội địa (GDP), 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Với sự tăng trưởng của xuất khẩu, cán cân thương mại khu vực FDI luôn thăng dư: trong năm 1995 là 5 triệu USD, năm 2002 là 1,184 triệu USD và năm 2003 là 1,3 triệu USD. 1.2.2.4. FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực  FDI góp phần giải quyết việc làm: Bằng việc tăng nguồn vốn đầu tư xã hội, FDI tác động đến cung – cầu lao động; nó không những trực tiếp thu hút và sử dụng lao động, mà còn gián tiếp tạo thêm việc làm cho các ngành dịch vụ và cho các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước. Ở nước ta, FDI đã trực tiếp thu hút, giải quyết số lượng việc làm cho xã hội. Số người lao động trong các doanh nghiệp FDI tăng lên hàng năm. Cuối năm 1993 số lao động trong các dự án FDI chỉ có 49.892 lao động, thì đến cuối năm 2004 là 739.000 người, tăng 15 lần so với năm 1993. Giai đọan 1993-2004 bình quân mỗi năm số lao động trong khu vực FDI tăng thêm 66,18 nghìn lao động”. Cùng với việc phát triển của khu vực FDI, nhiều lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, cung ứng dịch vụ cho khu vực này cũng phát triển theo. Như vậy, sẽ nâng cao khả năng tạo việc làm, giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp. Hiện nay, với chính sách tăng dần tỉ lệ nội địa hóa trong sản phẩm của các doanh nghiệp FDI các ngành sản xuất ô tô, xe máy, giày da, may mặc…. đã xuất hiện thêm nhiều doanh nghiệp vệ tinh cung cấp sản phẩm dịch vụ cho doanh nghiệp FDI, tạo ra nhiều việc làm. Tùy theo lĩnh vực sản xuất, số việc làm do doanh nghiệp FDI gián tiếp tạo ra tương đối lớn. Năm 2002 số lao động gián tiếp do doanh nghiệp FDI tạo ra là 553.570, bằng với số lao động đang trực tiếp trong khu vực FDI. Đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp FDI thu hút 77 vạn lao động trực tiếp và 1,5 triệu lao động gián tiếp  FDI góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: FDI tác động đến vấn đề lao động của nước tiếp nhận đầu tư liên quan đến cả số lượng và chất lượng lao động. FDI đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp của lao động Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp FDI đã tạo điều kiện cho lao động nước ta nâng cao tay nghề, tiếp cận kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, rèn luyện kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài. “Hiện nay, trình độ, năng lực của 6000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật và trình độ tay nghề của hàng vạn lao động ở các doanh nghiệp CVĐTNN được nâng lên rõ rệt” [16, tr.113]. Việc cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường cán bộ, thu hút nhân tài, nâng cao trình độ, năng lực của lao động cũng góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam. 1.2.3. Những tác động tiêu cực của FDI đối với kinh tế – xã hội Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra tác động bất lợi cho nước tiếp nhận, cần phải lưu ý: 1.2.3.1. Mất cân đối trong đầu tư Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong nước. Từ đó, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài), có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà đầu tư nước ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, thị trường sản phẩm...). Nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc. 1.2.3.2. Lợi dụng biện pháp chuyển giá để trốn thuế gây thiệt hại cho ngân sách và người tiêu dùng, gây sức ép cạnh tranh đến các doanh nghiệp trong nước Các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với doanh nghiệp ở nước tiếp nhận, nhất là trong trường hợp liên doanh, để thực hiện biện pháp “chuyển giá” (transfer pricing) thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, bộ phận, sản phẩm dở dang với giá cao, thu lợi ngay từ khâu này, làm cho giá thành sản phẩm cao một cách giả tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí gây ra “lỗ giả, lãi thật”, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và giảm thu ngân sách của nước sở tại. Cụ thể: - Khai tăng giá trị tài sản góp vốn. Đây là hiện tượng khá phổ biến. Gần đây, Công ty Giám định quốc tế SGS (Thụy sĩ) tiến hành giám định thí điểm 14 dự án FDI theo hình thức liên doanh tại Việt Nam thì đã có 8 dự án chủ đầu tư báo thiết bị nhập khẩu cao hơn 10-20% giá thực tế. - Mua nguyên liệu, vật liệu và các yếu tố sản xuất đầu vào khác cao hơn giá thực tế. - Quản lý và sử dụng chi phí không hợp lý. Ví dụ chi phí tiếp thị, quảng cáo rất lớn so với yêu cầu thực tế. Chẳng hạn như Công ty Cocacola chi cho quảng cáo, khuyến mại, phân phối sản phẩm, quản lý hành chính của liên doanh chiếm tới 41,8% doanh thu so với 20% doanh thu được phê duyệt tại luận chứng kinh tế ban đầu. - Trốn thuế. Ở nước ta hiện nay “những vi phạm pháp luật về thuế vẫn còn diễn ra phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau.... Lợi dụng sự kém hiểu biết về chế độ kế tóan nước ngoài và trình độ ngoại ngữ yếu của cán bộ thuế, các công ty này áp dụng hình thức kế tóan đa dạng, phức tạp nhằm bịt mắt, qua mặt cán bộ thuế... Nhiều công ty hạnh tóan lỗ cao, khai thấp thu nhập so với thực tế để giảm thuế thu nhập phải nộp”[16, tr.124]. Ngoài việc lợi dụng “chuyển giá”, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước, doanh nghiệp FDI còn gây sức ép cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước. Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, công nghệ, các doanh FDI tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt đến các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước nếu không đủ mạnh dễ bị mất thị phần, làm ăn thua lỗ, thậm chí phá sản. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong nước, làm cho một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong nước không phát triển được. 1.2.3.3. Nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ nhà, một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ những máy móc, thiết bị lạc hậu, thậm chí đã thải loại sang nước tiếp nhận FDI. Thực tế ở nhiều nước cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài đã tranh thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua sử dụng (được tân trang) hoặc nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý. Nếu không có những quy định và sự kiểm soát chặt chẽ, nước nhận FDI dễ trở thành “bãi thải công nghệ” của các công ty xuyên quốc gia, gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế. Ở Việt Nam tình trạng trên đang là vấn đề cần chú ý. Theo báo cáo của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường năm 2002: qua thẩm định 727 máy móc, thiết bị của 42 liên doanh với nước ngoài, thì có 72% sản xuất từ 1960, trong đó 2/3 thiết bị đã khấu hao hết; đa số công nghệ nhập vào ngành cơ khí, hóa chất, công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm thuộc loại thông dụng, phổ biến ở nhiều nước; không ít dự án thiết bị, công nghệ nhập vào phần nhiều cũ kỹ, lạc hậu. Do vậy, công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực thu hút và quản lý nguồn vốn FDI cần có các biện pháp hữu hiệu để có thể giảm thiểu tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu, thiết bị, máy móc cũ, năng suất