Luận văn Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay

Tài liệu Luận văn Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay: 1  Luận văn: "Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay" 2 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT .....................................2 I. KHÁI NIỆM VỀ LẠM PHÁT. .........................................................................................................................2 II. CÁC LOẠI HÌNH CỦA LẠM PHÁT.............................................................................................................2 1. Căn cứ vào mức độ........................................................................................................ 2 2. Căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát........................................................ 3 3.Căn cứ vào quá trình bộc lộ hiện hình lạm phát. ........................................................... 6 III-TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ. ...............................................................................6 1-Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế...

pdf40 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 961 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1  Luận văn: "Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay" 2 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT .....................................2 I. KHÁI NIỆM VỀ LẠM PHÁT. .........................................................................................................................2 II. CÁC LOẠI HÌNH CỦA LẠM PHÁT.............................................................................................................2 1. Căn cứ vào mức độ........................................................................................................ 2 2. Căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát........................................................ 3 3.Căn cứ vào quá trình bộc lộ hiện hình lạm phát. ........................................................... 6 III-TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ. ...............................................................................6 1-Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế. ........................................................... 6 2-Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế. ........................................................... 7 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA..........................................................................................8 I) THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI TRƯỚC 1986..................................................................................................8 II) THỜI KÌ BẮT ĐẦU ĐỔI MỚI 1986 – 1990 .................................................................................................9 III) THỜI KÌ KINH TẾ ĐI VÀO ỔN ĐỊNH, LẠM PHÁT ĐƯỢC KIỂM SOÁT 1991-1995......................10 IV) THỜI KỲ KINH TẾ CÓ DẤU HIỆU TRÌ TRỆ 1997 – 2000. ..................................................................11 V) THỜI KÌ KINH TẾ CÓ BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI 2001 – 2003.............................................................12 VI) LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 2004 – 2005. .....................................................................................................12 VII)LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 2006-2007: .......................................................................................................13 VII)TÌNH HÌNH LẠM PHÁT NHỮNG THÁNG ĐẦU NĂM 2008 VÀ DỰ BÁO ĐẾN CUỐI NĂM: ...14 3 CHƯƠNG III-CÁC GIẢI PHÁP VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM NHẰM KIỀM CHẾ VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG LẠM PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ.......................................................................................... 16 I) QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC. ............................................................................................16 II) CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẲI PHÁP NHẰM KIỀM CHẾ VÀ KHẮC PHỤC LẠM PHÁT................17 1. Chính sách , giải pháp và cơ chế quản lý vĩ mô. ......................................................... 17 2. Các giải pháp cấp vi mô (đối với các doanh nghiệp và đơn vị). ................................. 19 KẾT LUẬN 20 4 LỜI NÓI ĐẦU Lạm phát thường xuyên và dai dẳng là một hiện tượng mới bẩm sinh ở các nước tư bản, nó được coi như một con quỷ ghê gớm nhất trên trái đất, ít nhất là xét về triển vọng chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên lạm phát cũng có tính chất hai mặt của nó. Kích thích nền kinh tế phát triển nếu tốc độ tăng của nó phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và ngược lại nếu tốc độ tăng lạm phát cao nó sẽ gây ra những biến động kinh tế hết sức nghiêm trọng: Như biến dạng cơ cấu sản xuất về việc làm về địa vị... Và lạm phát thường xẩy ra sau các cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế và xã hội. Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ở nhiều lĩnh vực của đời sống đang được diển ra trên phạm vi toàn thế giới thì vấn đề lạm phát nó không còn giới hạn trong các nước tư bản mà nó đã đến với các nước đang phát triển cũng như các nước ở thế giới thứ ba. Riêng các nước xã hội chủ nghĩa mà cụ thể là Việt Nam, cuối những năm 80 đã trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế khá nghiêm trọng, sản xuất sút kém giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là thời kỳ 1986 - 1988, nền kinh tế nước ta vẫn hoạt động theo cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, hàng hoá sản xuất có hạn mà nhu cầu thì lại rất cao nhưng đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền, tổng cầu luôn vượt tổng cung, nền kinh tế luôn ở trạng thái mất cân đối, lạm phát tăng ở mức ba con số. Thời kỳ 1989 - 1991 nền kinh tế chuyển hướng mạnh theo cơ chế thị trường, Nhà nước đã ban hành các chính sách quản lý mới nền kinh tế như: Tự do giá cả, thả nổi tỷ giá, chính sách lãi suất cao, cắt giảm nhiều khoản chi tiêu ngân sách....nhờ đó mà nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, lạm phát phi mã bị chặn lại. Thời kỳ 1992 - 1995 nền kinh tế về cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và đi dần vào thế ổn định, nguyên nhân chủ yếu gây nên lạm phát cao ở 5 nước ta vẫn là sự bành trướng cung ứng tiền tệ qua lớn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của xã hội nếu không tính đến những nguyên nhân có tính khách quan như: Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, mất cân đối cơ cấu, phụ thuộc nhiều các yếu tố bên ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ của Liên Xô. Từ năm 1996 nền kinh tế nước ta chuyển sang một thời kỳ mới- công nghiệp hoá với tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kiềm chế được lạm phát ổn định nền kính tế để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao vẫn là mục tiêu đặc biệt quan trọng và công cụ chủ yếu vẫn là thực thi một số chính sách tiền tệ hợp lý như: tăng mức cung tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và sử dụng có hiệu quả hơn các chính sách tiền tệ, kiên quyết không bù thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Từ năm 1996 đến nay, do nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, đang trong trạng thái chuyển dịch, đầu tư tăng nhanh. Vì vậy có thể ổn định kinh tế ở một mức nhất định, lạm phát có thể giảm xuống ở mức có thể chấp nhận được. Và thực tề là xu hướng giảm phát đã xảy ra gây tình trạng thiểu phát, đây cũng là biển hiện của nền kinh tế trì trệ khủng hoảng. Vậy muốn ổn dịnh đất nước cả về kinh tế xã hội để đẩn bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mối người dân thì vấn đề tăng trưởng kinh tế và chống lạm phát phải được thực hiện một cách thống nhất làm thế nào đạt được hiệu quả cao nhất thì đòi hỏi chungs ta phải nghiên cứu một cách khoa học, vấn đề này để hiểu được thế nào là lạm phát chống lạm phát làm như thế nào? Cần có những giải pháp gì để khắc phục cả về mặt ngắn hạn và dài hạn duy trì mức lạm phát ở mức nào cho hợp lý? thiểu phát có gây ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế hay không?... 6 NỘI DUNG I-/ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT 1. Khái niệm: Lạm phát là một hiện tượng chung của nền kinh tế hàng hoá, là căn bệnh nẩy sinh khi quy luật lưu thông tiền tệ không được tôn trọng. Lạm phát thường phát sinh do tình trạng thiếu hụt ngân sách, đặc biệt là do các cuộc chiến tranh, những biến động lớn về kinh tế khi Nhà nước TBCN khôpng có khả năng bù đắp những chi phá ngày càng tăng của mình bằng thuế khoá, công trái..... nên phải tăng cường phát hành tiền giấy, tình hình đó làm cho tiền giấy mất giá hết sức nhanh chóng so với vàng, hàng hoá và ngoại tệ. Vì vậy vấn đề chống lạm phát vẫn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế vĩ mô của mối quốc gia. Có nhiều nhà kinh tế ở các quốc gia khác nhau đã đưa ra nhiều lý thuyết để chuẩn đoán và các giải pháp khắc phục. Vậy lạm phát là gì? Trên quan điểm lý luận của C-Mac Lenin thì lạm phát là tình trạng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế thực tế làm cho tiền tệ mất giá, là phương tiện để phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội có lợi cho giai cấp thống trị dưới chế độ TBCN là phương pháp để tăng cường bóc lột lao động biểu hiện lạm phát là giá cả tăng một cách tự phát, nhất là các giá cả hàng tiêu dùng thông thường. Nội dung lạm phát là sự liên tục tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian. Lạm phát có thể biểu hiện một cách cụ thể như sau: Lạm phát do khổi lượng tiền thực tế trong lưu thông tăng nhưng sản xuất và lưu thông hàng hoá không tăng hoặc do khối lượng tiền thực tế trong lưu thông vẫn giữ nguyên nhưng sản lượng hàng hoá giảm xuống làm cho tiền dư thừa, gây ra lạm phát. Đây là những nguyên nhân cơ bản gây ra sự phát triển không bình thường của lưu thông tiền tệ. Sự quá thừa dấu hiệu giá trị trong lưu thông đã làm cho tiền tệ mất giá so với vàng, so với hàng hoá và ngoại tệ. Tiền tệ mất giá so với vàng bởi do đặc trưng cơ bản của lưu thông tiền giấy là có thể chứa một khối lượng đồ sộ tiền giấy đi vào lưu thông làm cho lợng vàng mà 7 một đơn vị tiền giấy làm đại diện giá trị giảm xuống. Tiền tệ mắt giá so với hàng hoá có nghĩa sức mua của tiền tệ giảm sút đối với tất cả hàng hoá. Bởi vì giá trị của một đơn vị tiền giấy giảm thì giá trị hàng hoá biểu hiện ở tiền giấy tăng lên. Trong lạm phát giá cả hàng hoá cũng có thể tăng không cùng tốc độ với nó là do quan hệ cung cầu và mức độ thiết yếu của thứ hàng hoá đó, còn mất giá so với ngoại tệ nghĩa là giá trị tiền tệ ở các nước có lạm phát bị hạ thấp so với giá trị tiền tệ ở các nước khác thể hiện ở sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Lạm phát xảy ra luôn gắn liền với phân phối lại thu nhập quốc dân, nó làm cho giai cấp công nhân bị thiệt hại hơn cả vì khi tiền giấy bị mất giá, giá cả tiêu dùng tăng nhanh hơn tiền lương danh nghĩa, nó cũng ảnh hưởng tiêu cực đến cả những người sản xuất nhỏ vì giá cả sản phẩm của họ tăng lên chậm hơn so với giá cả sản phẩm của các xí nghiệp. Ngoài ra tiền tiết kiệm của họ cũng bị mất giá, lạm phát còn ảnh hưởng đến hoàn cảnh của những người có thu nhập ổn định: Viên chức, giáo viên... Theo quan điểm của C- Mác. Lạm phát được chia thành hai thời kỳ: Thời kỳ lạm phát tiệm tiền là thời kỳ mà trong đó tốc độ mất giá của tiền giấy nhỏ hơn tốc dộ tăng tiền giấy, bởi vì một bộ phận tiền giấy phát hành thay tiền đúc rút ra khỏi lưu thông không phải là tiền thừa. Đồng thời trong thời kỳ đầu lạm phát, mua bán chịu hàng hoá giảm do nhu cầu vay tiền giảm, khi nhu cầu tiền mặt tăng lên, giá tiền giấy đã lớn hơn tốc độ tăng tiền giấy trong lưu thông. Xét về mặt lý luận, nhân dân chưa phát hịên ra lạm phát, vấn đề thực hiện việc tích luỹ tiền tệ do đó phát hành tiền tăng nhưng giá tiền vẫn chưa tăng. Thời kỳ lạm phát công khai thì tốc độ mất giá tiền giấy tăng nhanh hơn tốc độ tăng tiền giấy trong lưu thông. Vì trong lạm phát sản xuất phát triển không đều, có xí nghiệp mạnh lên và có xí nghiệp phá sản dẫn đến khối lượng sản phẩm cung ứng trong xã hội giảm, mất cân đối tăng lên giữa khối lượng tiền giấy và khối lượng hàng hoá trong lưu thông. Khi khối lượng tiền giấy tăng lên với tốc độ đột biến nó cũng làm cho cán cân thanh toán quốc tế bị biến động. Theo quan điểm của Mac thì bất cứ một sự lạm phát tiệm tiền nào cũng dẫn đến lạm phát công khai. Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại thì lạm phát xảy ra khi mức chung về giá 8 và chi phí tăng lên, còn giảm phát là khi mức chung về giá và chi phí giảm xuống. Như vậy lạm phát xẩy ra khi hàng loạt các loại hàng hoá đều tăng giá hoặc cũng có thể chỉ một hay một nhóm nào đó tăng gây lên sự biến động của mức giá chung. Mức giá chung trong điều kiện có lạm phát thường mang tính cục bộ đối với từng hàng hoá, Theo quan điểm của các nhà kinh tế hội Việt Nam cho rằng lạm phát là một vấn đề không mấy xa lạ đối với nền kinh tế hàng hoá, và hầu hết quảng đại quần chúng đều có thể chứng kiến hay trải qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ khác nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm phát là gì thì không dễ Ngay cả các nhà kinh tế học cũng có những qquan điển rất khác nhau về lạm phát. Xét về nội dung thì có thể chia quá trình phát triển của khái niệm lạm phát thành các giai đoạn sau: Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước lạm phát được coi là sự phát hành của nhiều tiền mặt dẫn đến tình trạng giảm giá trị đồng tiền tức là giá cả tăng lên "lạm phát là sự tràn ngập các luồng lưu thông, những đồng bạc giấy thừa gây ra sự mất giá của đồng tiền ". Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng tập trung vào hai điểm cơ bản: Một là phát hành quá nhiều tiền giấy vi phạm quy luật lưu thông tiền tệ. Hai là thể hiện chủ yếu nhất hoặc hiệu quả trực tiếp nhất của lạm phát là sự mất giá đồng tiền và cũng là sự tăng lên của giá cả. Xuất xứ của định nghĩa này từ đâu và có gì đúng sai hoặc không thích hợp?. Trước hết định nghĩa này xuất phát từ lý thuyết về số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, nó được tính theo công thức sau đây: 9  xp S = (1) V S: Số tiền cần thiết trong lưu thông P: Giá trị đơn vị của hàng hoá X: Lượng hàng hoá V: Số vòng quay của đồng tiền  xp: Biểu thị tổng giá cả Vậy số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng giá cả chia cho số vòng quay của đồng tiền Con số vòng quay của đồng tiền (V): Đối với một người, một gia đình hoặc một xí nghiệp kinh doanh người ta đã đề xuất cách tính. Nhưng trong toàn bộ nền kinh tế quôc dân thì V là "một con số mơ hồ" do vậy S cũng là "một con số mơ hồ". Bỏ qua thực tế trên và coi như công thức (1) được hoàn toàn xác định, người ta dựa vào đó để nêu lên định nghĩa về chỉ số lạm phát  (Tỷ lệ lạm phát) S - S  = . 100% (2) S S: Là lượng tiền đã phát hành S - S: Là số tiền phát hành quá mức cần thiết và chỉ số lạm phát chính là tỷ lệ giữa số tiền phát hành quá mức cầu cần thiết so với lượng tiền cần thiết. Bằng toán học ta cũng có thể chứng minh được rằng, nếu giữ nguyên vòng quay của đồng tiền (V) thì lượng tiền phát hành tăng lên bao nhiêu phần trăm, chỉ số giá cả tăng lên bấy nhiêu phần trăm như vậy tỷ lệ lạm phát cũng là tỷ lệ tăng giá. 10 Giai đoạn hai: Từ sau năm 1890 đến những năm trước 1950, lạm phát được coi là tình trạng cầu lớn hơn cung, dưới góc độ tài chính đó là chi lớn hơn thu thì lúc này chỉ số lạm phát được tính theo công thức sau: Chi - Thu  = . 100% Thu Theo quan điểm này, cứ xuất hiện chênh lệch chi lớn hơn thu thì xảy ra lạm phát, và vì có nhiều hình thức thu chi khác nhau: Thu chi ngân sách, thu chi tiền mặt, tín dụng nên cũng có nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát: Lạm phát ngân sách, tiền tệ, tín dụng... Như vậy khái niệm ở giai đoạn này chính là đi vào nguyên nhân trực tiếp nhất trong khái niệm lạm phát của giai đoạn thứ nhất. Vấn đề này có nguyên nhân lịch sử của nó, đó là từ lúc phôi thai của chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới II. Các nước gây chiến tranh cũng như các nước tham chiến đều tăng chi tiêu lên gấp bội. Nhưng sau chiến tranh đó bị tàn phá nặng nề về người và của, sản xuất ngừng trệ nguồn thu giảm nghiêm trọng. Cho nên chênh lệch thu chi trong giai đoạn này ở nhiều nước đã gây lên khủng hoảng về tài chính và tiền tệ, thâm hụt ngân sách nghiêm trọng. Để bù đắp thâm hụt ngân sách chính phủ của các nước này chẳng còn cách nào khác là phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt, làm cho lượng tiền giấy ngày càng tăng, gây ra sự mất giá của đồng tiền và lạm phát xảy ra. Với quan niệm lạm phát thực chất là chênh lệch thu chi thì biện pháp chống lạm phát chủ yếu ở đây là tăng thu giảm chi làm cân bằng ngân sách. Tăng thu chủ yếu nhờ chính sách thuế, chính sách khuyến khích sản xuất, chính sách đầu tư để thu hút vốn vay, phát hành công trái hoặc xin viện trợ... Còn giảm chi chủ yếu nhờ chính sách tiêu dùng xã hội, chính sách tiết kiệm bắt buộc, giảm quân đội, giảm biên chế hành chính, tinh giảm bộ máy nhà nước và hạn chế đầu tư... Giai đoạn 3: Từ những năm 1950 đến năm 1972 11 Trong giai đoạn này lạm phát được đồng nhất với sự tăng giá. Cho đến