thấp gây thiệt hại cho nền kinh tế. 1.2.3.4. Tác động tiêu cực đến vấn đề xã hội Sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về KT-XH như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển trong một vùng hoặc giữa các vùng... Đặc biệt, sự gia tăng số lượng dự án FDI, bao giờ cũng kèm theo sức ép về các chính sách an sinh xã hội, trật tự an toàn cho nước chủ nhà. Việc đầu tư cho an sinh xã hội cũng đòi hỏi chi phí ngân sách không nhỏ, như: xây dựng nhà ở, trường học, y tế, công trình văn hóa – xã hội, vệ sinh môi trường, các dịch vụ công khác….. Đặc biệt, hiện tượng các chủ doanh nghiệp FDI lợi dụng sự thiếu hiểu biết của các cơ quan, cán bộ quản lý và người lao động, kẽ hở của chính sách, pháp luật Việt Nam để khai thác triệt để sức lao động của công nhân; ở nhiều nơi còn có hành động đối xử bất công, xúc phạm nhân phẩm người lao động, gây mâu thuẫn, phản kháng của công nhân như xô xát, đình công, lãn công… Trên đây là một số tác động tiêu cực của FDI. Tuy nhiên, những tác động gây ảnh hưởng đến KT-XH ra sao, mức độ thế nào, còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của nước chủ nhà. Nếu chúng ta có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, thì có thể hạn chế, giảm thiểu được những tác động tiêu cực, bất lợi, phát huy mặt tích cực của FDI cho tiến trình phát triển KT-XH của đất nước. 1.3. KINH NGHIỆM VỀ THU HÚT FDI ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách mở cửa năm 1978 đến nay, nền kinh tế Trung Quốc đã có sự biến đổi mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, GDP tăng bình quân 9,5%. Trong các yếu tố tác động tạo ra mức tăng trưởng cao như vậy có sự đóng góp quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với 40-45 tỷ USD/năm những năm 1990-2000 và 53 tỷ USD năm 2005 (gần 60% lĩnh vực sản xuất và 24% là lĩnh vực bất động sản), Trung Quốc đã trở thành nước tiếp nhận FDI khoảng 30% tổng các luồng FDI vào tất cả các nước đang phát triển. Tuy có một số tác động tiêu cực, nhưng về cơ bản FDI đã có những tác động tích cực đến kinh tế – xã hội của Trung Quốc. Tận dụng được FDI, Trung Quốc có điều kiện để cải cách cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp, hiện đại hóa đất nước, rút ngắn khoảng cách với thế giới về khoa học – công nghệ, thúc đẩy cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế. Năm 2001, khu vực FDI đóng góp 1/3 tổng sản lượng công nghiệp, 1/5 giá trị gia tăng công nghệ cao, 51,5% xuất khẩu, thu hút gần 23 triệu lao động. Các khu vực kinh tế vốn lạc hậu ở phía Trung và Tây Trung Quốc, nhờ FDI đã dần dần phát triển trên cơ sở phát huy các ưu thế về lao động và tài nguyên dồi dào của Trung Quốc. Có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc phát huy tác dụng tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với phát triển KT-XH ở Trung Quốc như sau: Một là, nhất quán quan điểm phát triển dựa trên nguồn lực bên trong và bên ngoài, kiên trì theo đuổi mục tiêu cải cách và mở cửa, cân đối giữa nguồn lực trong nước và nước ngoài, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách chủ động, hợp lý và hiệu quả, coi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế XHCN. Nhờ vậy, nền kinh tế phát triển cân đối, vừa phát huy được nguồn nội lực, vừa tranh thủ được nguồn ngoại lực (mà chủ yếu từ FDI) để phát triển KT-XH. Hai là, mở cửa từng bước, hợp lý và vững chắc. Với việc mở cửa từng bước, hợp lý và vững chắc, Trung Quốc đã đảm bảo mục tiêu đẩy nhanh quá trình hội nhập, nhưng hạn chế những thiệt hại cho doanh nghiệp các các ngành kinh tế trong nước, giữ vững được an ninh kinh tế, giữ vững môi trường. Ba là, thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Sự thống nhất môi trường pháp lý đầu tư, vừa là cơ sở để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI, đồng thời là cơ sở để các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động, ứng xử trên thương trường một cách bình đẳng và minh bạch. Bốn là, thu hút FDI từ cộng đồng người Hoa trên thế giới. Nhân tố này là đặc trưng riêng tạo nên sự thành công của Trung quốc trong thu hút và phát huy tính tích cực của FDI. Trên thực tế có hơn một nửa tổng các luồng vốn FDI đi vào Trung quốc có nguồn gốc từ Hong Kong, Singapore và Đài Loan, phần lớn các dự án từ luồng vốn này đều có thiện chí trong đầu tư xây dựng phát triển quê hương. 1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): Bình Dương hiện là tỉnh đứng đầu trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2006. Tính đến tháng 6-2006, toàn tỉnh Bình Dương đã có 1.203 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư gần 5,6 tỷ USD, trong đó có 559 dự án FDI đầu tư trong các khu công nghiệp (KCN) tập trung với tổng vốn 2,83 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm gần 70% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển thời kỳ 1998 – nay. FDI là một trong những nguồn lực quan trọng tác động tích cực vào tăng trưởng GDP, với tốc độ từ 14,57% năm 1999 lên 15,2% năm 2004. Mặt khác nó còn góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Các dự án FDI hoạt động ở hầu hết các ngành kinh tế: 97,5% số dự án trong ngành công nghiệp (tập trung ngành công nghiệp chế biến, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, gas, khí đốt), 1,2 tổng số dự án ở ngành dịch vụ và 0,83% số dự án ngành nông, lâm nghiệp. Khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ. Nhiều công nghệ mới đã được nhập vào tỉnh như: lắp ráp sản xuất ô tô, sản xuất tổng đài điện thoại kỹ thuật số, sản xuất cáp quang, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, với trình độ công nghệ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước. Nhờ tiếp cận với các công nghệ mới, thiết bị hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến đã dần dần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh. FDI đã làm tăng nhanh sản phẩm xuất khẩu, tiếp cận với thị trường quốc tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập. Tổng giá trị hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI hiện nay đã đạt 1.348 triệu USD. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn chiếm 60% doanh thu doanh nghiệp. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chuyển từ nông sản và bán thành phẩm sang các sản phẩm công nghiệp và tinh chế, nhiều ngành sản xuất nguyên nhiên liệu tại địa phương và hệ thống sản xuất, dịch vụ và công nghiệp phụ trợ ra đời vừa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa phát huy được những nguồn lực sẵn có của tỉnh, giải quyết việc làm cho người lao động trọng và ngoài tỉnh… Nhiều dự án FDI đã đầu tư vào lĩnh vực bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, năng lượng, làm đường cao tốc, đã góp phần cải thiện rõ rét hệ thống giao thông, bộ mặt đô thị, nâng cấp nhanh chóng cơ sở hạ tầng - kỹ thuật của tỉnh. Ngược lại, hạ tầng – kỹ thuật ngày càng tốt thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh, tăng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi tiếp tục thu hút FDI, góp phần đưa Bình Dương là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút ĐTNN. Nhìn chung, hoạt động FDI trong thời gian qua, đã có nhiều tác động tích cực tới quá trình tăng trưởng KT-XH của tỉnh Bình Dương. Sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài là nhân tố tích cực để tạo ra môi trường kinh doanh năng động cho Bình Dương. FDI đang thực sự trở thành một bộ phận quan trọng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, góp phần vào việc giải quyết những mục tiêu KT-XH của tỉnh. Tuy vậy, hoạt động FDI còn có một số tác động tiêu cực chính đối với KT-XH tỉnh Bình Dương như sau: Một là, FDI gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế. FDI chỉ tập trung vào công nghiệp ở lĩnh vực sản xuất nước giải khát, hoá mỹ phẩm, giày da, may mặc và các vùng thuận lợi có cơ sở hạ tầng tốt và gần TP. Hồ Chí Minh như Thị xã Thủ Dầu Một, huyện Thuận An, huyện Dĩ An... Hai là, tác động không tích cực đối với các doanh nghiệp trong nước. Với trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý và khả năng về vốn còn thấp nên các doanh nghiệp trong nước thường thua thua thiệt, phá sản trong cuộc cạnh tranh này với các doanh nghiệp nước ngoài (trong đó có FDI). Bên cạnh đó, trong các doanh nghiệp liên doanh, chúng ta cũng thường thua thiệt nếu các liên doanh này làm ăn kém hiệu quả, khi đó phải dùng vốn góp để khấu trừ vào phần thua lỗ. Ba là, tác động xấu đến môi trường. Vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, rác thải rắn, nhất là rác thải công nghiệp có xu thế gia tăng, do có tốc độ đô thị hoá và mật độ công nghiệp cao, đang trở thành vấn đề cấp bách cần giải quyết. Bốn là, FDI làm sự gia tăng dân số cơ học gây sức ép đến yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội, như nhu cầu nhà ở, điện, nước sinh hoạt và một loạt vấn đề xã hội cần giải quyết như đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, hệ thống dịch vụ công…. Năm là, các tranh chấp lao động giữa giới chủ và người lao động trong các FDI ngày càng tăng, và chậm được giải quyết. Vì thế thường dẫn đến đình công, bãi công trái pháp luật, gây mất trật tự, trị an, và làm ảnh hưởng đến sản xuất, thiệt hại cho người lao động và uy tín của doanh nghiệp. 1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Nam Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Quảng Nam chỉ thực sự bùng phát vào giai đoạn 2001 - 2005. Đây là giai đoạn có tính chất quyết định trong bối cảnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được định hình: Khu công nghiệp Dung Quất khởi động, thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai, Quảng Nam mở rộng quy mô đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang thành phố và Mỹ Sơn, Hội An trở thành Di sản văn hóa thế giới… Chỉ riêng giai đoạn 2001 - 2005, Quảng Nam đã thu hút đến 45 dự án với tổng vốn đầu tư 310 triệu USD, tạo việc làm cho 8.300 lao động, đóng góp vào ngân sách tỉnh bình quân 170 tỷ đồng/năm. Nhiều dự án lớn đã đi vào hoạt động, kinh doanh có lãi như Khu du lịch Victoria Việt Nam, khách sạn Riverpark, sản xuất các khuôn đúc và bột thạch anh Hoằng Tiệp, khai thác và chế biến đá xây dựng (Wei Xern Sin Industrial), may xuất khẩu (Triệu Vỹ), sản xuất giày (Rieker), sản xuất nước giải khát (Pepsico), Khu du lịch văn hóa làng quê (BNC)... FDI đã tác động tích cực đến tình hình phát triển KT-XH Quảng Nam. Trước hết, việc thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh Quảng Nam đã giải quyết được nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển KT- XH, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Vốn đầu tư của nước ngoài có mặt ở hầu hết tất cả các ngành, đặc biệt là những ngành mà Quảng Nam có lợi thế. FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu ngành. Chất lượng dự án vì vậy cũng được nâng lên về mặt công nghệ, môi trường và qui mô. FDI đã thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập, là một trong những kênh đưa các sản phẩm sản xuất từ Quảng Nam xâm nhập thị trường các nước một cách có lợi nhất. Thông qua thực hiện các dự án đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài trở thành cầu nối, là điều kiện tốt để Quảng Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng như trung tâm kinh tế, kỹ thuật công nghệ mạnh của thế giới. Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, từ 6 triệu USD/năm 2000 lên 74 triệu USD/năm 2005. Bên cạnh đó, nhiều dự án lớn đã đi vào hoạt động kinh doanh có lãi, tạo ra sự đa dạng về sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, tăng xuất khẩu, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, đáng nói là thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất trong các khu vực, bình quân khoảng 1,736 triệu đồng/người/tháng Có thể rút ra ba kinh nghiệm chủ yếu trong việc sử dụng có hiệu quả FDI tại Quảng Nam: Một là, tập trung thu hút FDI vào lĩnh vực có thế mạnh như du lịch và phát triển theo định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Hai là, FDI chưa có tác động mạnh đến vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Ba là, tiếp nhận dự án FDI thiếu chọn lọc, nên giảm tính tích cực của FDI; thực hiện chính sách “rải thảm đỏ'' cho FDI, ưu đãi quá thẩm quyền làm giảm nguồn thu ngân sách. Chương 2 TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐÀ NẴNG 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Thành phố Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng để trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương từ ngày 1-1-1997, với dân số gần 800 ngàn người, diện tích tự nhiên 1.247 km2, 8 quận huyện (có 2 huyện, trong đó 1 huyện đảo: Hoàng Sa). 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên Đà Nẵng nằm ở miền Nam Trung bộ, trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Thành phố là trung điểm của 3 di sản văn hoá thế giới nổi tiếng là cố đô Huế, Phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua Hành lang kinh tế Đông - Tây. Địa hình hình thành phố Đà Nẵng khá đa dạng, gồm đồi núi, trung du và đồng bằng ven biển; có bờ biển dài 30 km, vịnh nước sâu, vùng lãnh hải thềm lục địa độ sâu 200 m trải ra 125 km tạo thành vành đai nước nông rộng lớn thích hợp cho kinh tế biển. Bờ biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes của Mỹ xếp vào 1 trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh, với nhiều bãi tắm đẹp như Non Nước, Mỹ Khê, Nam Ô... . Núi Bà Nà ở tây bắc thành phố cao gần 1500m so với mặt biển, quanh năm không khí mát mẻ, có nhiệt độ trung bình 200C, được coi như một “tiểu Đà Lạt”, là địa điểm lý tưởng cho du lịch và nghỉ dưỡng. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp, đan xen giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam, với hai mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7; mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 12. Do địa hình dốc, sông suối ngắn, nên mùa mưa thành phố thường bị lũ lụt. Thành phố cũng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão (trung bình 8 cơn bão/năm). 