nay một số tạp chí trên thế giới vẫn sử dụng khái niệm này. Như chúng ta đã biết năm 1986 chỉ số lạm phát ở Việt Nam là 700% điều đó có nghĩa là chỉ số giả cả cuối năm 1986 gấp 7 lần chỉ số giá cả đầu năm 1986. Như chúng ta đã biết vấn đề giá cả là một vấn đề rất phức tạp, nó luôn luôn biến động. Tất cả các vấn đề phức tạp về kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, đối nội, đối ngoại đều liên quan đến vấn đề giá. Như vậy việc tăng giá không chỉ do nguyên nhân phát hành tiền quá mức, do chênh lệch cung cầu hay bội chi mà nó còn mang nhiều nguyên nhân khác mang ý nghĩa phi tài chính, phi tiền tế như sự ảnh hưởng của tình hình chính trị-xã hội hay do sự tác động của các công ty độc quyền. Khi chúng nâng cao giá cả sản phẩm của mình. Như vậy tiến bộ của giai đoạn thứ ba là nêu nên được vấn đề mấu chốt nhất của vấn đề lạm phát là vấn đề tăng giá mà trước đó người ta chỉ coi nó như một hiện tượng hay một hậu quả của lạm phát. Giai đoạn thứ tư: Từ năm 1972 đến nay. Đây là giai đoạn có nhiều sự kiện đáng ghi nhớ Khi tiền vàng bị rút khỏi lưu thông, chấm dứt việc đổi tiền tín dụng lấy vàng thì lạm phát có tính chất phổ biến và kinh niên, nó thường xảy ra cùng với sự suy thoái của sản xuất do khủng hoảng gây ra, với nạn thất nghiệp tăng lên là một hiện tượng mới của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa từ những năm 60 và nó được gọi là lạm phát suy thoái. Những xu hướng này đặc biệt thể hiện rõ trong điều kiện của cuộc khủng hoảng sâu sắc những năm 74-75, khi mà khối lượng sản xuất giảm sút và nạn thất nghiệp tăng lên mạnh mẽ đã kéo theo tình trạng giá cả và lạm phát tăng lên không gì ngăn cản nổi. Lo sợ những hậu quả phá hoại về kinh tế-xã hội của lạm phát, nhà nước đế quốc chủ nghĩa đang cố gắng điều chỉnh nó. Tuy nhiên tính không ổn định thường xuyên của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kể cả trong lĩnh vực tài chính tín dụng của nó, cuộc khủng hoảng của hệ thống tiền tệ đang làm cho lạm phát trở thành một hiện tượng kinh niên của thế giới tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Và suy cho cùng, nó phá vỡ những cơ sở của chủ 12 nghĩa tư bản và làm cho các mâu thuẫn đối kháng về kinh tế -xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Tóm lại, ta có thể đi đến khái niệm lạm phát như sau:Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế thực tế làm cho tiền bị mất giá so với toàn bộ sản phẩm hàng hoá, vàng và ngoại tệ và thể hiện là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian. mức giá trung bình thường lấy mức giá cả của những mặt hàng tiêu dùng làm cơ sở và muốn được lạm phát phải tính được chỉ số giá tiêu dùng. Công thức tính có thể được viết như sau: Ip=ip. d Trong đó: Ip chỉ số giá tiêu dùng của cả giỏ hàng hoá ip: Chỉ số giá cả của từng loại hàng hoá trong giỏ hàng hoá đó. d: Tỷ trọng mức tiêu dùng trong từng loại hàng hoá nhóm hàng hoá trong giỏ. Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Khác với chỉ số gia tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn(giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động của giá cả đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Ở Việt Nam hiện nay, chỉ số được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng(tính theo hàng năm, quý, tháng). 2. Tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự biến động của nó phản ánh xu hướng và quy mô của lạm phát. Tỉ lệ lạm phát được tính theo công thức: gp=(Ip/Ip-1-1). 100% Trong đó: gp: tỷ lệ lạm phát(%) Ip: chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu Ip-1: chỉ số giá cả thời kỳ trước đó. 13 Khi lạm phát xảy ra thì đồng nghĩa với việc tăng lên của chỉ số giá cả, nên mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua khối lượng hàng hoá cần thiết đã dự định. Như vậy thực chất của mức cầu tiền là cầu về cán cân tiền tệ thực tế Nhưng trong thực tế thì lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh hơn cả do vậy tỉ lệ lạm phát cũng được tính bằng mức tăng lượng cung tiền danh nghĩa trừ đi mức tăng nhu cầu tiền thực tế. Theo lý thuyết định lượng đơn giản nói rằng:Do thu nhập thực tế và lãi suất thường chỉ thay đổi nhỏ một vài phần trăm mỗi năm nên nhu cầu thực tế thường cũng chỉ thay đổi một cách chậm chạp. Khi lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh, về cơ bản nó kéo theo sự tăng nhanh của giá cả để đảm bảo mức cung tiền thực tế chỉ thay đổi một cách chậm chạp tương ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ. Lập luận cơ bản của lý thuyết định lượng về tiền tệ là ở chỗ các biến số thực tế thường thay đổi một cách chậm chạp do đó những thay đổi rất lớn trong một biến danh nghĩa(lượng tiền danh nghĩa)phải kéo theo những thay đổi rất lớn trong các đại lượng danh nghĩa khác(giá cả và tiền lương)để duy trì lượng cung tiền thực tế tại những giá trị cân bằng của chúng. 3. Quy mô lạm phát. Trong thực tế tư bản chủ nghĩa, người ta thường phân biệt lạm phát lan dần biểu hiện ở sự tăng giá cả liên tục và thường xuyên và lạm phát lan nhanh trong đó giá cả tăng lên vùn vụt và nhảy vọt. Tùy theo quá trình lạm phát bao trùm khu vực này hay khu vực khác của thế giới tư bản chủ nghĩa mà lạm phát được chia thành lạm phát thế giới bao trùm một nhóm nước và lạm phát cục bộ chỉ phát triển trong phạm vi một nước. Và tuỳ theo mức độ của tỉ lệ lạm phát mà người ta chia lạm phát thành ba loại sau:lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. a. Lạm phát vừa phải. Xảy ra khi giá cả tăng lên chậm ở mức một con số hay ở mức dưới 10%/năm. Hiện ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa đang có lạm phát vừa phải. Trong điều 14 kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương hoặc cao hơn một chút. Do vậy đồng tiền không bị mất giá hoặc mất giá không lớn. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế. b. Lạm phát phi mã Xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một năm. Khi loại lạm phát này hình thành một cách vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng; khi các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số giá hoặc theo một đồng ngoại tệ mạnh nào đó, nếu lạm phát xảy ra với sự tăng lên rất nhanh của chỉ số giá cả làm cho đồng tiền mất giá so với các chỉ số giá hoặc đồng ngoại tệ đó sẽ làm cho các chủ doanh nghiệp, các chủ hợp đồng... có thể phất lên và trái lại cũng có các chủ doanh nghiệp, các ngành nghề suy sụp thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh. c. Siêu lạm phát Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, ở mức trên 300%. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh siêu lạm phát điển hình trong lịch sử siêu lạm phát thế giới giá cả tăng từ một đến mười triệu lần. Siêu lạm phát xảy ra thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc. Nó phá vỡ quy luật lưu thông tiền tệ, lưu thông hàng hoá gặp nhiều khó khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế trì trệ không thể phát triển được. Ở Việt Nam điển hình điển hình của loại siêu lạm phát là thời kỳ 1986-1988 lạm phát đã ở mức 3 con số và ở mức cao. Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. Từ cuối những năm 80, Việt Nam đã trải qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, sản xuất sút kém, giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là thời kỳ 1986-1988 nền kinh tế vẫn hoạt động theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, hàng hoá sản xuất khan hiếm về số lượng, sút kém về số lượng nhưng nhu 15 cầu lại rất cao, đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền nên tổng cầu luôn tăng vượt tổng cung, nên kinh tế luôn ở trạng thái mất cân bằng, lạmphát luôn ở mức 3 con số(năm1986 774% năm 1988 giảm xuống 308 %). Trong tình hình bất ổn định như vậy, lạm phát càng tăng cao thì lòng tin của người dân vào đồng tiền càng giảm sút. Xuất phát từ yêu cầu cấp bách phải ổn định nền kinh tế chính phủ đã đưa ra hai thay đổi lớn trong lĩng vực tiền tệ đó là đưa tỷ giá hối đoái lên ngang giá thị trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương nhằm mục tiêu đưa lại giá trị thực cho đồng tiền Việt nam. Và kết quả là đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin trong nhân dân đối với đồng tiền. Từ đó các quan hệ thị trường đã được hình thành và làm cơ sở để từng bước mở rộng quan hệ hành hoá trên phạm vi quốc tế. Đến giai đoạn 1989-1991, nền kinh tế chuyển hướng mạnh sang cơ chế thị trường , các chính sách đổi mới quản lý như thực hiện tự do hoá giá cả, thả nổi tỷ giá chính sách lãi suất, cắt giảm mạnh nhiều khoản chi tiêu ngân sách....Đặc biệt là cải cách chính sách thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác dụng tích cực trong việc mở rộng và tập trung kịp thời các nguồn thu cho ngân sách nhà nước, từ đó đã cắt nhanh được cơn sốt lạm phát cao (từ 308% năm 1988 xuống 68% năm 1991) và số thu trong năm 1991 so với 1990 là 32, 4 %. Thời kỳ 1992-1995, nền kinh tế về cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và đi dần vào thế ổn định. Chỉ số giá cả hành hoá và dịch vụ dao động xung quanh mức 12%/năm nhưng ta vẫn chưa có khả năng kiểm soát lạm phát theo mong muốn. Năm 1992, lạm phát ở mức 17, 5% đến năm 1993 thì giảm xuống còn 5,3% (trong khi mức dự kiến là từ 10-13%). Nguyên nhân của sự giảm phát này là do giữa năm 1993 hàng Trung Quốc tràn sang việt nam với giá cả rất rẻ so với hàng hoá nội địa và cũng do nền kinh tế nước ta đang trong xu hướng giảm phát. Đến năm 1994, trận lũ lụt ở ĐBSCL xảy ra gây tổn thất nặng nề đối với nền nông nghiệp nước ta đặc biệt là nguồn lúa, do vậy mà giá cả lương thực đã tăng vọt lên 16 đồng thời giá thực phẩm cũng tăng cao, đẩy lạm phát tăng lên 14, 4%, và ảnh hưởng cả sang năm 1995. Đến năm 1996, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một thời kì mới-công nghiệp hoá và dự kiến có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế để duy trì tốc độ tăng trưởng cao là mục tiêu đặc biệt coi trọng. Công cụ chủ yếu để kiềm chế lạm phát vẫn là thực thi một chính sách tiền tệ hợp lí: tăng lượng cung ứng tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách tiền tệ, kiên quyết không bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Với các chính sách trên tỉ lệ lạm phát đã giảm xuống một cách đáng kể. Năm 1996, chỉ số lạm phát là 4, 5% được coi là mức thấp nhất kể từ 1987. Trong năm đã xuất hiện dấu hiện giảm phát (từ tháng 5 dến tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng đều mang dấu âm)... cụ thể là theo số liệu của tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 giảm 0, 6%, so với tháng 3/1997 đây là tháng thứ hai chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm. Trong đó nhóm hàng lương thực giảm mạnh nhất tới 2, 8%, giá thực phẩm giảm 1%, giá các nhóm hàng phi lương thực - lương thực tương đối ổn định. Giá vàng tiếp tục giảm 1, 1%, giá đô la lại taưng 1% so với tháng 3/1997. Nhìn chung từ tháng 4 năm 1997 chỉ số giá tiêu dùng tăng 1, 6% so với tháng 4/1996 bình quân tăng 0, 13%/tháng. Đây là mức tăng thấp nhất so với 4 tháng đầu năm 1997. Và so với cả khoảng thời gian 12 tháng liên tục cùng kì của nhiều năm trước. Với số liệu thực tế như vậy, một số nhà phân tích kinh tế đã đưa ra một vài nhận xét sau: +Thể hiện sức mua xã hội, trong đó 80% là nông thôn giảm sút, quan hệ tỉ giá cánh kéo doãng ra bất lợi cho nông thôn, hàng hoá ứ đọng, thị trường kém sôi động, nhiều lĩnh vự sản xuất kinh doanh và hoạt động văn hoá - du lịch trầm hẳn xuống. Sang năm 1997 hiện tượng giảm phát lại xuất hiện ở 6 tháng đầu năm. 17 + Xu hướng giảm phát này diễn ra từ tháng 3/1997 sớm hơn năm 1996 (vào tháng 5) và có nhiều k/n sẽ kéo dài trong những tháng tiếp theo. Do vậy thợc trạng giảm phát trên cần được đánh giá, phân tích một cách thận trọng nhằm hạn chế những tác động ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Các nhà kinh tế cũng cho rằng, với chỉ số giá tiêu dùng tăng như trên, thông thường chỉ thích ứng với các nước có nền kinh tế phát triển. Còn đối với các nước chưa phát triển, nhất là đối với nước ta đang trong giai đoạn đầu tạo lập và phát triển nền kinh tế thị trường thì đó chưa hoàn toàn là nhân tố tích cực và phù hợp. Vậy nguyên nhân chính của tình hình trên là như thế nào? Thứ nhất, trong những tháng đầu năm, nhiều mặt hàng nông sản bước vào thời kỳ thu hoạch chính vụ, lưu lượng trên thị trường dồi dào, song tiến độ mua vào mua vào hết sức chậm chạp đã làm cho giá các loại nông sản giảm khá nhanh và liên tục, chính nguyên nhân này đã góp phần làm cho sức mua của dân cư giảm rõ rệt, nhịp độ tăng trưởng diễn ra một cách trầm lặng. Hàng hoá nông sản chủ yếu ở đây là lúa, gạo và hạt điều thô vẫn nằm trong tình trạng khó tiêu thụ. Mà khó khăn chủ yếu là sự thiếu vốn cũng như đầu ra bị hạn chế của các cơ sở sản xuất và chế biến, xuất khẩu. Bởi trong khi chỉ số giá tiêu dùng trong 12 tháng liên tục (Từ tháng 4/1996 đến 4/1997) chỉ tăng 1, 6%, 4 tháng đầu năm tăng 1, 5%. Thế mà lãi suất vốn vay ngân hàng vẫn duy trì ở mức trên 1%/tháng. Như vậy liệu họ vay vốn làm ăn có mang lại hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán được hay không? Vì vậy hiện nay vẫn tồn tại một nghịch lí là ngân hàng thừa vốn với khối lượng lớn mà các doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng. Thứ 2 là việc kiểm soát nhập khẩu còn thiếu chặt chẽ, kiên quyết nên đã dẫn đến tình trạng hàng ngoại tràn ngập, cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất trong nước, làm cho các doanh nghiệp vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Mặc dù ngay từ dầu năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về danh mục mặt hàng xuất khẩu và công tác điều hành nhập khẩu quy định rõ các danh mục và số lượng hàng hoá nhập khẩu. Song trên thực tế hàng ngoại vãn chiếm một thị phần đáng kể như:xi măng, phân bón, giấy, sắt thép..... 18 Thứ ba là những tháng đầu năm, giá cả thị trường thế giới cũng có những biến động bất lợi cho ta. Ngoài giá gạo thì giá cà phê cũng là một thiệt thòi lớn cho nông dân. Từ cuối tháng, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng mạnh, giá cà phê Robustal xuất khẩu của Việt nam đạt trên 1400USD/tấn. Nhưng hầu hết sản lượng cà phê thu hoạch năm 1996/1997 đã được tiêu thụ khi giá cà phê trong nước còn thấp. Số còn lại không nhiều, đến cuối tháng 3 giá cà phê trong nước giảm liên tục 700 - 1000 đồng/kg. Mặt hàng cao su cũng không kém khó khăn, mức giá xuất khẩu giảm xuống nhiều, lượng cao su tồn kho ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc lên đến 10000tấn. Ngoài ra những nguyên nhân chính ở trên, ta cũng pphải thừa nhận một thực tế là hàng hoá sản xuất trong nước chất lượng chưa cao, mẫu mã kiểu dáng chưa đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng và giá bán chưa phù hợp với túi tiền ngươì tiêu dùng nhất là ở mảng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Trước tình hình đó, chính phủ đã đề ra nhiều biện ppháp chỉ đạo mạnh mẽ để kích cầu như: Nới lỏng cơ chế liên ngân hàng; cung ứng tiền mặt càn thiết để tăng dữ trữ ngoại tệ của Nhà nước để hỗ trợ vốn cho các công ty lương thực mua hết lúa, hàng hoá của nông dân không thấp dưới giá sàn; điều chỉnh hạ lãi suất cho vay và đơn giản hoá các thủ tục cho vay; tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp, các hộ sản xuất tiếp cận vay vốn ngân hàng. Những biện pháp trên đã đem lại hiệu quả thiết thực trong 6 Tháng cuối năm 1997 không còn hiện tượng giảm phát; chỉ số giá tăng 2, 5%. Trong đó đó lương thực không còn mang dấu âm (như những tháng đầu năm). Tuy nhiên tỷ lệ lạm phát vvẫn ở mức 3, 6% (thấp hơn năm 1996 - 4, 5%) đây là mức thấp nhất trong 10 năm đổi mới. Nếu kiềm chế lạm phát ở mức Quốc hội cho phép 10% là rất tốt nhưng mức lạm phát quá thấp sẽ đẩy nền kinh tế vào tình trạng giảm phát thì đó là kết quả không hay. Về những phương diện đối ngoại tỷ giá giữa VND/USD nửa cuối năm 1997 giảm nhiều so với tỷ giá chính thức +10%. 19 Tóm lại mức lạm phát năm 1997 thực hiện thấp hơn nhiều so với mục tiêu chỉ đạo (3, 6% /10%) trong khi đó mức độ mất giá của VND/USD lớn hơn nhiều so với mức chỉ đạo (13. 950đ / 11. 175đ) nói lên việc điều hành chính sách tiền tệ năm 1997 tuy có nhiều cố gắng song chưa đạt yêu cầu của Nhà nước. Đến 6 tháng đầu năm 1998 chỉ số hàng hoá - dịch vụ tăng 6%. Sáu tháng năm 1999 tăng 1, 6% so với tháng 12 năm trước. Nhìn chung trong 2 năm trở lại đây thị trường kém sôi động, giá không có đột biến nhưng vận động ở mức thấp, tuy có tác dụng tốt là cải góp phận cải thiện đời sống nhưng lại làm cho sản xuất lưu thông gặp nhiều khó khăn cụ thể là nông sản tiêu thụ khó khăn, công nghiệp thì thị trường và sức mua bị thu hẹp, nhiều sản phẩm sản xuất cầm chừng. Sáu tháng đầu năm 1999 giá cả vận động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố kiềm chế tăng giá nhưng cũng có những nhân tố đẩy giá thị trường tăng. Để nhìn nhận một cách tổng quát nền kinh tế ta từ năm 1997 đến nay ta có bảng thống kê của tổng cục Thống kê về chỉ số giá như sau: Năm 1996 1997 1998 1999 Chỉ số giá cả 4, 5% 3, 6% 9, 2% 6-7% (Dự kiến) Quý I 4, 3 2, 1 2, 9 2, 9 Quý II -0, 1 -0, 8 3, 1% Quý II -0, 4 0, 9 0, 6 Quý V 0, 7 1, 4 2, 6 Số liệu trên đây đã cho ta thấy nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng giảm phát mạnh. Trong đó 9 tháng đầu năm 99 chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so với cuối năm 1998, 7 tháng liền kể từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1999 nền kinh tế liên tục bị thiểu phát giá hàng hoá giảm liên tục, hàng hoá tồn kho của các doanh nghiệp ở mức cao hơn chưa từng thấy như: xi măng, than đá, thép xây dựng, đường kính, mía... 20 Như vậy thiểu phát là gì? đó là một hiện tượng kinh tế xảy ra khi mức cung tiền tệ nhỏ hơn mức cầu tiền tệ làm cho đồng tiền lên giá và từ đó làm cho chỉ số giá cả chung giảm xuống (chỉ số giá cả âm). Theo lí luận của các nhà kinh tế thì thiểu phát còn nguy hiểm hơn lạm phát bởi nó kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế, gây tình trạng khủng hoảng thừa. Vì vậy trong khi lạm phát có chiều hướng lắng xuống thì nguy cơ thiểu phát lại dâng lên, điều này đòi hỏi Chính Phủ phải có những biện pháp thiết thực dể có thể hạn chế nó ở mức thích hợp nhất. Sau hơn 10 năm đổi mới mà nền kinh tế nước ta đã trải qua 3 tình thế, lạm phát phi mã; lạm phát hai chữ số với cường độ thấp và thiểu phát 7 tháng liền của đầu năm 1999. Đây là một hiện tượng kinh tế và xã hội không bình thường ở nước ta. III. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT VÀ THIỂU PHÁT. 1. Nguyên nhân gây ra lạm phát. Nguyên nhân khách quan ở đây là do nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, lại gánh chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh lớn: chống Pháp và chống Mỹ cho nên nhu cầu chi tiêu lớn trong khi nguồn thu ngân sách lại có hạn. Và vì vậy mà sự bành trướng cung ứng tiền tệ quá lớn (bằng cách in tiền) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu xã hội đã gây nên tình trạng lạm phát. Nguyên nhân chủ quan do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư tăng không hợp lý làm cho sản xuất tăng chậm, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ đảm bảo 80-90% quỹ tiêu dùng xã hội. Trong khi lại phụ thuộc nhiều vài nước ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ của Liên Xô đã giảm đáng kể. Mặt khác, bộ máy hành chính quá cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy mà nền kinh tế kém phát triển, luôn trong tình trạng mất cân đối, thâm hụt ngân sách cao. Do đó phải bù ngân sách bằng cách phát hành tiền quá mức cho phép gây nên tình trạng lạm phát lên tới mức 2-3 con số. Chính sách đổi tiền và tăng giá là một chính sách phá giá đồng tiền. Từ những năm 80 đến những năm gần đây, Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh giá với mức quá 21 lớn, không đồng bộ. Sự điều chỉnh đã không mang lại hiệu quả lại còn gây tình trạng giá cả tăng vọt và buộc phải chấp nhận cơ chế trượt giá trong việc thu mua nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Thời kỳ này nhiều ngành, nhiều địa phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Tình hình này đã gây ách tắc sản xuất, thị trường rối ren và làm tăng bội chi ngân sách. Việc buông lỏng quản lí ngoại thương, thị trường ngoại hối cũng gây tác hại lớn cho ngân sách và lưu thông tiền tệ. Trong lĩnh vực xuất khẩu đã phát sinh hiện tượng tranh mua, tranh bán hay tuỳ tiện tăng giá hay dìm giá của một số địa phương. Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vốn là nền kinh tế đi từ chế độ công hữu tràn lan sang nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, mệnh lệnh và khép kín. Cho nên nó đã làm cho Việt Nam có một nền kinh tế kém phát triển. Chi phí sản xuất tăng lên, tách rời với nhu cầu và cô lập với thị trương thế giới. Do vậy không tạo được môi trường sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp các công ty... Mặt khác nền kinh tế vốn đã yếu kém chậm phát triển về mọi mặt, hiệu quả đầu tư không cao, chưa có chọn lọc. Quá ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất cho nó. Vì vậy làm nền kinh tế mất cân đối, chưa khai thác hết tiềm năng của đất nước, nếu có lại sử dụng kém hiệu quả ; chưa huy động được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Và đặc biệt là do sự chủ quan duy ý chí, giáo điều dập khuôn của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những năm qua chưa biết đưa lí luận để áp dụng vào thực tiễn đất nước 2. Nguyên nhân gây ra thiểu phát lạm phát Những tưởng tránh được cơn bão lạm phát những năm cuối thập kỷ 90 đất nước ta sẽ đi vào sự phát triển phồn vinh thịnh vượng, thực tế kinh tế những năm qua có dấu hiệu đáng mừng tăng trưởng qua các năm luôn phát triển. Năm 92: 8, 6%. Năm 93: 8, 1%. Năm 94: 8, 8% Năm 95: 9, 34%. 22 Kỳ họp quốc hội khoá VIII Đảng ta đã xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ nay đến năm 2000 là 9-10%. Nếu cứ đà tốc độ phát triển như trên thì mục tiêu trên sẽ chỉ là nhứng con số bình thường có thể thực hiện được, song sự thực lại trở lên phũ phàng hơn. Nền kinh tế nước ta cứ từ tụt dốc, đất nước không còn phải đối mặt với cơn bão lạm phát nữa, mà lại gặp phải những vấn đề còn nguy hiểm hơn lạm phát đó là thiểu phát, kẻ thù số một của sự phát triển kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 99 này mức lạm phát chỉ có 0, 2% nền kinh tế trở lên trì trệ Vậy đâu là nguyên nhân đưa đến thiểu phát: Theo các nhà nghiên cứu kinh tế nguyên nhân của thiểu phát rất nhiều. Song tổng kết lại thì chỉ có một vài nguyên nhân chủ yếu sau: - Thứ nhất: Trong những tháng qua sức mua của xã hội rất thấp tổng vốn đầu tư dể phát triển kinh tế xã hội chỉ đạt 37, 5% kế hoạch năm. Trong đó vấn đầu tư của ngân sách Nhà nước là 41% vốn tín dụng đạt 40% cấp phát vốn cho dầu tư phát triển 38, 1%. Tổng phương tiện thanh toán tăng 7, 5% so với tháng 12 năm 98, nhưng nguồn vốn huy động tăng 8, 9% - Thứ hai: ảnh hưởng của cơn bão tài chính tiền tệ trong khu vực Đông Nam á và các nước trên thế giới đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế nước ta. Cuộc khủng hoảng đã làm tỉ giá của các đồng tiền các nước trong khu vực so với USD giảm xuống (Đồng tiền của họ mất giá ) làn cho tỷ giá đồng tiền nước bạn so với đồng tiền nước ta cũng giảm mạnh sự sút giảm này dẫn đến hàng hoá của nước bạn trở lên rất rẻ. Một nơi có quá hàng cao, một nơi có quá hàng thấp tất yếu sẽ dẫn đến hàng hoá nước bạn thâm nhậm vào thị trường nước ta. Chính vì vậy các mặt hàng như dầu thô hàng may mặc, gạo, cà fê, cao su..Thời gian qua đã giảm liên tục ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường trong nước - Thứ ba: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại nhiều chỉ tiêu đạt mức tăng trưởng thấp hơn so với kì năm trước, dựng cơ bản triển khai chậm, khối lượng xây dựng cơ bản thực hiện ước bằng 305 kế hoạch năm. Vốn đầu tư nước ngoài ước bằng 63% so với cùng kỳ năm trước, chi ngân sách Nhà nước tính đến 15\5 bằng 23 31, 3% dự toán năm ; tổng phương tiện thanh toán trong năm tháng tuy có tăng hơn cùng kỳ năm trước nhưng chỉ bằng 407 kế hoạch cả năm. Tỷ lệ thất nghiệp còn lớn (Hà Nội 9%, Hải Phòng 8, 3%, Thành Phố Hồ Chí Minh 75, Đà Nắng 6, 3%). Tình hình trên đã tác động làm cho sức mua không tăng, làm giảm áp lực tăng giá thị trường xã hội - Thứ tư: Thị trường trong nước trầm lặng, hàng hoá tiêu thụ khó khăn như lúa gạo. Tính đến hết tháng 5\1999 đường của các nhà máy sản xuất còn tồn kho lên tới 255. 000 tấn, gấp ba lần tồn kho cùng kỳ, than còn tồn kho trên 2 triệu tấn, xi măng trên 21 vạn tấn... Thị trường thế giới kém sôi động, làm cho thị trường xuất khẩu lương thực, cao su, hàng may mặc gặp khó khăn, kim ngạch xuất khẩu giảm, giá xuất khẩu một số mặt hàng có lợi thế đều giảm hơn năm 1998, gạo 31USD / tấn, giá cao su bằng 83, 7% cùng kỳ. Giá thế giới giảm, tác động làm cho giá thị trường nội địa giảm sút. Mặt khác do nhập lậu một số mặt hàng như đường, trứng gia cầm với số lượng lớn từ Trung Quốc và Thái Lan đã gây khó khăn cho các ngành sản xuất trong nước đặc biệt là các hộ gia đình, các doanh ngiệp chăn nuôi sản xuất trứng, ảnh hưởng đến người trồng mùa - Thứ năm:Trước đây các nhà kinh tế thế giới đã tổng kết về lãi suất ngân hàng với nội dung như sau: ứng với nền kinh tế khủng hoảng thiếu, lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát ; lãi suất ngân hàng hơi cao. ứng với nền kinh tế năng động lãi suất ngân hàng thấp ; Đối với nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng thừa và thiếu phát. Nhờ vậy có thể nói nguyên nhân gây tình trạng thiếu phát là do sự tác động của lãi suất ngân hàng. Vậy do đâu mà lãi suất giảm? Xu hướng giảm phát kéo dài từ năm 1996 đến 9 tháng đầu năm 1999, làm cho chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so với cuối năm 1998, 7 tháng liền kể từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1999 nền kinh tế liên tục bị thiếu phát. Giá cả hàng hoá giảm liên tục, hàng hoá của các doanh nghiệp tồn kho ở mức cao chưa từng thấy. Trước tình hình kinh tế như vậy nhiều doanh nghiệp không vay vốn ngân hàng thương mại, bởi có vốn cũng không thể đẩy mạnh sản xuất để tạo thu nhập cho doanh nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động. Nhiều ngân hàng thương mại nhất là NHTM 24 quốc doanh nhận tiền gửi của nhân dân và doanh nghiệp vẫn tăng