2.1.2. Đặc điểm xã hội Đà Nẵng có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh so với các tỉnh miền Trung – Tây nguyên, với đủ 4 loại đường giao thông thông dụng (đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không). Từ đây, có các tuyến đường biển đi đến hầu hết các cảng lớn của Việt Nam và trên thế giới. Sân bay hàng không quốc tế Đà Nẵng có khả năng đón các loại máy bay hiện đại trên thế giới. Ngoài ra, hệ thống cấp nước, cấp điện và thông tin liên lạc của Đà Nẵng phát triển mạnh và ngày càng được hiện đại hóa, được đánh giá xếp thứ ba trong cả nước chỉ sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố có 5 khu công nghiệp (KCN) tương đối hoàn chỉnh. Là trung tâm giáo dục – đào tạo của miền Trung với 7 trường đại học, 13 trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp và một hệ thống trường dạy nghề, cơ sở đào tạo ngoại ngữ, tin học; Đà Nẵng đào tạo hàng chục nghìn lao động trẻ mỗi năm. Lực lượng lao động của thành phố được đánh giá có chất lượng hàng đầu của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. So với các tỉnh lân cận, Đà Nẵng có hệ thống tài chính, tín dụng phát triển hơn hẳn, với 24 chi nhánh, văn phòng của các ngân hàng và công ty cho thuê tài chính đang hoạt động. 2.2. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH FDI Ở ĐÀ NẴNG 2.2.1. Số lượng dự án và dòng vốn FDI vào thành phố Đà Nẵng từ 1997-2006 có xu hướng ngày càng tăng Đến đầu tháng 11-2006, có 89 dự án FDI còn hiệu lực tại Đà Nẵng (vốn đầu tư hơn 1,07 tỷ USD), trong đó 52 dự án đi vào hoạt động, 37 dự án đang triển khai xây dựng nhà xưởng. Đô thị 2.1: Số lượng dự án FDI từ năm 1997-2006 6 4 2 3 6 8 12 9 18 16 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 20 03 20 04 20 05 20 06 Năm S ố dự á n (Nguồn Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 1, trang v) Đồ thị 2.1 cho thấy tình hình thu hút FDI vào thành phố Đà Nẵng phân làm hai giai đoạn: giai đoạn giảm sút (từ năm 1997-2000 ) và giai đoạn tăng trưởng (2001 đến nay). Năm 1997, khi thành phố Đà nẵng trở thành đơn vị hành chính độc lập trực thuộc Trung ương cũng là thời điểm mà thu hút FDI vào Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng đang có xu hướng giảm. Nếu năm 1997 thành phố thu hút 06 dự án mới thì đến năm 2000 còn 03 dự án và tương ứng với tổng vốn đầu tư cũng giảm từ 477,50 triệu USD xuống 371,15 triệu USD (một số dự án bị rút giấy phép trước thời hạn). Nguyên nhân, một phần ảnh hưởng khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Châu Á. Mặt khác, kinh tế các nước ASEAN có nhiều vấn đề sau thời gian tăng tốc và phát triển “nóng”. Giai đoạn này, các nhà đầu tư phải điều chỉnh kế hoạch hoạt động: sợ rủi ro; nguồn vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng gặp khó khăn; e ngại thị trường bị thu hẹp, sức mua giảm… Ngoài ra, chính sách pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này còn thiếu sự ổn định, đôi khi còn chồng chéo, nhất là quy định của các bộ ngành và địa phương. Hơn nữa, trong giai đoạn này xét về cơ sở vật chất và hạ tầng phục vụ cho các dự án đầu tư nước ngoài vào thành phố là còn hạn chế so với các thành phố khác như: Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh…ít nhiều đã ảnh hưởng đến thu hút và hoạt động của FDI. Đến năm 2001, FDI có dấu hiệu khôi phục dần và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn năm 2001-2006 (tính đến 30-9-2006) trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có thêm 72 dự án FDI được cấp giấy phép mới với tổng vốn đầu tư là 443,5 triệu USD. Nếu như giai đoạn năm 1997-2000, thành phố thu hút FDI trung bình 3,5 dự án mới/năm, thì trong thời kỳ 2001-2006 bình quân mỗi năm thu hút gần 11 dự án, gấp hơn ba lần so với giai đoạn trước. Tốc độ tăng trung bình là 39,59%/ năm, cao hơn tốc độ tăng chung của cả nước (33,7%/ năm). Kết quả này đã khẳng định tính tích cực trong chỉ đạo, đổi mới cơ chế và vận dụng một cách linh hoạt để đẩy mạnh thu hút FDI. Thành phố đã lập dự án gọi vốn, lên danh mục dự án gửi đến các doanh nghiệp, các tập đoàn lớn của nước ngoài, tiến hành kết nghĩa với các thành phố lớn của Liên Bang Nga, Nhật, Mỹ, Australia (xem phụ lục 12, trang XVI)… và mở văn phòng đại diện tại Nhật tạo thuận lợi cho công tác thu hút FDI. 2.2.2. Cơ cấu FDI ở thành phố Đà Nẵng Xét theo cơ cấu vốn FDI ở thành phố Đà Nẵng theo thứ tự tỷ trọng vốn góp từ cao đến thấp là: 100 % vốn – liên doanh - hợp đồng hợp tác kinh doanh. Thời kỳ đầu đa số doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp nhà nước. Song, số lượng doanh nghiệp liên doanh theo loại hình này giảm theo thời gian. Ngược lại doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thì có xu hướng tăng lên. Các chủ đầu tư nước ngoài chủ yếu chọn đầu tư bằng hình thức 100% vốn. Năm 1997 có: 34% doanh nghiệp 100%, 43% doanh nghiệp liên doanh, 2% là doanh nghiệp hợp đồng hợp tác kinh doanh; đến năm 2001 tỷ lệ là 55%-43%-2%, năm 2006 là: 61%-33%-6%. Đồ thị 2.2: Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư (Nguồn Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 4, trang viii). Xét theo cơ cấu ngành nghề đầu tư, thì FDI có cơ cấu từ cao đến thấp ở 3 nhóm ngành nghề như sau: công nghiệp – xây dựng, dịch vụ - du lịch và thuỷ sản - nông lâm. Cơ cấu này ngày càng phù hợp với quy hoạch phát triển KT- XH thành phố Đà Nẵng. Nếu năm 1997, 51% dự án thuộc ngành công nghiệp – xây dựng, 22% dự án ngành dịch vụ - du lịch, 27% dự án ngành thuỷ sản - nông lâm; thì năm 2002 có tỷ lệ tương ứng là: 64% - 18% - 18% và năm 2006: 57% - 32 - 11%. Như vậy, tỷ trọng ngành ngành công nghiệp - xây dựng, ngành dịch vụ - du lịch ngày càng tăng, ngành thuỷ sản - nông lâm giảm dần1. Sự chuyển dịch này phù hợp với định hướng cơ cấu kinh tế ngành của thành phố. Xét về cơ cấu không gian đầu tư ( trong và ngoài khu công nghiệp): Các dự án đầu tư vào KCN không ngừng tăng lên qua các năm, tốc độ tăng bình quân số dự án đầu tư vào KCN là 9,78%/năm. Nếu các năm trước đây, thành phố mới có 2 KCN: Hòa Khánh, Liên Chiểu nhưng cũng rất ít các doanh nghiệp đầu tư trong KCN. Từ năm 2001 tới nay, thành phố đã dùng vốn ngân sách và các nguồn vốn vay ưu đãi khác đầu tư cho xây dựng 3 KCN: Đà Nẵng, Hòa Cầm và Thủy sản Thọ Quang), nâng cấp cơ sở hạ tầng các KCN. Vì vậy, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng nhà máy trong KCN. Đến nay trừ KCN Thuỷ sản Thọ Quang, KCN Hoà Cầm, thì các KCN không đáp ứng đủ nhu cầu thuê đất cả các nhà đầu tư, hiện nay thành phố đang phải mở rộng thêm KCN Hòa Khánh. Đồ thị 2.3: Tỷ lệ doanh nghiệp FDI trong và ngoài khu công nghiệp (Nguồn Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 4, trang viii) (1) Xem đồ thị 2.9 trang 51 Xét theo cơ cấu đầu tư theo quốc tịch chủ đầu tư: FDI tại thành phố đa số thuộc các nước Châu Á như Trung Quốc, Đài Loan; gần đây đã có dự án đầu tư lớn từ các các doanh nghiệp Hàn Quốc (Deawon: 200 triệu USD), một số nhà đầu tư khu vực Châu Âu (Metro-Đức 15 triệu USD, Vinacapital - Liên hiệp Anh: 200 triệu USD). Đặc biệt trong năm 2006, thành phố Đà Nẵng đã thu hút được nhiều dự án FDI từ Nhật Bản. Bảng 2.1: FDI theo quốc gia và vùng lãnh thổ STT Quốc gia, vùng lãnh thổ Số dự án Tổng vốn đầu tư (USD) 01 Trung Quốc (kể cả Hong Kong) 10 87.490.000 02 Nhật Bản 11 83.131.713 03 Taiwan 15 59.899.400 04 Hoa Kỳ 05 59.293.000 05 Hàn Quốc 08 56.808.450 06 Sigapore 03 56.000.000 07 Australia 03 52.025.000 08 Malaysia 07 44.842.010 09 Đức 01 15.000.000 10 Bahamas 02 13.500.000 11 Pháp 03 4.061.583 (Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư Đà Nẵng. Số liệu đến cuối năm 2005 và chỉ tính quốc gia có 3 dự án hoặc có số vốn trên 10 triệu USD trở lên). Nhìn chung, các đối tác đầu tư vào Đà Nẵng đa dạng theo hướng đa phương hóa các quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn tập trung vào các đối tác có tiềm lực tài chính, kỹ thuật, công nghệ cao, có uy tín và kinh nghiệm trong việc đầu tư vào Việt Nam (Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản…). Đa số dự án của những quốc gia này là thuộc các tập đoàn lớn, thương hiệu mạnh không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới.… 2.2.3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Theo số liệu tại bảng 2.2 kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI giai đoạn từ năm 2001-2005 cho thấy: các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố đều hoạt động có hiệu quả trên ba phương diện: đóng góp thuế, kim ngạch xuất khẩu và giải quyết việc làm. Bảng 2.2: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI 2001 2002 2003 2004 2005 KNXK 54.760.451 66.351.274 82.156.544 85.250.00 0 105.000.00 0 Thuế 10.361.866 10.715.080 10.866.465 11.000.00 0 11.500.000 Lao động 12.735 15.588 19.467 20.500 23.500 (Nguồn: Sở Kế hoạch - đầu tư Đà Nẵng, xem phụ lục 3, trang vii) Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều tăng, trong 5 năm kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 393.518.269 USD, chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thành phố. Kim ngạch xuất khẩu trung bình mỗi năm của một dự án là 1.297.216 USD (giai đoạn 1997-2000 là 1,479 triệu USD). Các doanh nghiệp FDI đã thu hút 24.000 lao động (lũy kế) và hàng ngàn lao động gián tiếp ở các ngành sản xuất phụ trợ, phục vụ cho các doanh nghiệp FDI, lao động thời vụ trong quá trình triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho các dự án đi vào hoạt động. Hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong 5 năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng chung của thành phố, giá trị sản xuất công nghiệp trong các doanh nghiệp FDI đạt trung bình mỗi năm 1.100 tỷ đồng, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng cao ngành công nghiệp thành phố. Dự án FDI góp phần đổi mới công nghệ, phát triển các ngành công nghệ chế biến, nhất là công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng, có hàm lượng công nghệ cao, tạo ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Nguồn đóng góp vào ngân sách từ các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng, giai đoạn 2001- 2005 thu ngân sách đạt 54.443.411 triệu USD (kể cả xuất nhập khẩu), trung bình mỗi năm thu 18.886.682 USD (tăng gần 30% so với giai đoạn 1997-2000). Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trong những năm qua đã không ngừng phát triển, giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp chiếm từ 20-25% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn thành phố. So với toàn thành phố thì khu vực FDI có kim ngạch xuất khẩu hàng năm chiếm bình quân 25%, nộp ngân sách chiếm tỷ lệ từ 10 – 12%, giải quyết lao động trên 19%. 2.3. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.3.1. Những tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng FDI có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của thành phố, huy động nguồn lực sản xuất, đóng góp vào GDP, tăng thu nhập của người lao động... 2.3.1.1. FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng để phát triển KT-XH trong thời kỳ CNH, HĐH. Để đạt tốc độ tăng trưởng bình quân GDP là 13%/năm giai đoạn 2000-2005 và phấn đấu hoàn thành mục tiêu “tăng trưởng GDP 14%-15%/năm giai đoạn 2006-2010” [2, tr.55] đòi hỏi có nguồn vốn rất lớn. Theo quy hoạch phát triển KT-XH thành phố Đà nẵng (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt) ước phải huy động vốn đầu tư thời kỳ 2001-2010 khoảng 95.762 tỷ đồng. Từ sau khi chia tách tỉnh, trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương, dòng vốn FDI vào Đà Nẵng đã góp một phần không nhỏ để đẩy nhanh sự phát triển tăng tốc của thành phố. Từ sau năm 2001, vốn FDI được thu hút vào thành phố tăng đều đặn, năm 2001: 231 triệu USD, 2002: 264,4 triệu USD, 2003: 339 triệu USD, 2005 506,5 USD; cho đến nay, vốn đầu tư luỹ kế lên tới 1,07 tỷ USD. Đồ thị 2.4: Dòng vốn FDI vào thành phố Đà Nẵng (từ 1997-2006) Đơn vị tính: triệu USD 478 464 392 371 231 264 339 397 506 1070 0.0 200.0 400.0 600.0 800.0 1000.0 1200.0 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 năm tri ệu U S D Vốn đầu tư mới Tổng vốn đầu tư lũy kế Vốn pháp định lũy kế Vốn thực hiện lũy kế (Nguồn Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 1, trang v). Tuy tỷ lệ FDI trong cơ cấu vốn phát triển trên địa bàn thành phố chưa cao (tỷ lệ FDI so với tổng vốn phát triển từ năm 2001-2005, qua từng năm như sau: 9,72% - 8,07%- 9% - 8,89% -11,65%) [6, tr.91], song nó đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong cơ cấu vốn đầu tư của thành phố. Đối với vốn nước ngoài đầu tư phát triển thành phố, thì vốn FDI là chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn, số còn lại là vốn ODA, NGO và vốn vay từ các nhân hàng ADB, WB. Đồ thị 2.5: Dòng vốn FDI so với vốn ODA vào thành phố Đà Nẵng Đơn vị tính: tỷ đồng 422 454 207 126 285 303 471 573 858 364 399 146 111 172 153 208 307 589 0 100 200 300 400 500 600 700 800 900 1000 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005Năm (tỷ V N Đ ) Ngoài nước Vốn FDI (Nguồn: Cục Thống kê Đà Nẵng, xem phụ lục 5, trang ix) Cùng với nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển FDI đã góp phần tích cực trong tăng trưởng kinh tế của thành phố với “nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) 1997-2000 bình quân hàng năm tăng 10,19% (bằng 1,47 lần so với mức bình quân chung cả nước)”[1, tr.12], “trong 5 năm (2001- 2005) bình quân tăng 13%/năm”[2, tr.17]. Bảng 2.3: Tỷ trọng của FDI trong GDP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Năm 1997 1999 2001 2003 2005 GDP trên địa bàn 100% 100% 100% 100% 100% KTCVĐTNNNN 5,71% 8,05% 8,20 % 7,43% 7,03 % (Nguồn: Chi cục Thống kê thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 8, trang xii) Khu vực KTCVĐTNN (chủ yếu là FDI) có mức đóng góp khá quan trọng cho tổng giá trị GDP toàn thành phố. Tỉ trọng KTCVĐTNN đóng góp GDP từ năm 1997 đến nay luôn từ 6%-8% (bảng 2.3 và phụ lục 7, 8 trang xi, xii). Các doanh nghiệp FDI đã có những đóng góp vào ngân sách thành phố ngày càng tăng; nếu năm 1997, các doanh nghiệp FDI nộp ngân sách 4 triệu USD thì từ năm 2000 đến nay luôn ở mức trên 10 triệu USD mỗi năm, đến năm 2005 đã lên 15 triệu USD gần 4 lần so với 1997. Đồ thị 2.6: Nộp ngân sách của doanh nghiệp FDI Đơn vị tính: Dự án 4 10 9 10 10 11 11 11 15 11 0 2 4 6 8 10 12 14 16 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 20 03 20 04 20 05 20 06 Năm Tr iệ u U S D (Nguồn: Sở KH - ĐT, năm 2006 tính đến ngày 30-9, xem phụ lục 3 trang vii). Mức FDI đóng góp cho GDP trên địa bàn thành phố đều tăng, năm sau đều tăng so với năm trước (năm 1999 cao nhất: 40.5%, năm 2002: thấp nhất: 3.9%) và trung bình 21,43%/năm (bảng 2.4). Bảng 2.4: Đóng góp của FDI vào GDP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Năm GDP (triệu đồng) ĐTNN (triệu đồng) Tăng so năm trước (%) 1998 3.725.443 244.789 33.67 1999 4.273.542 344.030 40.54 2000 4.946.936 393.850 14.48 2001 5.701.553 467.534 18.71 2002 6.652.260 485.698 3.89 2003 7.774.633 577.910 18.99 2004 9.565.055 646.624 11.89 2005 11.889.019 835.914 29.27 (Nguồn: Cục Thống kê Đà Nẵng, xem phụ lục 7,trang xi) Khu vực KTCVĐTNN có tác động tích cực vào tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy mức đóng góp của khu vực FDI vào tốc độ tăng trưởng chung của kinh tế thành phố chưa cao và thiếu ổn định. 2.3.1.2. FDI góp phần vào quá trình phát triển công nghệ, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá a. FDI góp phần vào quá trình phát triển công nghệ Công nghệ có một vai trò hết sức quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hoạt động FDI có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động. Thực tế cho thấy, FDI là kênh chuyển giao công nghệ có hiệu quả nhất, nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất. Nhiều dự án FDI sau khi được triển khai, công nghệ đã được các công ty nước ngoài chuyển giao trực tiếp phần cứng (máy móc, thiết bị) và phần mềm (quy trình hoạt động của công nghệ) từ nước ngoài vào cơ sở sản xuất tại thành phố. Nhờ việc chuyển giao công nghệ, đầu tư hệ thống thiết bị và tiến hành tổ chức sản xuất mà trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp FDI có trình độ tương đối vượt trội hơn so với các doanh nghiệp ở các khu vực khác. Trong 2 năm 2005-2006, Trung tâm kỹ thuật 3 - Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã tiến hành điều tra, đánh giá thực trạng công nghệ của 15 ngành kinh tế - kỹ thuật trên địa bàn Đà Nẵng theo phương pháp Atlas công nghệ*. Kết quả khảo sát, đánh giá cho thấy hầu hết trong các ngành kinh tế - kỹ thuật, thì các chỉ tiêu được đánh giá ở các doanh nghiệp FDI đều cao hơn chỉ số chung trên địa bàn thành phố. Xin đơn cử 3 ngành kinh tế - kỹ thuật:  Ngành cơ khí chế tạo, các chỉ số trong thành phần cấu thành trình độ công nghệ (T: phương tiện, thiết bị; H: nhân lực; I: thông tin, O: tổ chức) của các doanh nghiệp FDI là: T=0,77; H=0,7; I=0,69; O=6,9. Thì toàn ngành cơ khí chế tạo thành phố là: T=0,68; H=0,59; I=0,66; O=6,4. Đồ thị 2.7: Trình độ các thành phần công nghệ ngành cơ khí chế tạo 0.68 0.59 0.66 0.64 0.77 0.7 0.69 0.69 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 T H I O Ngành cơ khí chế tạo Doanh nghiệp FDI trong ngành (Nguồn: Trung tâm kỹ thuật 3, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, xem phụ lục 10 trang xiv)  Ở ngành bia rượu, nước giải khát trong doanh nghiệp FDI có các chỉ số sau: T=0,65; H=0,66; I=0,98; O=0,86, trong khi đó đánh giá của cả ngành: T=0,68; H=0,60; I=0,68; O=0,76. * Đặc trưng của phương pháp: lấy toán học làm công cụ trong quá trình đánh giá, trên cơ sở các nhóm chỉ tiêu, theo phương pháp định lượng bởi chuyên gia, qua đó xác định giá trị các thành phần đóng góp công nghệ. Trình tự đánh giá từ thấp đến cao (từ từng doanh nghiệp, ngành, giai đoạn đến quốc gia/vùng lãnh thổ). Mức đánh giá từ 0 (thấp nhất) đến 1 (cao nhất). 4 thành phần đánh giá chính để tổng hợp đánh giá thành phần công nghệ: Phương tiện, thiết bị (technoware, ký hiệu là T); Nhân lực (humanware, ký hiệu là H); Thông tin (inforware, ký hiệu là I); Tổ chức (orgaoware, ký hiệu là O). Đồ thị 2.8: Trình độ các thành phần công nghệ ngành bia rượu, nước giải khát 0.68 0.6 0.68 0.76 0.65 0.66 0.98 0.85 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1 T H I O Ngành bia rượu, giải khát Doanh nghiệp FDI trong ngành (Nguồn: Trung tâm kỹ thuật 3, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, xem phụ lục 10 tr. xiv)  Ở ngành chế biến lâm sản, trong doanh nghiệp FDI có các chỉ số sau: T=0,68; H=0,78; I=0,60; O=0,60, trong khi đó đánh giá của cả ngành: T=0,64; H=0,50; I=0,58; O=0,60. Đồ thị 2.9: Trình độ các thành phần công nghệ ngành chế biến lâm sản 0.64 0.5 0.58 0.6 0.68 0.78 0.6 0.6 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 T H I O Ngành Chế biến lâm sản Doanh nghiệp FDI trong ngành (Nguồn: Trung tâm kỹ thuật 3, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, xem phụ lục 10, trang xiv) Trong 4 chỉ tiêu chính để đánh giá thì phương tiện, thiết bị (T) là quan trọng nhất, nó là hình thức biểu hiện về mặt vật thể của công nghệ như thiết bị, phương tiện, dụng cụ, xưởng máy... Nhìn chung, các doanh nghiệp FDI có chỉ số T tương đối cao hơn so với doanh nghiệp trong nước và chỉ số chung của mỗi ngành kinh tế-kỹ thuật. Cũng chính vì yếu tố này mà năng suất lao động ở các doanh nghiệp FDI Đà Nẵng có năng xuất cao hơn so với các khu vực kinh tế khác. Điều này tương đồng với tình hình chung của cả nước: “cho dù áp dụng kỹ thuật đánh giá thế nào, mức tăng năng suất trong khu vực FDI cũng cao hơn đáng kể” [21, tr.24]. Ngoài ra, hoạt động FDI tại thành phố đã tạo ra hiệu ứng tích cực đối với các doanh nghiệp khác thông qua cạnh tranh, thúc đẩy việc cải thiện và nâng cao công nghệ của doanh nghiệp trong nước, góp phần vào việc sản xuất có hiệu quả. Trước sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước buộc phải đặt mua công nghệ hoặc yêu cầu chuyển giao công nghệ. Nhờ vậy, ở một số ngành, các doanh nghiệp trong nước dần dần được trang bị các phương tiện, thiết bị tương đối hiện đại, thậm chí có trình độ công nghệ cao hơn hẳn doanh nghiệp FDI. Chẳng hạn, trong ngành giấy bao bì, các doanh nghiệp trong nước có chỉ số trình độ về phương tiện, thiết bị (T) cao hơn nhiều so với doanh nghiệp FDI: 0,65/0.54; ngành bia, giải khát cũng có tình hình tương tự, với chỉ số T của toàn ngành/doanh nghiệp FDI là: 0,68/0,65; còn ngành dệt, may mặc là 0,74/0,73. Tuy nhiên, do tiềm lực về tài chính có hạn, nên số doanh nghiệp trong nước có trình độ vượt trội về công nghệ so với doanh nghiệp FDI chưa nhiều. Hơn nữa, việc phối hợp các yếu tố cấu thành làm nên trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trong nước không tốt; vì thế, dù trang bị các thiết bị, phương tiện hiện đại hơn, nhưng năng suất, hiệu quả kinh tế kém hơn so với doanh nghiệp FDI. b) FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế, là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế, mà cơ bản là: cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần, cơ cấu vùng; trong đó cơ cấu ngành kinh tế đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định hình thức của cơ cấu kinh tế khác. Đối với các nước đang phát triển thay đổi cơ cấu ngành theo hướng CNH, HĐH thường theo chiều hướng chuyển từ ngành sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và sau cùng là sang ngành sản xuất dịch vụ. Quy hoạch phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng từ 2001-2010 có cơ cấu kinh tế: Công nghiệp-xây dựng Dịch vụ-du lịch Thuỷ sản-nông lâm. Ngay từ khi mới được tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, thành phố đã định hướng thu hút đầu tư FDI theo hướng cơ cấu kinh tế trên, trong đó khuyến khích đầu từ vào ngành công nghiệp - xây dựng. Tỷ lệ dự án FDI ngành này luôn cao hơn hẳn so với ngành dịch vụ - du lịch và thuỷ sản -nông lâm. Gần 10 năm qua, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư FDI cũng phù hợp với định hướng phát triển KT-XH của thành phố. Tỷ lệ dự án và số vốn đầu tư (%) các nhóm ngành các năm 1997, 2002, 2006 như sau: 1997: công nghiệp - xây dựng 51%, thuỷ sản – nông lâm 27%, du lịch - dịch vụ 22%. 2002: công nghiệp-xây dựng 64%, du lịch-dịch vụ 18%; thuỷ sản- nông lâm 18%. 2006: công nghiệp-xây dựng 57%; du lịch-dịch vụ 32 %; thuỷ sản- nông lâm 11%. Sự thay đổi cơ cấu FDI như trên, FDI đã tác động mạnh đến cơ cấu kinh tế của thành phố Đà Nẵng. Nhờ đó cơ cấu kinh tế đã có chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH và đạt được mục tiêu của thành phố đặt ra: đến năm 2005 tỷ trọng các ngành trong GDP là: “công nghiệp 48,2%, dịch vụ 46,1% và nông nghiệp 5,7%” [2, tr.18]. Đặc biệt, trong giai đọan 2001-2005, “giá trị sản xuất công nghiệp tăng 20,1%/năm, dịch vụ tăng 7,9% và ngành thủy sản – nông lâm tăng 5,9%/năm” [2, tr.18]. Đồ thị 2.10: Cơ cấu ngành của FDI (theo số lượng dự án) (Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 4, trang viii) 2.3.1.3 FDI góp phần nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động  FDI góp phần nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực FDI tác động trực tiếp đến số lượng và chất lượng lao động, góp phần nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua các hình thức trực tiếp đào tạo lao động và gián tiếp nâng cao trình độ lao động. Để triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp FDI phải tuyển dụng lao động địa phương. Để người lao động đáp ứng được các yêu cầu của môi trường làm việc hiện đại, các doanh nghiệp FDI đã tiến hành tuyển chọn kỹ, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ khá chặt chẽ, nhất là các ngành nghề như điện tử, sản xuất ô tô - xe máy, sản xuất polime, du lịch quốc tế… Quá trình đầu tư, kinh doanh tại thành phố, nhằm giúp lao động địa phương có thể sử dụng thành thạo những công nghệ tiên tiến đã được chuyển giao thì hầu hết các doanh nghiệp FDI đều có kế hoạch đào tạo lao động dưới những phương thức và cấp độ khác nhau và rất đa dạng: đào tạo trực tiếp người lao động thông qua các khóa học do các chuyên gia của công ty tiến hành hoặc kết hợp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước (đào tạo cơ bản, đào tạo nghề) để tiến hành đào tạo; ở nhiều doanh nghiệp còn cử lao động cấp trưởng phòng trở lên ra nước ngoài để đào tạo, bồi dưỡng. Chẳng hạn các doanh nghiệp FDI lĩnh vực cơ khí chính xác, điện tử, bảo hiểm 100% nhân viên qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng từ 1-3 tháng; 15 - 35, 2% lao động quản lý được bồi dưỡng tại nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI luôn đặt người lao động trong sự nỗ lực không ngừng để hoàn thiện mình bằng những yêu cầu khắt khe đối với công việc, cùng với những hứa hẹn về khả năng thăng tiến nhanh trong nghề nghiệp. Do vậy, trong các doanh nghiệp FDI trình độ học vấn và trình độ nghiệp vụ của người lao động là tương đối cao. Không chỉ tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ những người lao động đang làm việc trong công ty mình, các doanh nghiệp FDI còn tác động tích cực đến những người lao động đang chờ việc cũng như công tác đào tạo lao động. Những mời gọi hấp dẫn của các doanh nghiệp FDI đã kích thích những người lao động đang tìm việc tự nâng cao tri thức và trình độ chuyên môn để đáp ứng những đòi hỏi của yêu cầu tuyển dụng. Trước những yêu cầu đó của thực tiễn, các cơ sở đào tạo hiện nay cũng đã nhanh chóng cải tiến để nâng cao chất lượng đào tạo. Điều này đã tác động tích cực đến thị trường lao động chung của cả thành phố. FDI còn có tác động lan tỏa đến việc nâng cao nguồn nhân lực của thành phố. Trình độ lao động là một trong những yếu tố quyết định sức mạnh cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khu vực FDI và các khu vực khác. Trước sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước cũng phải tăng cường nâng cao chất lượng lao động của mình. Theo kết quả điều tra đã nêu, thì trình độ nguồn nhân lực của 15 ngành kinh tế - kỹ thuật thành phố đều được đánh giá ở mức 0,58 – 0,72, tương đương trình độ trung bình khá theo trình độ công nghệ hiện nay. Tuy nhiên, cũng có thể thấy chính sách sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp FDI nói riêng và ĐTNN nói chung còn mang tính khá thực dụng. Với những vị trí quan trọng, doanh nghiệp thường sử dụng và đào tạo trình độ, kỹ năng lao động, quản lý cao; ít quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lao động ở những ngành, những công việc giản đơn. Vì vậy, mà ở một số ngành sử dụng nhiều lao động thì trình độ H của doanh nghiệp FDI thấp hơn với mức chung trong ngành của thành phố. Chẳng han như: dệt-may 0,57/0,6; vật liệu xây dựng 0,36/0,57; lắp ráp điện, điện tử: 0,51/0,60.  FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động Việc làm là một trong những vấn đề cấp thiết đối với các đô thị trong quá trình CNH, HĐH. Đà Nẵng với dân số là 764.549 người*(năm 2004). Trong đó: nguồn lao động là 452 ngàn người, chiếm khoảng 59% dân số; lực lượng lao động là 371 ngàn người, chiếm gần 49% dân số. Do vậy, vấn đề giải quyết việc làm có ý nghĩa rất quan trọng. “FDI đã tạo ra một lượng cầu lao động đáng kể, góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp của thành phố ở mức 5,0%. Tỷ lệ này được đánh giá là ổn định và hợp lý với một đô thị đang phát triển và có tốc độ đô thị hoá cao” [30, tr.2]. Bảng 2.5: Tỷ lệ thất nghiệp giai đoạn 2001-2004 Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 Tỷ lệ thất nghiệp 5,64% 5,26% 5,17% 5,16% Tỷ lệ sử dụng thời gian LĐ nông thôn 79,61% 81,13% 81,24% 82% Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng. Hoạt động FDI đã góp phần tạo việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp được thể hiện ở cả hai mặt: + Trực tiếp tạo việc làm bằng cách tuyển dụng lao động địa phương trong các doanh nghiệp có vốn FDI. Luồng lao động được tuyển dụng vào làm việc tại các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng; từ 8.700 người năm 1997, tăng lên 15.600 người năm 2002 và 24.700 người năm 2006. + FDI gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI và khi các doanh nghiệp vệ tinh này được hình thành và phát triển sẽ tạo việc làm trong phạm vi toàn xã hội. Chưa có thống kê chính xác số lượng lao động đối với khu vực này, tuy nhiên có thể dự đoán số lao động này không dưới 1/10 số lao động trực tiếp trong doanh nghiệp FDI. * Số dân này mới tính người đăng ký nhân khẩu thường trú. Trong khi đó cư dân ở thành phố thực tế ước trên 1,3 triệu người (số chênh lệnh này là người lao động các tỉnh lân cận làm việc tại Đà Nẵng, học sinh sinh viên 6 trường Đại học và 13 trường cao đăng, trung học; lực lượng vũ trang Quân khu 5 và Vùng 3 Hải Quân). Đồ thị 2.11: Số lượng lao động trong các doanh nghiệp FDI (Đơn vị tính: nghìn người) 8.7 10.3 9.9 12.5 12.7 15.6 19.5 20.5 23.5 24.7 0.0 5.0 10.0 15.0 20.0 25.0 30.0 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Năm (Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 3 trang vii) Tạo việc làm, đồng nghĩa với nâng cao thu nhập cho người lao động. ở nước ta nói chung và ở Đà Nẵng nói riêng, hầu hết người lao động làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (mà chủ yếu là doanh nghiệp FDI) được trả lương cao hơn so với doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, trên cả nước, “nếu so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thu nhập bình quân một tháng của một lao động là cao nhất: 1,774 triệu VNĐ, doanh nghiệp nhà nước 1,495 triệu VNĐ, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1,046 triệu VNĐ” [16, tr.186]. Theo Cục Thuế thành phố Đà Nẵng, thông qua báo cáo quyết toán thuế hàng năm ở các doanh nghiệp FDI thì: mức thu nhập bình quân của một lao động một tháng đang làm việc trong doanh nghiệp FDI ở thành phố Đà Nẵng là 3 triệu đồng/tháng*. Mức thu nhập đó thường có sự chênh lệnh rất lớn giữa các vị trí làm việc và trình độ đào tạo: vị trí lao động cấp cao có mức lương 20-40 triệu đồng; sinh viên đại học, cao đẳng mới ra trường: 2-2,6 triệu đồng/tháng, công nhân (bậc 3/7) 1,9 triệu đồng/tháng; lao động giản đơn 960 nghìn đồng/tháng. Mức tăng lương của các doanh nghiệp FDI trong những năm qua luôn ở mức 12%, trong đó lương của lao động người Việt Nam tăng * *Không tính các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. khoảng 14%, người nước ngoài 10%. Nguyên nhân lao động trong các doanh nghiệp FDI thường được trả lương cao hơn các doanh nghiệp trong nước là do: năng xuất lao động của các doanh nghiệp FDI thường cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước; lao động được tuyển dụng là lao động có trình độ cao và có tính kỷ luật cao; những công ty FDI thường là những doanh nghiệp có uy tín và quy mô lớn. Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI mà chủ đầu tư là các nước EU, Nhật, Mỹ thì điều kiện lao động và chăm sóc về mặt sức khỏe, y tế đối với người lao động tốt hơn so với các doanh nghiệp địa phương. 2.3.1.4. FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và góp phần bảo vệ môi trường  FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Hoạt động FDI góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của thành phố thông qua xây dựng năng lực xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu theo hai hướng chính sau: - Tham gia vào sản xuất sản phẩm xuất khẩu với trình độ công nghệ thấp. Đây là quá trình sản xuất sản phẩm xuất khẩu ở những ngành sử dụng nhiều lao động như: giày da, may mặc…. Ngoài ra, doanh nghiệp FDI liên kết với nhiều doanh nghiệp trong nước để nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Mỗi năm các doanh nghiệp FDI xuất khẩu: 80 triệu sản phẩm đồ chơi trẻ em; 20 triệu bộ áo quần, hàng dệt kim; 1 triệu tấn dăm gỗ; 12 triệu lít bia; 11.000 bộ chi tiết gắn máy cơ khí và điện tử; 110.000 tấn sản phẩm nhựa; 16.000 tấn đèn cầy; 2 triệu sản phẩm đồ lót phụ nữ; 21 triệu đôi sản phẩm bảo hộ lao động … - Tham gia vào sản xuất sản phẩm xuất khẩu với trình độ công nghệ trung bình và cao. Hiện nay các doanh ngiệp FDI của thành phố đã xuất khẩu nhiều mặt hàng công nghệ cao ra các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản: chi tiết gắn máy, linh kiện điện tử, phần mềm tin học, các sản phẩm polyme kỹ thuật cao, dụng cụ y tế… Bảng 2.6: Kim ngạch xuất nhập khẩu thành phố Đà Nẵng (Đơn vị tính: 1000 USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu – Nhập khẩu Tổng số FDI Tổng số FDI Thành phố FDI 1998 169.140 61.267 199.943 23.174 -30.803 +38.093 1999 186.466 55.600 244.621 23.615 -58.155 +31.985 2001 266.520 76.335 375.142 27.413 -108.622 +48.922 2002 249.030 78.401 384.009 25.178 -134.979 +53.223 2004 310.431 80.539 330.872 42.364 -20.441 +38.175 2005 346.009 93.300 330.948 55.164 +15061 +38136 (Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng, xem phụ lục 6, trang x) Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN (chủ yếu là FDI) có chiều hướng ngày càng tăng: từ 61 triệu USD năm 1998, lên 76 triệu USD năm 2001, đến năm 2005 đã ở mức 93 triệu USD. Nếu như kim ngạch xuất khẩu thành phố đều thấp kim ngạch nhập khẩu, thì đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tình trạng ngược lại. Cán cân kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu (xuất khẩu - nhập khẩu) luôn dương, với mức cao nhất là 53, 2 triệu USD năm 2002, thấp nhất là 31,9 triệu USD năm 1999. Chính nhờ sự đóng góp của doanh nghiệp FDI mà năm 2005, lần đầu tiên thành phố không thâm hụt cán cân thanh toán (xuất nhập khẩu), với mức (+)15 triệu USD.  FDI góp phần bảo vệ môi trường. Nhà đầu tư nước ngoài thường sở hữu công nghệ sạch, tiên tiến và có hệ thống quản lý môi trường tốt hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Gần đây, khi cho phép các doanh nghiệp FDI đầu tư vào thành phố, Đà Nẵng yêu cầu rất chặt chẽ vấn đề xử lý môi trường, tiêu chuẩn môi trường trong sản xuất. Điều này đã góp phần bảo vệ môi trường và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Như kết quả điều tra đánh giá trình độ công nghệ ở 15 ngành kinh tế - kỹ thuật của thành phố cho thấy trình độ cả 4 yếu tố chính công nghệ (phương tiện, thiết bị, nhân lực, thông tin, tổ chức) ở các doanh nghiệp FDI đều cao hơn doanh nghiệp trong nước; tương ứng với chỉ số đó thì mức độ bảo vệ môi trường trong doanh nghiệp FDI cũng tốt hơn. Đến nay, chưa có doanh nghiệp FDI vi phạm quy định về bảo vệ môi trường. Tình trạng gây ô nhiễm nặng môi trường ở thành phố hiện nay chủ yếu là các ngành sản xuất thép, xi măng, đá mỹ nghệ; và tất cả đều là các doanh nghiệp trong nước. Thành phố Đà Nẵng có 5 KCN, KCX; ở các khu công nghiệp, chế xuất có hệ thống xử lý chất thải, xử lý nước thải tương đối tốt. Trong 10 năm qua, thành phố đã tăng cường thu hút và ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp và chế xuất. Tỷ lệ các doanh nghiệp đầu tư trong các khu công nghiệp ngày càng tăng, năm 1997, tỷ lệ này là 29%, năm 2001 tăng lên 30 % và năm 2006 là 56%. Tỷ lệ này tăng, đồng nghĩa với việc quản lý môi trường thuận lợi và tốt hơn. Đồ thị 2.12: Số lượng doanh nghiệp FDI trong và ngoài khu công nghiệp 26 38 35 303129 26 29 31 30 49 45 27 13131214131312 0 10 20 30 40 50 60 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Năm S o du a n Ngoài KCN Trong KCN (Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư, xem phụ lục 4, trang viii) Việc áp dụng những công nghệ sạch, tiên tiến có lợi cho môi trường của doanh nghiệp FDI đã tạo nên những tác động ngoại vi tích cực đối với các doanh nghiệp trong nước và gây sức ép đối với các doanh nghiệp trong nước phải có biện pháp xử lý môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. 2.3.1.5. Một số tác động tích cực đến lĩnh vực văn hóa – xã hội Hiện nay, đã có một số dự án FDI trên lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế không chỉ tăng thêm cơ sở kỹ thuật mà đã có tác động tích cực đến chất lượng đào tạo, dịch vụ tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.pdf
Tài liệu liên quan