lên nhưng cho vay không hết các ngân hàng thương mại quốc doanh đầu tư hàng tỷ đồng vào phát hành trái phiếu kho bạc Nhà nước thời hạn một năm, và công trái xây dựng tổ quốc thời hạn 5 năm mặc dù lãi suất thấp. Theo dự báo năm tài chính này, một số ngân hàng thương mại sẽ bị lỗ nhất là NHTM cổ phần Trước tình hình đó, các ngân hàng buộc phải hạ lãi suất cho vay của mình để tiêu thụ vốn. Việc làm này đã diễn ra tại các NHTM trước khi thống đốc NHNN công bố hạ lãi suất cho vay theo phanr ứng dây truyền, các ngân hàng thương mại đồng loạt hạ lãi suất tiền gửi để chống lỗ với các mức độ khác nhau. Các ngân hàng thương mại quốc doanh hạ lãi suất huy động vốn nhanh hơn các ngân hàng thương mại cổ phần. Đến đầu tháng 10/1999 lãi suất tiền gửi không kỳ hạn chỉ còn 0, 3% trên tháng so với lãi suất 0, 8% trên tháng đầu năm 1999; lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng chỉ còn 0, 5% trên tháng so với 0, 75% trên tháng vào đầu năm 1999. Tính ra giảm 34, 5%. Hai mức lãi suất trên ngang bằng với lãi suất thời kỳ bao cấp ở miền Bắc nước ta trong những năm đấu của thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70. Có thể nói, lãi suất ngân hàng là tấm gương phản chiếu thực trạng nền kinh tế của một quốc gia hoặc lãnh thổ ở từng thời điểm. Khi nền kinh tế khủng hoảng nhất là nền kinh tế thiếu phát thì các công cụ của chính sách tiền tệ do thống đốc NHNN diều hành trở lên kém hiệu quả, trong đó có lãi suất ngân hàng IV. ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA: 1. Ảnh hưởng của lạm phát Bốn mục tiêu kinh tế cơ bản của mọi quốc gia (Kinh tế tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư ) được các nhà kinh tế thế giới ví như bốn đỉnh của một tứ giác - Tứ giác kinh tế. Bởi vậy chúng có vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế. Trong đó mục tiêu tăng trởng knh tế cao và lạm phát thấp là những mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu. Và đặc biệt là đối với nước ta, tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu quan trọng nhát bởi hai lí do: 25 Thứ nhất: Điễm xuất phát về kinh tế của nước ta rất thấp, mặc dù tốc độ GDP vẫn tăng nhưng chậm, nước ta là một trong vài chục nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới chỉ bằng 1/2 của Trung Quốc, 1/3 Indonesia, 1/4 Philippin... Vì vậy nếu nước ta không tăng trưởng kinh tế cao thì chẳng những không rút ngắn được khoảng cách so với các nước khác mà còn đứng trước một nguy cơ lớn - nguy cơ tụt hậu xa hơn nửa ddối với khu vực và thế giới. Từ đó dẫn đến nguy cơ chệch hướng diễn biến hoà bình và tiêu cực sẽ tăng lên..làm cho xã họi mất ổn định. Thứ hai: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao có tác dụng quyết định các mục tiêu còn lại về kinh tế. Tăng trưởng kinh tế cao và tạo ra nhiều hàng hoá, tạo tiền đề cho cân bằng tổng cung và tổng cầu, do đó có điều kiện kiềm chế lạm phát. Kinh tế tăng trưởng cao sẽ làm cho tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế tăng, chẳng những nâng cao mức sống mà còn tạo thêm nhiều chỗ làm mới góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm do tốc độ tăng dân số ở nước ta còn cao. Tăng trưởng kinh tế cao cũng sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu của tiêu dùng, nhu cầu tích luỹ đấu tư, giảm bớt nhập siêu, tiến tới thăng bằng cán cân thanh toán Vì vậy nền kinh tế tăng trưởng cao là mục tiêu quan trọng nhất thì lạm phát là mục tiêu quan trọng thứ hai bởi vì lạm phát chẳng những tác động trực tiếp tiêu dùng, đời sống người tiêu dùng mà còn tác động lớn tới người sản xuất, đến tốc độ tăng trưởng kinh tế Vậy lạm phát tác động đến tăng trưởng kinh tế như thế nào? Giữa lạm phát và tăng trưởng có một mối quan hệ đặc biệt và được thể hiện ở chỗ: Nếu quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, quan hệ giữa tăng trưởng và cán cân thanh toán nhìn chung là quan hệ thuận, lúc ngược chiều khó nhận biết. Và thực chất của mối quan hệ này như thế nào thì đã có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này. Có ý kiến cho rằng để nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao đòi hỏi phải có lượng vốn đầu tư lớn tức là tiền mặt rung ra thị trường trong khi sản phẩm thu hồi chậm, tất yếu sẽ dẫn đến lạm phát cao, lạm phát cao sẽ tác 26 động kính thích tăng trưởng kinh tế. Lại có ý kiến cho rằng: Để nền kinh tế tăng trưởng cao thì phải kiềm chế được lạm phát ở mức độ thấp Ta biết rằng lạm phát cao do nhiều nguyên nhân song nguyên nhân chủ yếu là trong lưu thông, tiền mặt nhiều hơn hàng. Lúc đó sẽ xảy ra các tình hình: Tiền mặt giống như hòn than “nóng” ai cũng muốn “đẩy” nhanh ra khỏi túi mình, chuyển thành hàng hoá hoặc vật quý, gây tâm lí đầu cơ tích trữ mà không dồn tiền cho đầu tư phát triển. Do đó kinh tế tăng trưởng thấp, không tăng hoặc có thể giảm sút. Tiền ra khỏi ngân hàng thì nhiều mà quay lại thì ít, tiền lưu thông lớn, giá cả hàng hoá tăng cao, thị trường lại thiếu tiền mặt. Ngân sách luôn bội chi. Ngân hàng buộc phải phát hành tiền cho kênh tín dụng bù đắp cho bội chi ngân sách càng tạo thêm vòng xoáy lạm phát Lạm phát cao tất yếu dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền cho vay đều cao, làm cho các nhà sản xuất không giám vay để phát triển kinh tế Người có tiền gửi tiết kiệm bị thiết thòi lớn do lãi suất âm(lãi suất tiết kiệm nhờ ngân hàng tăng giá) Lạm phát cao còn hạn chế khả năng phát hàng cổ phiếu, trái phiểu của doanh nghiệp vì trong trường hợp này lợi tức cổ phiếu, trái phiếu phải cao, doanh nghiệp không thể chịu đựng được . Như vậy lạm phát cao sẽ làm tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, và từ sự phân tích trên ta thấy mục tiêu điều tiết vĩ mô trong những năm tới vẫn phải đưa lên hàng đầu yêu cầu giảm lạm phát. Chúng ta phải đi theo con đường tăng trưởng cao và lạm phát thấp mới rút gắn được khoảng cách, mới đỡ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Lạm phát thấp thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển thị trường vốn trong nước. 2. Ảnh hưởng của thiểu phát trong nền kinh tế: Hiện tượng giảm phát kéo dài từ những năm 1986 đến nay đã gây ra thiểu phát, làm ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế 27 Trong 9 tháng đầu năm 1999, đặc biệt là từ tháng ba đến tháng 8 hiện tượng giảm phát diễn ra liên tục, số lạm phát dưới mức một con số (0, 2%) thấp hơn so với mục tiêu dề ra (10%) rất nhiều. Từ đó gây ra tình trạng người có vốn tự có không muốn dồn tiền vào dầu tư phát triển mà chuyển sang cho vay để hưởng lãi “đúp” bao gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất do thiểu phát, tiền lên giá. Tiền để trong “hòm” cũng có lãi là vì thế. Người không có vốn thì không giám đi vay để đầu tư phát triển, vì sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, do giảm giá, nên lợi nhuận sẽ thấp, lại còn phải trả lãi suất tiền vay nên không có lợi nhuận, thậm chí còn bị lỗ. Tiền gửi vào ngân hàng thì nhiều nhưng cho vay không hết, tất yếu hàng hoá sẽ ứ đọng vốn, tạo nên một nghịch lý: Nhu cầu tăng trưởng thì thiếu vốn, trong khi ngân hàng và đầu tư vốn lại ứ đọng. Mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là trong lưu thông, tiền mặt ít hơn hàng hoá gây ra một hiện tượng kinh tế - xã hội không bình thường. Các doanh nghiệp kinh doanh cầm chừng, thậm chí còn bị thua lỗ, hàng hoá ứ đọng ở mức cao chưa từng thấy. Tính đến hết tháng 5-1999, đường của các nhà máy sản xuất còn tồn kho trên 255. 000 tấn gấp 3 lần tồn kho cùng kỳ, than còn tồn kho trên 2 triệu tấn, xi măng trên 21 vạn tấn, lúa gạo tiêu thụ rất khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ đạt 41% so với kế hoạch. Một số loại bị giảm như: Gạo giảm 21, 7 %, lạc nhân giảm 21, 4 %, hạt điều giảm 41, 4 %... , giá xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế đều sút giảm: Giá gạo giảm xuống. Như vậy thiểu phát làm lạm phát thấp cũng làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp (thuận chiều) nhưng nếu trong điều kiện kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao mà lạm phát ở mức quá thấp thì cũng không khác gì trường hợp thiểu phát. Từ sự phân tích trên ta thấy rằng lạm phát và thiểu phát đều tác động mạnh đến nền kinh tế, nó kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, hạn chế mở rộng quy mô sản xuất, sản lượng giảm gây ra các hiện tượng tiêu cực trong xã hội: đầu tư có tích chữ, độc quyền... Như vậy "liều lượng" lạm phát như thế nào là vừa, là hợp lý để vừa có tác dụng kích thích vừa không hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế? 28 V. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 1. Biện pháp khắc phục lạm phát: Về mặt lí luận thì giải pháp chung được lựa chọn để khác phục thường là: a- Một là: Đối với cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã hầu như đều gắn chặt với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, có mức độ thâm hụt ngân sách cao, và có tốc độ tăng lương danh nghĩa cao. Vì vậy giảm mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu ngân sách và kiểm soát có hiệu quả việc tăng lương danh nghĩa chắc chắn sẽ chặn đứng và đẩy lùi lạm phát. Thực chất của giải pháp trên là tạo ra cú sốc cầu, đẩy nền kinh tế đi xuống dọc theo đường Philip ngắn hạn và có sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp. Tức là lúc này nó gây ra một mức độ suy thoái và thất nghiệp nhất định. Nếu biện pháp trên được duy trì thì nền kinh tế sẽ tự điều chỉnh và sau một thời gian giá cả sẽ đạt ở mức lạm phát thấp hơn và sản lượng trở lại tiềm năng 29 PC3 gp GP PC2 PC1 O U* U H - Đường Phillips ngắn hạn b- Hai là: Đối với lạm phát vừa phải, kiềm chế và đẩy từ từ xuống thấp hơn cũng đòi hỏi áp dụng các chính sách nói trên tuy nhiên hậu quả kéo theo là suy thoái và thất nghiệp- cái giá quá đắt nên về lâu dài, phải chăm lo mở rộng sản lượng tiềm năng bằng nguồn vốn trong và ngoài nước để đảm bảo nâng cao sản lượng, mức sống vừa ổn định, giá cả một cách vững. Cái giá phải trả của lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của chúng. Vì vậy mà các quốc gia thường chấp nhận lạm phát ỏ mức thấp và xử lí ảnh hưởng của nó bằng việc chỉ số hoá các yếu tố chi phí: tiền lương. lãi suất, giá vật tư... đó là cách tốt nhất để hạn chế thiệt hại của lạm phát. Trên thực tế ở Việt Nam chúng ta dã làm gì để chống lạm phát. Chỉ thị số 43- TTG của thủ tướng chính phủ đã được Quốc hội thông qua ngày 22-1-1996. Yêu cầu các bộ ngành và các địa phương khẩn trương thực hiện một số giải pháp chống lạm phát chủ yếu sau đây: +Một là: Tập trung mọi nguồn lực, nâng cao năng suất lao động, triệt để tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất để đẩy mạnh sản xuất 30 +Hai là: Các giải pháp về tiền tệ - tài chính phải được áp dụng một cách đồng bộ nhằm tiếp tục điều chỉnh lãi suất và tỷ giá phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới +Ba là: Các biện pháp về ngân sách Nhà nước như phấn đấu tăng thu, thực hiện triệt để tiết kiệm giảm bội chi ngân sách Nhà nước, tăng dự trữ tài chính, đảm bảo cân đối ngân sách Nhà nước vững chắc lành mạnh là biện pháp cơ bản góp phần kiềm chế lạm phát. Tăng cường công tác quản lý thu và chống thất thu thuế... +Bốn là: Các giải pháp diều hành cung cầu, thị trường và lưu thông hàng hoá: Đảm bảo lưu thông hàng hoá thông suốt trong cả nước, chống đầu cơ, tích trữ, nạn khan hiếm giả tạo, kích thích giá tăng lên, gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống. Tổ chức tốt việc thực hiện quyết định số 846 -TTG ngày 30-12-1995 của thủ tướng chính phủ về chính sách hàng hoá và điều hành công tác xuất nhập khẩu năm 1996. Ban vật giá Chính phủ phải theo dõi sát sao diễn biến giá cả thị trường, nắm bắt kịp thời các thông tin về tình hình sản xuất... để ngăn chặn các dấu hiệu dẫn đến phát sinh đột biến giá. +Năm là: Các bộ, Ngành có liên quan tổ chức bàn giao định kỳ hàng tháng để nắm chắc diễn biến tình hình về hàng hoá, tiền tệ, thị trường... để kịp thời đề xuất với chính phủ để có các biện pháp xử lí kịp thời. Trên đây là những biện pháp cơ bản vừa ở tầm vĩ mô vừa ở tầm vi mô đã được thực hiện khẩn trương ngay từ đầu năm 1996 góp phần kiềm chế lạm phát ở mức thấp chấp nhận được. Bên cạnh đó cũng góp phần thực hiện thắng lợi những nhiêm vụ kinh tế xã hội trong những năm qua. 2. Biện pháp khắc phục thiểu phát: Từ giữa năm 1998, kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng nhưng ở mức thấp và đang trên đà suy giảm Các ngành sản xuất gặp khó khăn vể thị trường và vấn đề đổi mới kỹ thuật, công nghệ. Vấn đề mất cân đối giữa hàng và tiền, thực chất là mất cân đối khối lượng hàng hoá trên thị trường với nhu cầu có khả năng thanh toán của nền kinh tế 31 và các tầng lớp dân cư rất trầm trọng. Giá cả một số hàng hoá giảm, nhưng nhiều vật tư hàng hoá bị ứ đọng. Trong khi nông dân và các doanh nghiệp lại thiếu vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh. Lãi suất và điều kiện cho vay đã không tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích dân cư và các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư vào sản xuất trong khi môi trường kinh tế đầy rấy những rủi ro bất chắc. Thực tế sản xuất hiện nay đang cầm chừng, có hiện tượng dư thừa tương đối một số sản phảm hàng hoá. Thừa ở đây không phải là so với khả năng thanh toán của xã hội mà chính là chưa có sơ chế kích thích khả năng tiêu dùng dù là khả năng tối thiểu trong các tầng lớp dân cư vậy khắc phục tình trạng thiểu phát như thế nào: Thứ nhất: Chính phủ đã củ trương đưa ra giải pháp chủ yếu là kích cầu, bởi kích cầu là giải pháp kích thích khuyến khích tiêu dùng và mục tiêu cuối cùng là tăng tổng cầu, tổng cung hàng hoá xã hội để thúc đẩy phát triển sản xuất. Giải pháp kích cầu mà Việt Nam áp dụng là kích cầu cả sản xuất và tiêu dùng, phải hướng mạnh vào thị trường trong nước, phát huy tối đa nội lực trong nước. Vì vậy "phát huy nội lực, tăng khả năng đầu tư, kích thích mạnh sản xuất và nâng cao tiêu dùng hợp lý" là một giải pháp đúng dắn kịp thời, mang tính chất chiến lược, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam. Kích cầu là sự phát huy nội lực, kích thích sản xuất trong nước, từ đó kích thích tiêu dùng. Tuy nhiên không phải cầu nào cũng kích mà chỉ kích "cầu" nào làm cho sản xuất trong nước phát triển. Nhà nước đã tăng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản để tăng khả năng vật chất từ nhiều nguồn như ngân sách Nhà nước, tín dụng, từ dân cư, từ đàu tư nước ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp). Nhà nước đã tăng bội chi ngân sách tăng vốn đàu tư từ ngân sách Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với số vốn từ ngân sách Nhà nước và huy động trong dân cư thông qua phát hành công trái xây dựng tổ quốc, Nhà nước đã tăng cường các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn: Hệ thống đường xá, cầu cống... 32 Thứ hai: Mở rông diện cho vay đối với các thành phần kinh tế trong những lĩnh vực ưu tiên như nuôi tôm xuất khẩu, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả... với lãi suất hợp lí. Tiếp tục hạ trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng xuống chỉ còn 1,05 % /tháng. Nhà nước cũng thực hiện biện pháp hỗ trợ lãi suất hoặc bù lãi suất sau đầu tư cho những dự án đã triển khai, cho dự án tạo được hàng xuất khẩu, tìm kiếm và chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước Thứ ba: Các vướng mắc về thuế, đặc biệt là thuế VAT đã được điều chỉnh và sửa đổi khẩn trương. Nhà nước đã và sẽ có nhiều giải pháp tăng sức mua xã hội bằng việc nâng mức thu nhập của nông thôn cũng như thành thị, thông qua các biện pháp cải tạo công ăn việc làm, gảm thuế, các khoản đóng góp, mở rộng tín dụng sự ưu đãi kèm theo thủ tục đơn giản. Thứ tư: Nâng cao thu nhập của những người làn việc ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, nghệ thuật, dịch vụ công cộng, công an, cán bộ viên chức. Nhà nước bằng cách cải cách chế độ tiền lương cụ thể là: tháng 10 -1999 vừa qua chính phủ quyết định thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ và đã đi vào thực hiện một cách tốt đẹp, chưa có biểu hiện gì khác thường man tính chất dối loạn cả. Thứ năm: Tích cực cải thiện cán cân thanh toán, cán cân thương mại, tăng xuất khẩu giảm nhập khẩu và cuối cùng hiện nay Nhà nước đã và đang thực hiện áp dụng các biện pháp chính như: " Chính sách nới lỏng tiền tệ", "chính sách tiền tệ mở rộng" chấp nhận lạm phát trong khả năng kiểm soát, bội chi ngân sách và tín dụng có chọn lọc nhằm đảm bảo mục tiêu kích cầu. VI. Ý KIẾN CÁ NHÂN: Mặc dù lạm phát đã được đẩy lùi, song nguy cơ thiểu phát lại đang diễn ra và kéo dài mấy tháng qua đã làm cho nền kinh tế đi vào trì trệ, kém phát triển. Một điều dễ dàng nhận thấy đó là cái giá phải trả của lạm phát và thiểu phát đều rất lớn, tuy nhiên mức độ của nó cũng có khác nhau. Nhận thấy được tác hại 33 của lạm phát và thiểu phát vá có cách phòng chống là một diều rất quan trọng. Đó là vấn đề trọng tâm trong chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia. Đối với nước ta trong vòng 10 năm đã trải qua ba thời kỳ lạm phat phi mã, siêu lạm phát và hiện nay là thiểu phát. Tình hình nền kinh tế diễn biến phức tạp, thay đổi liên tục đòi hỏi cần phải có sự phân tích kỹ lưỡng tình hình thực tế và đưa ra giải pháp thích hợp để giải quyết kịp thời. Bảng tốc độ lạm phát:(%)(1) Năm 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 Tốc độ lạm phát 774. 7 223. 1 393. 5 37. 4 67. 1 67. 5 17. 5 5. 2 14. 4 12. 7 4. 5 Nhìn bảng ta thấy rằng diễn biến lạm phát xảy ra từ 1986 -1996 có xu hướng giảm mạnh. Năm 1986 mức lạm phát là 774 % và các năm sau đó lạm phát có giảm nhưng vẫn ở mức siêu lạm phát. Từ năm 1989 lạm phát giảm đáng kể và cơ bản đã chặn dược nó. Năm 1996 lạm phát chỉ còn 4, 5 %. Hiện nay chỉ số lạm phát giảm xuống mức một con số tức 0, 2 %. Nền kinh tế rơi vào tình trạng thiểu phát. Tuy nhiên xu hướng tiềm ẩn của lạm phát vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào bởi những lí do sau: Thứ nhất: Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - tiền tệ của khu vực cũng như cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã và đang diễn ra phức tạp, chưa tìm được các phương thức khắc phục có hiệu quả. Thứ hai: Do tình trạng thiểu phát xảy ra làm giá cả giảm xuống nghiêm trọng, hàng hoá ứ đọng, các hoạt đông sản xuất - kinh doanh hoạt động cầm chừng hoặc đóng cửa, các ngân hàng thương mại có nguy cơ phá sản... Trước tình hình đó chính phủ chủ trương và đưa ra biện pháp giải quyết đó là kích cầu. Nhà nước đang áp dụng chính sách ngân sách mở rộng, chính sách tiền 1 tài liệu này trích từ Tạp chí Nghiên cứu kinh tế 8/99 34 tệ mở rộng, nhằm giảm lãi suất, nhằm mở rộng tín dụng. Lãi suất thấp, các nhà đàu tư sẽ mở rộng đầu tư, tạo thêm công ăn việc làm và công việc gia tăng. Lãi suất thấp nhiều người tiêu dùng sẽ mở rộng chi tiêu vì tiêu dùng lúc này có lợi hơn là gửi tiết. Vì vậy khối lượng tiền lưu thông sẽ tăng lên, có thể làm lạm phát tăng lên, nhưng bù lại, kích thích sản xuất tăng trưởng, nền kinh tế phát triển theo. Tuy lạm phát tăng lên nhưng đây là tỷ lệ lạm phát có chủ định. Nhà nước chấp nhận bội chi ngân sách trong một chừng mực nhất định và có thể sẽ làm giảm thu ngân sách Nhà nước do giảm thuế, khoan sức dân. Dự đoán có thể sẽ có sự đột biến giá cả trong vài tháng tới do hành động đầu cơ của một số phần tử xấu trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên vẫn chưa có gì đảm bảo chắc chắn cả. Để ổn định giá cả thị trường trong những tháng cuối năm 1999 có thể cần phải tập trung vào một số biện pháp chính sau: -Một là: Tiếp tục thực hiện đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý giá nhằm nâng cao hiệu qủa kinh tế, nâng cao hiệu quả cạnh tranh của các doanh nghiệp phù hợp với tiến trình hội nhập của nước ta vào khu vực và thế giới -Hai là: Thực hiện việc điều chỉnh giá một số loại hàng do Nhà nước định giá nếu xét thấy có cơ sở hình thành giá đã thay đổi, đồng thời có những biện pháp cụ thể để che chắn ej tác động dây chuyền của sự điều chỉnh giá. Xử lý giá các loại hàng hoá và dịch vj cung ứng cho người nước ngoài và liên doanh theo nguyên tắc chính phủ đã chỉ đạo -Ba là: Nghiên cứu xử lý chính sách giá cả góp phần khuyến khích sản xuất nông nghiệp, nông thôn miền núi, hải đảo nhằm bảo trợ sản xuất để nông dân yên tâm sản xuất. Thực hiện các biện pháp ổn định giá cả các loại vật tư phục vụ sản xuất, giá đầu ra của sản phẩm nông nghiệp. Nghiên cứu bổ sung, sửa đổi cơ chế chính sách giá đối với miền núi, đổi mới căn bản chính sách và cơ chế trợ cứu trợ giá đối với các mặt hàng văn hoá - giáo dục - y tế..Xoá bỏ cơ chế " xin cho" . 35 -Bốn là: Hướng dẫn các doanh nghiệp rà soát lại chi phí sản xuất, xác định giá bán hợp lý được thị trường chấp nhận -Năm là: Xử dụng linh hoạt chính sách phụ thu quỹ bình ổn giá cả kết hợp với chính sách thuế xuất nhập khẩu để hạn chế ảnh hưởng của thị trường thế giời vào hệ thống giá trong nước, bảo hộ sản xuất tiêu dùng. Đồng thời sử dụng có hiệu quả chinh sách hỗ trợ từ quỹ bình ổn giá kết hợp với các chính sách hỗ trợ khác nhau tác động để bình ổn giá ngăn ngừa đột biến giá xảy ra ở một số mặt hàng quan trọng. -Sáu là: "Tăng cường công tác kiểm tra thanh tra xử lý các vi phạm về việc chấp hành kỷ luật nhà nước về gía nhằm đưa việc thực hiện các quy định về quản lý giá cả đi vào nề nếp đặc biệt là công tác đăng ký giá, niêm yết giá, bán theo giá niêm yết. Tiếp tục thực hiện công tác kiểm định gía đối với đất đai, tài nguyên, vật tư thiết bị mua sắm từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. -Bấy là: Tổ chức tốt công tác nghiên cứu, thu thập, phân tích và sử lý thông tin thị trường giá cả trong nước và thế giới nhằm đề xuất kịp thời với chính phủ, các bộ, ngành có liên quan, uỷ ban nhân dân các tỉnh có biện pháp quản lý điều hành về tỷ giá lãi suất, các chính sách quản lý bình ổn thị trường. Như vậy bằng những chính sách quản lý vĩ mô của chính phủ liệu có cắt giảm được tình trạng thiểu phát như hiện nay không?. Việc các ngân hàng thương mại tiếp tục hạ trần lãi suất cho vay để kích cầu là không nên. Bởi tình trạng thiểu phát ở nước ta hiện nay không phải là do thiếu lượng tiền trong lưu thông, không phải do cầu về hàng hoá thiếu mà nguyên nhân chính ở đây vẫn là người dân không chịu tiêu dùng, không chịu đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà chỉ đem tiền gửi vào ngân hàng, vừa được lãi suất tiền gửi, vừa được lãi do thiểu phát và vì người dân không tin vào các chính sách tài chính tiền tệ cũng như chinh sách đầu tư của Nhà nước. 36 Để khác phục thiểu phát, biện pháp kích cầu là rất đúng, song nên kích cầu như thế nào cho hợp lý vừa đảm thiểu phát được ngăn chặn mà nền kinh tế vẫn tăng trưởng thì là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Theo em để kích cầu thì Nhà nước cần phải có các chính sách đầu tư hợp lý, tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư có môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, thủ tục đầu tư chặt chẽ nhưng đơn và dễ hiểu. Đảm bảo an toàn trong sản xuất kinh doanh cho họ bằng cách đảm bảo ổn định xã hội chính trị. Đây là yếu tố rất quan trọng đảm bảo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư. Mặt khác ta dễ dàng thấy rằng, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất lớn, tổng nguồn vốn của xã hội thì nhiều song vốn thuộc sở hữu của từng cá thể, từng hộ thì chưa đủ lớn để mở mang nghề nghiệp và đầu tư vào một chỗ nào đó chậm thu hồi. Vì vậy phải có chính sách khuyến khích người dân đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, từ đó có điều kiện để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm, hạ giá thành kích thích sản xuất phát triển. Tạo công ăn việc làm cho người lao động nâng cao thu nhập, sức mua cho người lao động. Hơn nữa chất lượng sản phẩm nâng cao giá thành hạ sẽ tạo điều kện thuận lợi trong cạnh tranh với hàng ngoại nhập có điều kiện mở rộng thị trường, đảm bảo sản xuất trong nước phát triển. Vì vậy bên cạnh giải pháp tăng cường thu hút vốn tiềm năng trong dân cư phải có chủ trương, giải pháp khuyến khích nông dân đầu tư cho sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm thì cũng cần phải khuyến khích nông dân mua sắm hàng tiêu dùng, tăng cường sử dụng dịch vụ cho nhu cầu thiết yếu như văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao... cả hai giải pháp trên đều có vai trò quan trọng ngang nhau trong giải quyết tình trạng thiểu phát hiện nay. 37 KẾT LUẬN Lạm phát là một vấn đề có tính tất yếu đối với mọi nền kinh tế thị trường. Trong kế hoạch hoá vĩ mô, tỷ lệ lạm phát là một chỉ tiêu đánh giá không kém phần quan trọng so với chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nên không thể tránh khỏi lạm phát vấn dề là không phải loại trừ hoàn toàn lạm phát mà là kiềm chế, đẩy lùi lạm phát trong một chừng mực có lợi cho sự tăng trưởng 38 kinh tế tránh tình trạng thiểu phát như hiện nay tức là lạm phát ở mức quá thấp dưới một con số 0, 2 %. Trong thời gian vừa qua một thành tựu nổi bật và mang tính đặc thù ở nước ta là cùng với việc đẩy lùi lạm phát chúng ta vẫn duy trì và nâng cao tốc độ phát triển kinh tế hàng năm, giảm dần được tình trạng suy thoái và thất nghiệp. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta có nhiều biến động kém ổn định và vững chắc. Vì vậy cần có biện pháp bình ổn giá cả bằng các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính tiền tệ... Để tạo động lực phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế đưa đất nước đi vào ổn định và tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí thị trường giá cả Số 3 - 1996 Số 5 - 1997 Số 2 - 1999 Số 5 - 1999 Số 7 -1999 2. Tạp chí phát triển kinh tế Số 77 năm 97 3. Tạp chí thị trường, tài chính, tiền tệ Tháng 4- 1998 Tháng 8 - 1998 4. Tạp chí tài chính tháng 9 - 1999 5. Thời báo kinh tế số 87 - 1999 40 6. Kinh tế kinh tế học Samulson V 9 S: Số tiền cần thiết trong lưu thông ..........................................................................9 S - S 9 S 9 S: Là lượng tiền đã phát hành...................................................................................9 Chi - Thu 10 Thu 10 Ip=ip. d 12 O 29 Bảng tốc độ lạm phát:(%)(1) ...................................................................................... 33

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan