Luận văn Áp dụng thuế giá trị gia tăng tại công ty bánh kẹo Hải Hà: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Áp dụng thuế giá trị gia tăng tại công ty bánh kẹo Hải Hà: Thực trạng và giải pháp: Luận văn Áp dụng thuế GIÁ TRỊ GIA TĂNG tại công ty Bánh kẹo Hải Hà -thực trạng và giải pháp lời mở đầu - Tính cấp thiết của đề tài: Thuế là một phạm trù lich sử, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Thuế được sử dụng như một công cụ chủ yếu hữu hiệu để tạo lập nguồn Tài chính (Ngân sách Nhà nước) phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để thực hiện các chức năng của mình đối với nền kinh tế xã hội . Thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô, thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, ở nước ta hiện nay hệ thống thuế bao gồm nhiều loại thuế Xuất phát từ những yêu cầu trên và xuất phát từ thực trạng áp dụng Luật thuế GTGT tại công ty Bánh kẹo Hải Hà trong thời gian qua, em mạnh dạn chọn Đề tài : áp dụng thuế GIá TRị GIA TĂNG tại công ty Bánh kẹo Hải Hà -thực trạng và giải pháp. Làm luận văn tốt nghiệp - Phạm vi nghiên cứu đề tài: Đây là loại thuế mới lần đầu tiên đưa vào áp dụng ở nước ta, trong ...

doc89 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1208 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Áp dụng thuế giá trị gia tăng tại công ty bánh kẹo Hải Hà: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Áp dụng thuế GIÁ TRỊ GIA TĂNG tại công ty Bánh kẹo Hải Hà -thực trạng và giải pháp lời mở đầu - Tính cấp thiết của đề tài: Thuế là một phạm trù lich sử, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Thuế được sử dụng như một công cụ chủ yếu hữu hiệu để tạo lập nguồn Tài chính (Ngân sách Nhà nước) phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để thực hiện các chức năng của mình đối với nền kinh tế xã hội . Thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô, thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, ở nước ta hiện nay hệ thống thuế bao gồm nhiều loại thuế Xuất phát từ những yêu cầu trên và xuất phát từ thực trạng áp dụng Luật thuế GTGT tại công ty Bánh kẹo Hải Hà trong thời gian qua, em mạnh dạn chọn Đề tài : áp dụng thuế GIá TRị GIA TĂNG tại công ty Bánh kẹo Hải Hà -thực trạng và giải pháp. Làm luận văn tốt nghiệp - Phạm vi nghiên cứu đề tài: Đây là loại thuế mới lần đầu tiên đưa vào áp dụng ở nước ta, trong đó có những nội dung quy định khác với luật thế doanh thu và cũng không hoàn toàn giống thuế giá trị gia tăng đang áp dụng ở các nước khác trên thế giới, cho nên cần phải hiểu rõ về nội dung cơ bản của thuế giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, việc chuyển từ thuế doanh thu sang thuế giá trị gia tăng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về kỷ thuật nghiệp vụ, mà là sự thay đổi cơ bản về nội dung chính sách và biện pháp tổ chức quản lý thuế nhằm làm cho chính sách thuế phù hợp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, thích ứng với nhu cầu hội nhập trong khu vực và trên thế giới. Sự thay đổi này sẽ không dễ dàng và không tránh khỏi sự tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hàng vạn doanh nghiệp và nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trong cả nước do đó để giúp các doanh nghiệp vượt qua những trở ngại ban đầu để phát triển trong cơ chế mới, chúng ta cần thấy hết những thuận lợi, khó khăn vướng mắc đó. - Phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian nghiên cứu đề tài và từ thực tiễn của việc áp dụng thuế hiện nay nên trong đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứi như: Phương pháp so sánh, phương pháp trao đổi, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác - Nội dung nghiên cứu: Với những kiến thức có được cùng với sự nhiệt tình hướng dẫn của thầy giáo, thạc sỹ Lê Vệ Quốc và các cô chú phòng kinh doanh công ty Bánh kẹo Hải Hà. Em xin hoàn thành luận văn với những nội dung cơ bản sau: Phần Một: Khái quát chung về thuế giá trị gia tăng Phần Hai: Thuế giá trị gia tăng áp dụng tại công ty Phần Ba: Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng Do kiến thức còn hạn chế và thời gian tìm hiểu thực tế chưa nhiều, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp nhằm hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu. Phần một Khái quát chung về thuế giá trị gia tăng 1.1. khái niệm về thuế giá trị gia tăng 1.1.1 Khái niệm, những vấn đề cơ sở lý luận chung về thuế - Sự cần thiết của thuế Thuế là một khoản thu bắt buộc cho Ngân sách Nhà nước do Nhà nước đặt ra và tổ chức thực hiện, đối với những đối tượng trong lĩnh vực nhất định. Nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước. Người kinh doanh trở thành nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế (Nghĩa vụ thực hiện nguyên tắc hành chính)Với tác dụng ổn định nguồn thu từ đó thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế Quốc dân. Thuế là công cụ điều tiết công bằng xã hội, thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữ các thành phần kinh tế.... Thể hiện rõ nét qua thuế suất. Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước. Thuế mang tính pháp luật và trở thành nghĩa vụ của công dân vì kèm theo nó còn có biện pháp tuyên truyền giáo dục về ý thức của công dân về nghĩa vụ nộp thuế và có cả biện pháp cưỡng chế. 7Thuế xuất hiện trong xã hội loài người do hai điều kiện: Sự xuất hiện của Nhà nước và sự xuất hiện sản phẩm thặng dư + Sự xuất hiện Nhà nước tạo quyền lực tập trung để Nhà nước ban hành luật lệ về thuế bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh. + Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong vã hội là cơ sở chủ yếu tạo khả năng và nguồn động viên về thuế Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá và sự mở rộng quan hệ thị trường, thuế động viên dưới dạng tiền tệ được hình thành và ngày càng phát triển. Thuế được xây dựng thành một hệ thống gồm nhiều sắc thuế phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh cụ thể của từng nước.. - Bản chất của thuế Nhà nước sử dụngthuế làm công cụ để phục vụ chức năng của mình. Nhà nước mang lại bản chất giai cấp nên bản chất của thuế gắn liền với bản chất giai cấp của từng loại Nhà nước. Yêu cầu động viên và mục đích của thuế tuỳ thuộc vào quan điểm từng Nhà nước, htu thuế nhằm mục đích phục vụ lợi ích riêng của thiểu số trong giai cấp thống trị hay nhằm mục đích phục vụ lợi ích của đại đa số của nhân dân lao động, của toàn dân. Thuế là một khoản đóng góp theo nghĩa vụ bắt buộc quy định trong hiến pháp và các văn bản pháp luật buộc mọi thành viên trong xã hội, mọi tổ chức(chủ yếu là tổ chức kinh tế) phải nộp cho Nhà nước. - Vai trò của thuế Nhiệm vụ chính trị - kinh tế xã hội của một Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu có vai trò ảnh hưởng đến nội dung và đặc điểm thuế khoá của Nhà nước, do đó cơ cấu và nội dung của từng sắc thuế phải thường xuyên được cải tiến, bổ sungvà đổi mới kịp thời phù hợp với tình hình nhiệm vụ của từng giai đoạn cụ thể của đất nước. Thuế có vai trò quan trọng làm lành mạnh hóa nền kinh tế quốc gia, góp phần vào kết quả của việc đổi mới đất nước, thực hiện tích cực việc cải tiến công tác hành chính thuế, từ khâu tuyên truyền giáo dục pháp luật, khâu kiểm tra, thanh tra chống thất thu Ngân sách, đưa các chúnh sách thuế vào cuộc sống... Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước số thu năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước, nhằm đảm bảo cho tiêu dùng của Nhà nước. 1.1.2. Quá trình ra đời và phát triển của thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu áp dụng từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp rộng rãi của quần chúng Nhân Dân cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Luật Thuế Doanh Thu được áp dụng ở pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu, Luật Thuế Doanh Thu chỉ được đánh vào giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ), với thuế suất thấp. Đầu năm 1920 Thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất, trong thực tế cách đánh này đã khắc phục nhược điểm về tính chất trùng lắp thuế của thuế doanh thu. Nói cách khác sản xuất ra càng nhiều khâu thì thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm này, năm 1936 Pháp đã cải tiến thuế doanh thu qua hình thức đánh thuế một lần vào công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất (tức là khi sản phẩm được đưa ra tiêu thụ lần đầu). Như vậy việc đánh thuế độc lập, một lần với độ dài của quá trình sản xuất, khắc phục hiện tượng đánh thuế trùng lắp trước đó. Tuy nhiên, chính sách thuế này lại phát sinh nhược điểm là việc thu thuế bị chậm trễ so với trước, vì chỉ khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu Nhà nước mới thu được thuế.... Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung, thuế doanh thu vẫn còn nhược điểm nổi bật là thu thuế chồng lên thuế, trùng lắp.... Đến năm 1954, Chính Phủ Pháp đã ban hành một loại thuế mới với tên gọi là thuế giá trị gia tăng (GTGT) và được viết tắt là VAT(Value Add Tax). Lúc đầu thuế GTGT được ban hành để áp dụng trước với ngành sản xuất, chủ yếu tránh việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp, với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ khấu trừ trước đối với nguyên liệu, vật liệu. Đến năm 1966 trong xu hướng cải tiến hệ thống thuế “đơn giản và hiện đại” chung ở Châu Âu, thuế GTGT được ban hành chính thức để thay thế một số sắc thuế gián thu. Khai sinh từ nước Pháp, thuế GTGT nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên Thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay đã có trên 100 nước áp dụng thuế GTGT, chủ yếu là các nước Châu Phi, Châu Mĩ la tinh, các nước trong khối cộng đồng Châu Âu (EC) và một số nước Châu á. Về tên gọi có nhiều nước gọi là thuế giá trị gia tăng điển hình là Pháp, Anh, Thuỳ Điển....Một số nước gọi là thuế hàng hoá dịch vụ như Canada, Niu Dilân.... ở Phần lan, áo, Đức vẫn dùng tên gọi cũ là thuế doanh thu, với quan điểm cho rằng, đây không phải sắc thuế mới mà bản chất vẫn là thuế doanh thu cũ, chỉ thay đổi nội dung biện pháp thu. Mặt khác các nước này còn có lập luận cho rằng đối với hàng nhập khẩu, thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị hàng nhập khẩu, nên không còn ý nghĩa thuế đánh trên giá trị tăng thêm nữa.... Nhìn chung, các nước áp dụng thuế GTGT vì thấy rõ nhược điểm của hệ thống thuế đang tồn tại ở nước họ ở các mặt. - Thuế doanh thu tính chồng chéo, không đáp ứng được yêu cầu của chính sách động viên hợp lý về thuế. - Thuế quan đối với hàng nhập khẩu có trường hợp phải miễn giảm để phục vụ quan hệ hợp tác trong khu vực hoặc trên thế giới, vừa gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa không bảo vệ nội địa. - Có nhiều sắc thuế làm cho hệ thống thuế trở nên nặng nề, cần phải thay thế bằng thuế giá trị gia tăng để có thể bao quát được đối tượng đánh thuế, nhằm động viên đóng góp của người tiêu dùng. - Sự phát triển của hệ thống thuế không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế. - Khắc phục tình trạng thất thu thuế cho Ngân sách Nhà nước. 1.1.3. Thuế Giá Trị Gia Tăng. - Thuế Giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. - Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất lưu thông đến tiêu dùng. Nó là giá trị tăng thêm đối với sản phẩm, hàng hoá hoặc dịch vụ do cơ sở sản xuất, chế biến, buôn bán hay dịch vụ tác động vào nguyên liệu thô hay hàng hoá mua vào, làm cho giá trị hàng hoá của chúng tăng thêm. Nói cách khác đây là số chênh lệch giữa “giá đầu ra” với “giá đầu vào” do đơn vị kinh tế tạo ra trong qúa trình sản xuất . Có hai phương pháp tính trị giá gia tăng: - Phương pháp cộng: Trị giá gia tăng(TGGT) là trị giá của yếu tố cấu thành giá trị tăng thêm của sản phẩm. TGGT = Tiền công lao động + lợi nhuận - Phương pháp trừ: trị giá gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá đầu ra của sản phẩm (trị giá khâu sau của sản phẩm) với giá đầu vào của sản phẩm (giá trị nguyên vật liệu mà nhà kinh tế sử dụng để tạo ra sản phẩm) TGGT = Giá đầu ra - Giá đầu vào Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu đánh vào sự tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.Thuế giá trị gia tăng do các nhà sản xuất, kinh doanh, và cung cấp dịch vụ nộp, nhưng người tiêu dùng là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hoá, dịch vụ. Thực chất đây là loại thuế đánh vào người tiêu dùng. Thuế giá trị gia tăng chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của hàmg hoá, dịch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất và lưu thông. Chỉ người bán hàng hoá, dịch vụ lần đầu phải nộp thuế trên toàn bộ doanh thu bán hàng, còn người bán hàng hoá, dịch vụ ở những khâu tiếp theo chỉ đóng thuế ở phần tăng thêm. Nói cách khác thuế GTGT là sắc thuế duy nhất thu theo phân đoạn chia nhỏ trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Đến cuối cùng số thuế thu được ở mỗi công đoạn sẽ khớp với số thuế tính theo giá bán hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng cuối cùng. 1.1.4. Căn cứ tính thuế Giá trị gia tăng: Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất: - Giá tính thuế giá trị gia tăng ; Theo quy định tại điều 7 Luật thuế GTGT và điều 6 của Nghị định số 28/1998/NĐCP, giá tính thuế giá trị gia tăng của hàng hoá dịch vụ được xác định cụ thể như sau: - Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng. - Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng (+) với thuế nhập khẩu; Giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế giá trị gia tăng được xác định theo các quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu. Hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu, tặng. Giá tính thuế giá trị gia tăng được xác định theo giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh hoạt động này. - Hoạt động cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà xưởng, kho tàng, bến, bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị .... Giá để tính thuế GTGT là giá chưa có thuế . Trường hợp cho thuê theo từng kỳ hoặc trả trước tiền thuê cho một thời hạn thuê, giá trị gia tăng tính trên số tiền thuê trả từng kỳ hoặc trả trước, bao gồm cả chi trả dưới hình thức khác như cho thuê nhà có thu tiền hoàn thiện, sữa chữa nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu bên thuê. - Đối với hàng hoá trả theo phương thức trả góp, tính theo phương thức trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó (không bao gồm trả lãi góp), không tính theo số tiền trả góp từng kỳ. - Đối với gia công hàng hoá, giá tính thuế là giá gia công chưa có thuế, bao gồm: Tiền công, tiền nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác để gia công. - Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt trang thiết bị cho các công trình xây dựng ( không phân biệt bao thầu hay không bao thầu nguyên liệu, vật tư..) giá tính thuế GTGT là giá xây dựng, lắp đặt chưa có thuế giá trị gia tăng . Trường hợp xây dựng lắp đặt công trình thực hiện thanh toán và theo đơn giá và tiến độ hạn mục công trình, phần công việc bàn giao thì thuế giá trị gia tăng tính trên phần giá trị hoàn thành bàn giao. - Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng như đại lý mua, bán hàng hoá, đại lý tàu biển, dịch vụ môi giới, uỷ thác xuất nhập khẩu hưởng hoa hồng, giá tính thuế GTGT là tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng chưa trừ một khoản phí tổn nào mà cơ sở thu được từ việc thực hiện hoạt động này. Hàng hoá do đại lý bán ra vẫn phải tính thuế GTGT trên giá bán ra. - Đối với hoạt động vận tải, bốc xếp giá tính thuế GTGT là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế giá trị gia tăng. - Đối với hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù, dùng các chứng từ như tem bưu chính, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết .... Ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng, thì giá chưa có thuế được xác định như sau. Giá chưa có giá thanh toán (tiền vé, tiền tem) Thuế GTGT = ------------------------------------- ---------- 1 + (%) thuế suất của hàng hoá dịch vụ - Thuế suất giá trị gia tăng Theo quy định tại điều 8 Luật Thuế giá trị gia tăng và điều 7 Nghị định số 28/1998/NĐCP cuả Chính Phủ về thuế suất của thuế giá trị gia tăng được quy định như sau. - Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng hoá gia công xuất khẩu, xuất khẩu bao gồm xuất ra nước ngoài, xuất vào khu chế xuất. - Thuế suất 5% đối với hàng hoá dịch vụ. * Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt do các cơ sở sản xuất, kinh doanh nước khai thác từ nguồn nước tự nhiên cung cấp cho các đối tượng sử dụng nước (trừ nước sạch do các cơ sở tự khai thác ở nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa để phục vụ sản xuất sinh hoạt thì ở vùng đó không thuộc diện chịu thuế ). * Phân bón, quặng để sản xuát phân bón, thuốc trừ sâu bệnh và thuốc kích thích vật nuôi cây trồng. * Thiết bị dụng cụ y tế, bông băng vệ sinh y tế, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh .... * Thiết bị dụng cụ dùng để giảng dạy học tập . * Đồ chơi cho trẻ em, sách khoa học, kỹ thuật, sách văn học nghệ thuật, sách phục vụ thiếu nhi, sách pháp luật (trừ sách quy phạm pháp luật không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng theo quy định của Nhà nước). * Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chưa qua chế biến gồm cả cây giống, con giống, hạt giống. * Lâm sản (trừ gỗ, măng) chưa qua chế biến thực phẩm tươi sống. * Sản phẩm bằng đay, cói, tre,nứa, lá.... * Bông sơ chế biến từ bông tròng trong Nước . * Thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác . * Dịch vụ khoa học kỹ thuật . * Dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. - Mức thuế suất 10% là mức thuế phổ biến áp dụng đối với các hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế 0%, 5%, 20%. - Mức thuế suất 20%áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ: * Vàng, bạc, đá quý do cơ sở kinh doanh mua vào bán ra . * Khách sạn, du lịch, ăn uống, đại lý tàu biển, dịch vụ môi giới. * xổ số kiến thiết và loại hình xổ số khác. 1.1.5. Phương pháp tính thuế. Xuất phát từ nội dung của thuế giá trị gia tăng khi nghiên cứu thuế GTGT các nhà kinh tế đã đưa ra 4 hình thức cơ bản của thuế GTGT . - Hình thức thứ nhất: Thuế GTGT được tính dựa vào phương pháp trực tiếp-phương pháp kế toán- bằng cách lấy thuế suất (t) nhân (x) với giá trị tăng thêm (giá trị tăng thêm = tiền công + lợi nhuận) Thuế giá trị gia tăng = t x (tiền công +lợi nhuận) - Hình thức hứ hai: Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng được tính dựa vào phương pháp cộng gián tiếp, tức là không dựa vào giá trị tăng thêm mà căn cứ vào từng thành phần riêng biệt của nó là tiền công, lợi nhuận cụ thể. Thuế giá trị gia tăng=t x (tiền công) + t x(lợi nhuận) - Hình thức thứ ba: Thuế giá trị gia tăng được tính dựa trên phương pháp trừ trực tiếp hay phương pháp kế toán, dùng cơ sở tính giá trị tăng thêm là phần chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào vào cụ thể: Thuế giá trị gia tăng = t x (giá đầu ra trừ thuế đầu vào) - Hình thức thứ tư: Thuế giá trị gia tăng được tính dựa vào phương pháp trừ gián tiếp (còn gọi là phương pháp hoá đơn hay phương pháp khấu trừ ) Theo phương pháp này thuế giá trị gi tăng phải nộp được xác định trên cơ sở lấy thuế tính trên giá đầu ra trừ thuế tính trên giá đầu vào. Thuế giá trị gia tăng = t x (giá đầu ra) - t x (giá đầu vào) Trong 4 hình thức tính thuế GTGT trên thì 3 hình thức đầu tiên hầu như chỉ tồn tại về mặt lý thuyết, còn trong thực tế người ta ít áp dụng. Còn ở nước ta hiện nay tồn tại hai phương pháp tính cơ bản là: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp tính trên giá trị gia tăng. 1.1.5.1. Phương pháp khấu trừ thuế - Đối tượng áp dụng: là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các công ty cổ phần, hợp tác xã và cá đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng nói tại điểm dưới đây. - Xác định thuế giá trị gia tăng phải nộp: số thuế gía trị gia tăng phải nộp bằng(=) Thuế GTGT đầu ra trừ (-) thuế GTGT đầu vào trong đó ; + Thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng (=) giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân (x) với thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng chịu thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hang hoá, dịch vụ phải tính và thu thuế giá trị gia tăng khi bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá dịch, dịch vụ cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế , thuế giá trị gia tăng và tổng số tiền người mua phải thanh toán, Trường hợp chỉ ghi giá thanh toán, không ghi thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ thì thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toánghi trên hoá đơn, chứng từ. + Thuế giá trị gia tăng đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn, chứng từ GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc hoá đơn của hàng hoá nhập khẩu. Thuế GTGT đầu vào cơ sở được khấu trừ quy định như sau. * Thuế đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ. * Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của háng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho. Ví dụ: Công ty Bánh kẹo Hải Hà sản xuất kẹo trong tháng 01/2000 bán ra 200 tấn kẹo, giá bán mỗi tấn là 800.000 đồng/tấn ( giá chưa có thuế) thuế GTGT phải nộp là 10% (giá mua của người thanh noán là 880.000 đồng/tấn) cũng trong tháng công ty đã mua một số nguyên liệu để dùng cho sản xuất,kinh doanh Bánh kẹo là. Căn cứ các chứng từ, hoá dơn GTGT mua nguyên liệu số thu thuế GTGT đầu vào được xác định như sau: Hàng hoá mua vào đơn vị tính Số lượng mua Giá đơn vị tính Thành tiền Thuế GTGT đầu vào Bột mì Tấn 100 0.5trđ/tấn 50.000000 5000.000 đường, sữa Tấn 100 0.4đ/tấn 40.000000 4.000.000 điện,dầu.. KW 5000 700đ/KW 3.500.000 350.000 Tổng cộng 93.500.000 9.350.000 - Giả định các loại nguyên liệu mua vào chỉ để sản xuất bánh kẹo, thì thuế GTGT mà công ty phải nộp trong tháng là : - Số thuế GTGT đầu ra, tính trên số bánh kẹo mà công ty bán ra: 800.000đ x 200 tấn x 10% = 16.000.000 đồng - Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là: 9.350.000 đồng. Số thuế GTGT công ty phải nộp trong ttháng là: 16.000.000 - 9.350.000 = 6.650.000 đồng Trường hợp cơ sở kinh doanh không có hoá đơn chứng từ hoặc có hoá đơn, chứng từ nhưng không phải hoá đơn, chứng từ GTGT hoặc hóa đơn GTGT nhưng không ghi số thuế GTGT riêng ngoài giá bán thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, trừ các trường hợp được quy định sau đây: + Trường hợp hàng hoá dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có sẵn thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế và để xác định giá không có thuế và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ ví dụ: Trong kỳ công ty A thanh toán dịch vụ đầu vào được tính khấu trừ là đặc thù: Tổng giáthanh toán 110 triệu đồng (giá có thuế GTGT), dịch vụ này chịu thuế suất 10%, số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ tính như sau: 110 triệu ---------- x 10% =10 triệu đồng. 1+10% Giá chưa có thuế là 100 triệu, thuế GTGT là 10 triệu. Trường hợp cơ sở mua hàng hoá nguyên vật liệu là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất bán ra không có hoá đơn sẽ được khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ phần trăm(%) tính trên giá trị hàng hoá mua vào. 1.1.5.2.Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng trực tiếp trên giá trị gia tăng + Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng là: - Cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế ở Việt Nam. Tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 66/HĐBT ngày 02/03/1992 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là chính phủ). - Các hộ kinh tế gia đình sản xuất kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 29/HĐBT ngày 09/03/1998 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là chính phủ) về kinh tế gia đình bao gồm cả những hộ nông dân có hoạt động chế biến sản phẩm nông sản do mình trực tiếp làm ra. * Cá nhân kinh doanh lưu động (buôn chuyến) * Người cho thuê nhà, kho, bến bãi và các tài sản khác.... * Cá nhân nhóm cá nhân hành nghề tự do. * Các cá nhân, nhóm cá nhân làm việc trong các tổ chức nhận khoán, kể cả cán bộ công nhân viên làm việc trong các Doanh nghiệp Nhà Nước tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. + Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế: - Căn cứ tính thuê giá trị gia tăng đối với hộ cá thể nộp theo phương pháp trực tiếp là giá trị gia tăng và thuế suất. Số thuế GTGT phải nộp của các hộ kinh doanh được xác định theo công thức sau: Số thuế giá trị gia tăng thuế suất GTGT = của hàng hoá, dịch x thuế phải nộp vụ chịu thuế GTGT - Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ là số chênh lệch giữa doanh số bán (đã có thuế GTGT) và doanh số mua vào (đã có thuế GTGT ) đối với từng trường hợp cụ thể được xác định như sau; * Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán theo quy định thì giá trị gia tăng được xác định căn cứ vào doanh số bán ra của hàng hoá, dịch vụ phản ánh trên hoá đơn, chứng từ hợp lệ trừ đi doanh số mua vào cũng phản ánh đầy đủ trên hoá đơn, chứng từ hợp lệ của hàng hoá, dịch vụ. Giá trị gia tăng Giá thanh toán giá thanh toán của Của hàng hoá, = của hàng hoá, _ hàng hoá, dịch vụ dịch vụ dịch vụ bán ra mua vào tương ứng Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra là giá thực tế bên mua phải thanh toán cho bên bán, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm (nếu có) mà bên mua phải thanh toán. Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng của hàng hoá, dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào (giá mua bao gồm cả thuế GTGT ) mà cơ sở kinh doanh mua vào để sản xuất hàng hoá dịch vụ bán ra. Ví dụ: Một Đại lý của công ty Bánh kẹo Hải Hà, đại lý này mua, bán đều có hoá đơn, chứng từ theo quy định và mở sổ sách kế toán ghi chép đầy đủ ; Trong tháng 1/2000 doanh số bán ra gồm cả thuế GTGT mà người mua đã thực trả tiền là 210 triệu, giá mua vào tương ứng với giá hàng bán ra (bao gồm cả thuế GTGT) trong tháng là 180 triệu đồng. Thuế GTGT mà đại lý phải nộp trong tháng 1/2000 là: (210triệu đồng - 180 triệu đồng ) x 10% = 3 triệu đồng. * Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh mà giá trị gia tăng là số chênh lệch giữa doanh số bán hàng và doanh số vật tư, hàng hoá mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở không hoạch toán được doanh số hàng hoá, vật tư, dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số bán ra thì được xác định như sau: Giá vốn hàng bán ra bằng(=) trị giá hàng hoá tồn đầu kỳ, cộng (+) trị giá hàng hoá mua trong kỳ, trừ (-) hàng hoá tồn cuối kỳ. Ví dụ: Hộ A kinh doanh, sản xuất đồ gỗ trong tháng bán được 150 sản phẩm, tổng doanh số bán là 25 triệu đồng, trong đó giá vật tư, nguyên liệu mua ngoài để sản xuất 150 sản phẩm là 19 triệu đồng. Thuế suất thuế GTGT 10% thuế GTGT hộ A phải nộp Giá trị gia tăng cuả Sản phẩm gỗ là: 25 - 19 = 6 triệu đồng. Thuế GTGT hộ A phải nộp trong tháng 1/2000 là : 6 triệu đồng x 10% = 0.6 triệu đồng. * Đối với hoạt động xây dựng lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư, nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phuc vụ hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạn mục công trình. * Đối với hoạt động vận tải là chênh lệch giữa tiền cước thu vận tải, bốc xếp trừ(-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và các chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải. * Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống là số chênh lệch giữa tiền thu về bán hàng hoá ăn uống, tiền phụ thu khác trừ (-) doanh số hàng hoá, dịch vụ mua ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống. * Đối với hoạt động cho thuê nhà, thuê kho bãi, tài sản là chênh lệch giữa tiền thu về cho thuê trừ (-) giá vật tư, nguyên vật liệu để sửa chữa, chi phí điện nước ... . nếu bên cho thuê phải thanh toán. Trường hợp các chi phí sửa chữa, chi phí điện nước bên đi thuê bỏ ra thì doanh thu tính thuế chính là tiền cho thuê. * Đối với hoạt động uỷ thác mua, đại lý bán có hai trường hợp : - Trường hợp bán đại lý hưởng hoa hồng, bên bán bán đúng giá do bên giao quy định có hoá đơn chứng từ hợp lệ thì không tính thuế trên hoa hồng đại lý. - Các trường hợp khác (đại lý độc quyền, đại lý bao tiêu, đại lý phân phối ....) giá tính thuế là giá thực tế bán ra đã có thuế GTGT . Các hoạt động khác (đại lý vận tải, đại lý tàu biển ....) giá tính thuế là giá thực tế bên giao đại lý thanh toán. * Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ theo hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đầy đủ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ thì giá trị gia tăng được xác định bằng (=) doanh thu nhân (x) tỷ lệ(%) giá trị gia tăng trên doanh thu. Ví dụ : Nhà hàng A doanh thu bán hàng trong tháng 1/2000 là 80 triệu đồng (có đầy đủ hoá đơn bán hàng) nhưng nhà hàng không tập hợp được hoá đơn, chứng từ mua. Giả định giá trị gia tăng theo quy định (theo hướng dẫn của tổng cục thuế) là 30% Giá trị gia tăng = 80 triệu đồng x 30% =24 triệu đồng. Thuế giá trị gia tăng là : 24 tr.đồng x 20% = 4,8 triệu đồng . * Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ để ấn định mức doanh thu tính thuế: Giá trị gia tăng được xác định bằng (=) doanh thu ấn định nhân (x) với tỷ lệ (%) giá trị gia tăng được tính trên doanh thu. Tỷ lệ giá trị gia tăng : Theo quy định của Bộ tài chính trong hướng dẫn Luật thuế GTGT và Nghị định của Chính Phủ quy định chi tiết Luật thuế GTGT thì tổng cục thuế xác định tỷ lệ GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế GTGT phù hợp với ngành nghề và hợp lý giữa các địa phương . - Phương pháp tính thuế doanh thu So với Thuế GTGT thì thuế doanh thu có rất nhiều điểm khác biệt nhưng điểm khác biệt lớn nhất, rõ ràng nhất và cũng là nhược điểm nổi bật nhất của thuế doanh thu đó là sự chồng chéo của thuế mục tiêu của thuế đánh vào tiêu dùng là thu trên sản phẩm tiêu thụ nhưng cách đánh thuế doanh thu khiến cho tổng số thuế phải nộp là quá nặng và vô lý, việc tính thuế Doanh thu được tính như sau: Thuế doanh thu = Doanh thu chịu thuế x Thuế suất để có cái nhìn khái quát về sự khác biệt này chúng ta phân tích ví dụ sau ví dụ; Người thu mua mía của nông dân, bán một tấn mía với giá 100.000 đồng, (giả sử thuế suất thuế doanh thu là 4%) sẽ phải nộp thuế 4000 đồng. Nhà máy đường mua mía về sản xuất được 100 kg đường thô và bán ra với giá 200.000 sẽ phải nộp thuế 8000 đồng. Nhà máy đường mua đường thô về lọc lại được 80kg và bán sỷ cho đại lý với giá 300.000 đồng sẽ phải chịu thuế 12.000 đồng. Đại lý bán lẻ với giá 350.000 đồng phải chịu thuế 14000. Người bán lẻ bán cho người tiêu dùnglà 400.000 đồng, phải chịu thuế 15.600 đồng. Vậy qua 5 giai đoạn 80 kg đường đã phải chịu thuế là 15.600 đồng, nếu còn qua nhiều giai đoạn thì thuế càng tăng lên nữa. Thuế chồng lên thuế là vì doanh thu được cộng vào giá bán của giai đoạn trước, giá bán của giai đoạn trước lại nhập vào giá thành của giai đoạn sau, khi bán ra phải chịu thuế trên giá bán, vì vậy thuế suất chỉ có 4% nhưng qua 5 giai đoạn mức thuế đã lên tới 13,4% (53.600/400.000). Ngược lại nếu nhà máy đường mua mía của của nông dânvà sản xuất khép kín thành 80 kg đường và bán với giá 350.000 thì phải chịu 2 lần thuế là khâu sản xuất 4.000 đồng và khâu bán lẻ 14.000 tổng cộng phải nộp 18.000 đồng. Qua đó chứng tỏ sự không công bằng không rõ ràng trong xử lý. Giải thích: Nếu đánh thuế theo phương pháp thuế GTGT thì người nộp thuế được khấu trừ các khoản thuế GTGT noọp trước đó, giả sử thuế suất Thuế GTGT là 10% thì khi 80 kg đến tay người tiêu dùng dù có phải trải qua bao nhiêu công đoạn cũng chỉ phải nộp 40.000 đồng (400.000x10% = 40.000) mặc dù thuế suất thuế doanh thu cao hơn nhưng mức thuế phải nộp cho 80 kg đường lại thấp hơn và hợp lý hơn vì thuế không phải đánh trùng. 1.1.6. Quy trình thực hiện thuế giá trị gia tăng + Quy trình đối với người nộp thuế: Đó là những công việc mà cơ sở kinh doanh phải làm theo một trình tự nhất định. Các công việc đó bao gồm: - Đăng ký nộp thuế - Lập, tiếp nhận và quản lý hoá đơn, chứng từ trong hoạt động kinh doanh. - Tổ chức hạch toán kế toán cá hoạt động kinh doanh và các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến thuế GTGT. - Tính thuế, kê khai thuế, khấu trừ thuế. - Nộp thuế. - Làm thủ tục xin hoàn thuế. - Quyết toán thuế. + Quy trình thực hiện thuế GTGT đối với cơ quan thuế. - Hướng dẫn và tổ chức cho các cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế. - Quản lý mã số, đối tượng nộp thuế. - Tiếp nhận tờ khai thuế. - Kiểm tra việc kê khai, thông báo số thuế phải nộp, và đôn đốc nộp thuế. - Tiếp nhận và xem xét hồ sơ và làm thủ tục giảm thuế. - Tiếp nhận hồ sơ, làm thủ tục và thực hiện hoàn thuế. - Quyết toán thuế. - Cưỡng chế thuế. 1.1.5.1. Tóm tắt quy trình thực hiện thuế (sơ đồ trang sau) + Đăng ký nôp thuế - Các đối tượng quy định nêu trên đều phải đăng ký kê khai nộp thuế tại chi cục thuế quận huyện nơi có địa điểm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, lao động vốn nơi nộp thuế và các chỉ tiêu khác theo mẫu đăng ký nộp thuế và hướng dẫn của cơ quan thuế. Đối với hộ mới ra kinh doanh, thời gian đăng ký nộp thuế chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày ra kinh doanh. Các hộ đăng ký có thay đổi ngành nghề, mặt hàng kinh doanh thêm ngành nghề phải đăng ký bổ sung hoặc có đơn gửi đến cơ quan thuế chậm nhất 5 ngày trước khi có sự thay đổi đó. + Kê khai thuế giá trị gia tăng phải nộp. Theo quy định của Luật thuế GTGT hàng tháng hộ kinh doanh phải lập tờ khai tính thuế GTGT theo mẫu quy định của Bộ tài chính để phù hợp với phương thức quản lý của cơ quan thuế, việc kê khai thuế cần thực hiện như sau: - Hộ kinh doanh thực hiện chế độ kế toán, chế độ hoá đơn chứng từ nộp thuế theo phương pháp kê khai thì thực hiện kê khai hàng tháng, thời hạn nộp tờ khai thuế chậm nhất là 5 ngày của tháng sau. - Những hộ kinh doanh được cơ quan thuế ấn định doanh thu để tính thuế GTGT và ổn định mức thuế trong một thời gian nhất định (3 tháng, 6 tháng, 1 năm.) thời hạn kê khai và nộp tờ khai chậm nhất là ngày 10 của tháng cuối cùng thời hạn ấn định. Hộ kinh doanh được cơ quan thuế ổn định mức thuế, nếu trong thời gian ổn định tình hình kinh doanh có thay đổi làm số thuế GTGT tháng tăng hoặc giảm từ 20% trở lên thì hộ kinh doanh phải khai báo lại với cơ quan thuế để cơ quan thuế tính lại số thuế phải nộp . Đối với hộ kinh doanh buôn chuyến phải kê khai và nộp thuế theo từng chuyến hàng với cơ quan thuế nơi mua hàng trước khi vận chuyển hàng đi. + Nộp thuế giá trị gia tăng : Các hộ kinh doanh phải nộp thuế GTGT vào Kho Bạc Nhà Nước theo đúng số thuế, ngày nộp thuế và địa điểm nộp thuế ghi trong thông báo nộp thuế. Thời gian thông báo nộp thuế của tháng đối với các hộ kinh doanh do cơ quan thuế xác định phù hợp với từng ngành nghề, địa bàn. Đối với từng hộ kinh doanh (trừ đối tượng nộp thuế theo kê khai) cơ quan thuế tổ chức thu thuế và nộp vào Ngân Sách Nhà nước (NSNN ) đối với những địa bàn xa kho bạc nhà nước, hoặc kinh doanh lưu động, không thường xuyên. Thời hạn cơ quan thuế nộp tiền thuế vào NSNN chậm nhất không quá 3 ngày (kể từ ngày thu được tiền thuế); Đối với vùng hải đảo, vùng đi lại khó khăn thì chậm nhất không quá 6 ngày. Địa điểm nộp thuế được quy định cụ thể như sau: - Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ nộp thuế theo kết quả kinh doanh kê khai, hộ kinh doanh lớn, địa điểm nộp thuế theo quy định tại Kho Bạc Nhà Nước quận huyện, thị xã, hoặc theo địa điểm Kho bạc Nhà nước chỉ định. - Các trường hợp khác nếu thuận tiện cũng trực tiếp nộp vào Kho bạc Nhà Nước hoặc tại trụ sở UBND phường, xã, thị trấn, trụ sở Chi cục thuế, đội thuế. Cơ quan thuế tổ chức thu thuế tại trụ sở UBND phường, xã, đội thuế thực hiện đúng quản lý biên lai thuế, thanh toán biên lai thuế, nộp tiền thuễvào Kho bạc Nhà nước. + Quyết toán thuế GTGT. Tất cả cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế (trừ hộ kinh doanh vừa và nhỏ nộp thuế theo mức ấn định doanh thu, hộ kinh doanh buôn chuyến nộp thuế theo từng chuyến hàng ) đều phải thực hiện quyết toán thuế GTGT với cơ quan thuế. + Hoàn thuế giá trị gia tăng. Đối tượng và trường hợp được hoàn thuế GTGT: + Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau: - Có số thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quý thường xuyên lớn hơn số thuế đầu ra pháp sinh các tháng trong quý. Để có cơ sở giải quyết hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh, cơ sở phải lập hồ sơ đề nghị xét hoàn thuế GTGT đã nộp. - Cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng lần xuất khẩu với số lượng lớn, nếu phát sinh số thuế đầu vào được khấu trừ lớn thì được xét hoàn thuế GTGT theo từng kỳ hoặc từng tháng. + Đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế có đầu tư, mua sắm tài sản cố định, có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn. + Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể phá sản có số thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế GTGT nộp thừa . 1.1.5.2. Miễn giảm thuế giá trị gia tăng: + Miễn giảm thuế đối với hộ xin nghỉ kinh doanh : Hộ cá thể nghỉ kinh doanh trong tháng từ 15 ngày trở lên được xét giảm 50% số thuế phải nộp của tháng, nếu nghỉ cả tháng thì được miễn nộp thuế của tháng đó. Việc xét miễn, giảm thuế cho hộ xin nghỉ kinh doanh được thực hiện như sau: - Hộ kinh doanh phải có đơn xin nghỉ kinh doanh nộp cơ quan thuế trước 5 ngày bắt đầu nghỉ. Trường hợp vì lý do đột xuất như ốm, bị thiên tai hoặc công việc đột xuất khác thì chậm nhất không quá 5 ngày kể từ ngày bắt đầu nghỉ kinh doanh phải nộp đơn cho đội thuế quản lý. - Đơn xin nghỉ kinh doanh phải có xác nhận của UBND xã hoặc ban quản lý chợ. - Đội thuế nhận đơn xin nghỉ phải xem xét đơn cụ thể, xác nhận vào đơn và chuyển cho bộ phận kiểm tra của chi cục. - Bộ phận kiểm tra nhận được đơn xin nghỉ đã có xác nhận của đội thuế phải tổ chức kiểm tra xác minh lại, nếu đúng thì cũng phải xác nhận vào đơn xin nghỉ . - Căn cứ vào đơn xin nghỉ đã có xác nhận của UBND phường, xã, đã được kiểm tra và xác nhận của đội thuế và bộ phận kiểm tra thì lãnh đạo Chi cục thuế mới ra quyết định miễn, giảm thuế. - Hộ kinh doanh được miễn, giảm thuế trong thời gian nghỉ kinh doanh nếu ra kinh doanh sớm hơnhoặc muốn nghỉ thêm đều phải báo cáo với cơ quan thuế theo đúng quy định. + Miễn giảm thuế đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp: Theo quy định của Luật thuế GTGT thì hàng hoá, dịch vụ của cá nhân kinh doanh có mức thu nhập bình quân thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với công chức Nhà Nước. Đồng thời hộ kinh doanh phải tự làm làm đơn xin miễn giảm, được sự kiểm tra của Chi cục thuế, xác minh của Hội Đồng tư vấn thuế xét thấy thực tế thì chủ hộ được chi cục thuế ra quyết định miễn thuế GTGT . 1.2. vai trò và phạm vi áp dụng của thuế GTGT. 1.2.1. Vai trò Thuế GTGT có vai trò khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, đơn giản trung lập và công bằng, thuế GTGT được coi là loại thuế tiến bộ nhất hiện nay, vai trò của thuế GTGT được thể hiện qua các nội dung sau. - Tạo lập nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Thuế GTGT là loại thuế gián thu, người sản xuất kinh doanh là người nộp thuế nhưng thực chất người tiêu dùng là người chịu thuế, vì vậy thuế giá trị gia tăng có phạm vi thu rất rộng. Cho nên với mức thuế suất quy định không cao nhưng đem lại nguồn thu rất lớn cho Ngân sách Nhà nước, thuế GTGT tập trung phần lớn số thuế vào từng sản phẩm hàng hoá ngay từ khâu đầu tiên do đó có khả năng hạn chế rất lớn số thất thu thuế cho Ngân sách tốt hơn thuế doanh thu. Việc thu thuế và khấu trừ thuế dựa trên chứng từ, hoá đơn đã thúc đẩy việc mua bán có chứng từ, hoá đơn, tạo cơ sở pháp lý cho việc thu thuế sát hơn với thực tế kinh doanh. Trường hợp thất thu thuế ở khâu trước sẽ khắc phục ở khâu sau. Song cũng không thể xây dựng mức thuế suất thuế GTGT quá cao, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, tác động không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến Ngân sách Nhà nước. Với thuế suất thuế GTGT tương đương hoặc cao hơn 5%-10% so với thuế doanh thu, sẽ mang tính khả thi, tạo được số thu cho Ngân sách Nhà nước một cách tích cực, đồng thời thúc đẩy pháp triển sản xuất, mở rộng cho lưu thông, có lợi cho nền kinh tế. Thuế GTGT là loại thuế đánh vào tiêu dùng, được coi như một yếu tố của chi phí và được cộng vào giá của sản phẩm hoặc dịch vụ. Nó đảm bảo cho mọi người được lựa chọn hàng hoá tự do quyết định tiêu dùng để chịu thuế cao thấp tuỳ theo túi tiền của mình. Thuế GTGT hay thuế doanh thu đều tránh được sự quan hệ trực tiếp giưa người tiêu dùng là người chịu thuế và cơ quan thu thuế nên dễ thu hơn các loại thuế trực thu khác. Thuế đánh vào tiêu dùng nên người tiêu dùng thường không cảm nhận được đầy đủ gánh nặng của loại thuế gián thu này, do đó dễ điều chỉnh. - Khắc phục những hạn chế của thuế doanh thu. Thuế GTGT tránh được hiện tượng đánh thuế trùng lắp của thuế doanh thu bởi vì thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và được khấu trừ số thuế đã nộp ở giai đoạn trước đó nên không có sự chồng chất thuế qua các giai đoạn chế biến sản phảm. Điều này rất phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. Như chúng ta đã biết một sản phẩm phải trải qua nhiều giai đoạn trước khi tới tay người tiệu dùng, mục tiêu của thuế đánh vào tiêu dùng trên sản phẩm tiêu thụ, nhưng cách đánh của thuế doanh thu tạo nên nhiều khoản thuế chồng chéo khiến cho tổng số thuế phải nộp là quá nặng và vô lý. - Khuyến khích sản xuất xuất khẩu Thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu đánh trùng lắp, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Bởi vì thông thường hàng xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT là 0% nên nó đảm bảo cho hàng xuất khẩu sẽ hoàn toàn được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đã nộp mà người xuất khẩu phải chịu trong thị trường nội địa, điều đó làm cho chi phí sản xuất hàng xuất khẩu giảm xuống, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng xuất khẩu của nước sở tại có điều kiện cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu kết hợp với thuế nhập khẩu làm giá vốn hàng nhập khẩu tăng lên, điều này có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất kinh doanh hàng nội địa. - Tạo điều kiện chống thất thu thuế. Thuế GTGT tạo điều kiện cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao, nhà sản xuất, kinh doanh khó có khả năng trốn lậu thuế và nó tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau về thuế. Việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào được tiến hành dựa trên hoá đơn chứng từ mua vào như vậy việc áp dụng thuế GTGT không những bắt buộc người mua và người bán phải lập hoá đơn chứng từ mà còn buộc người nộp thuế phải giữ sổ sách kế toán, phản ánh đầy đủ, chính xác hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Giá trị hàng hoá bán ra hay dịch vụ cung cấp cho bên ngoài xí nghiệp, công ty này phải là giá trị mua vào hay phí tổn của công ty, xí nghiệp kia. Do đó có cùng nhau trốn thuế cũng không được vì quyền lợi mâu thuẫn với nhau. Xí nghiệp này bán được nhiều sản phẩm mà ghi ít sản phẩm để tránh nộp thuế thì xí nghiệp kia lại không xin được khấu trừ thuế khi bán sản phẩm ra. Chỉ có giai đoạn bán lẻ mới có hy vọng trốn thuế nhưng đến giai đoạn này giá trị phần tăng thêm cũng ít. Nhìn chung áp dụng thuế GTGT người ta có thể dễ dàng kiểm soát sự vận động của hàng hoá. Việc trốn thuế GTGT chỉ có thể nếu công ty không mua nguyên vật liệu bán thành phẩm, tức là cung cấp dịch vụ thuần tuý. - Nâng cao tinh thần tự giác và nghĩa vụ của người nộp thuế. Thu thuế GTGT là một phương pháp thu tiên tiến, nâng cao được tinh thần tự giác và nghĩa vụ của người nộp thuế. Việc dành quyền tự kê khai cho người nộp thuế có ưu điểm về phương diện tâm lý và pháp lý, họ được tự do, không bị ép buộc hoặc không có sự đôi co giữa họ và cơ quan thuế mà trước đây với thuế doan thu đã xẩy ra do việc xác định doanh thu đúng đắn là một việc vô cùng khó khăn. Hơn nữa việc xác định thuế GTGT cũng rất dễ dàng vì cách thu thuế này buộc người mua, người bán và cơ quan thuế phải lưu giữ biên lai, chứng từ và hồ sơ thu thuế cẩn thận, làm cho người nộp thuế quen với cơ chế thuế dựa trên cơ sở hoá đơn. - Việc khấu trừ thế GTGT đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá sản xuất, đầu tư mới và hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh vai trò to lớn đó, thuế GTGT cũng có những mặt trái, mặt hạn chế của nó. Thể hiện cụ thể: - Chi phí về quản lý, thu thuế giá trị gia tăng rất tốn kém, để thực hiện tốt thu thuế GTGT thì công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng minh bạch. Trên thực tế, không phải tất cả các doanh nghiệp vừa và lớn thuộc mọi thành phần kinh tế đều làm tốt công tác này. Do đó hầu hết các doanh nghiệp đang thực hiện thuế GTGT đều phải sử dụng hệ thống máy vi tính để bảo đảm việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao và quản lý thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi, quản lý thuế chặt chẽ, sẽ xẩy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu thêm được thuế. - Thuế GTGT có ít thuế suất nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính luỹ thoái. Tỷ lệ động viên thuế qua người có thu nhập thấp lại cao hơn người có thu nhập cao, thuế không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người nghèo và người giàu. - Giữa lý luận và thực tế thuế GTGT cũng có những điểm chưa được nhất quán. Thuế GTGT đánh trên phần trị giá tăng thêm nhưng đối với một số ngành dịch vụ (như phục vụ, sữa chữa, chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học....), cách đánh thuế và khấu trừ thuế thế nào là hợp lý?. Đối với tài sản cố định mức khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào thế nào là thoả đáng?....Đây là những vấn đề nổi cộm mà đến tận hiện nay ở nhiều nước vẫn có nhiều quan điểm và cách xử lý rất khác nhau. - Thuế GTGT có ưu điểm là tính trung lập cao. Đồng thời lại có nhược điểm là thiếu linh hoạt, mền dẻo không thật thích hợp với nền kinh tế còn yếu kém và mới bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia. 1.2.2. Phạm vi áp dụng thuế giá trị gia tăng. - Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng ; Là hàng hoá dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam. - Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng; Là tất cả cá nhân, tổ chức hoạt động sản xuất - kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh và tổ chức cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế đều là đối tượng nộp thuế. * Tổ chức sản xuất - kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm: - Doanh nghiệp nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức đơn vị sự nghiệp khác. - Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được thành lập và hoạt động theo pháp luật. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư ở nước ngoài tại Việt Nam. * Cá nhân sản xuất - kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm những người kinh doanh độc lập, hộ gia đình, các cá nhân hợp tác với nhau để cùng sản xuất - kinh doanh nhưng không hình thành pháp nhân kinh doanh. - Đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. * Đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng là các hàng hoá, dịch vụ sau đây: - Sản phẩm trồng trọt (bao gồm cả sản phẩm rừng trồng), chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ sơ chế thông thường của các tổ chức, cá nhân tự sản xuất và tách ra. Sơ chế thông thường là việc sơ chế gắn với quá trình sản xuất ra sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản mà các loại sản phẩm này qua sơ chế chưa trở thành các loại sản phẩm hàng hoá khác như: phơi, sấy khô, bóc vỏ, tách hạt các sản phẩm nông nghiệp, ướp đá, ướp muối, phơi khô cá tôm và các sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản khác. - Sản phẩm muối bao gồm: muối sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối tinh, muối i-ốt. - Hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế giá trị gia tăng ở khâu sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh, dịch vụ đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. - Thết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được mà cơ sở có dự án đầu tư nhập khẩu làm tài sản cố định theo dự án đó. Thường hợp cơ sở nhập khẩu dây chuyền thiết bị máy móc đồng bộ thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng nhưng trong giây chuyền đồng bộ đó có cả loại thiết bị, máy móc đã sản xuất được thì không tính thuế giá trị gia tăng cho cả dây chuyền thiết bị máy móc đồng bộ. Hồ sơ xác định loại thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng mà cơ sở kinh doanh nhập khẩu không phải nộp thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu gồm các loại sau: + Dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc cấp giấy phép đầu tư (đối với các dự án đầu tư). + Hợp động hoặc phương án nhập khẩu xác định rõ nguồn gốc nơi nhập khẩu, loại thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nhập khẩu làm tài sản cố định theo dự án đầu tư. + Xác nhận của Bộ, cơ quan chủ quản chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành cấp tỉnh về loại thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng cơ sở nhập khẩu làm tài sản cố định thuộc loại trong nước chưa sản xuất được. + Cơ sở nhập khẩu phải lập và gửi hồ sơ trên cho Cơ quan Hải quan kê khai thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu để làm căn cứ xác định hàng nhập khẩu không chịu thuế giá trị gia tăng. Cơ quan Hải quan căn cứ vào mặt hàng nhập khẩu thực tế và hồ sơ của cơ sở kinh doanh để xác định cụ thể mặt hàng nhập khẩu không phải nộp thuế giá trị gia tăng. + Thuyên chuyển sử dụng đất thuộc diện chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất. + Nhà ở thuộc sở hữu nhà nước do nhà nước ban cho người đang thuê theo quy định tại nghị định số 61/CP ngày 05/07/1994 của chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở. + Dịch vụ tín dụng và quỹ đầu tư bao gồm hoạt động cho vay vốn, cho thuê tài chính của các tổ chức ngân hàng tín dụng, tài chính, quỹ đầu tư và hoạt động chuyển nhượng vốn theo pháp luật. + Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm vật nuôi, cây trồng và các loại bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm lao động. + Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng dịch bệnh, điều dưỡng sức khoẻ cho người và dịch vụ thú y (không bao gồm các hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh bán thuốc chữa bệnh, phòng bênh). + Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục thể thao mang tính phong trào quần chúng, tổ chức tập luyện, thi đấu có vé thu tiền nhưng không mục đích kinh doanh. Khoản thu này được sử dụng toàn bộ hay một phần bù đắp chi phí hoạt động của đơn vị, còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước theo chế độ tài chính nhà nước quy định. + Và các hoạt động khác quy định trong luật thuế GTGT Phần hai Thuế giá trị gia tăng áp dụng tại công ty bánh kẹo hải hà 2.1. giới thiệu chung về công ty bánh kẹo hải hà 2.1.1 Quá trình ra đời và phát triển Công ty bánh kẹo Hải Hà tên giao dịch là HAIHACO (Hải hà Company) là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ công nghiệp chuyên sản xuất và kinh doanh các loại Bánh kẹo phục vụ nhu cầu trong nước và một phần xuất khẩu. Công ty là một đơn vị chuyên ngầnh có quy mô lớn nhất ở nước ta hiện nay. Được thành lập từ năm 1960 đến nay công ty đã hơn 40 năm. Từ một Công ty ra đời trong điều kiện nền kinh tế tập trung quan niêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, Công ty đã vấp phải rất nhiều khó khắn trở ngại nhưng công ty vẫn đứng vững và ngày càng lớn mạnh trong khi hàng loạt các doanh nghiệp quốc doanh lâm vào tình trạng phá sản hoặc làm ăn thua lỗ kém hiệu quả. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty có thể chia làm các giai đoạn chính như sau: -Thời kỳ nhà máy ra đời và hoạt động trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (từ 1960 – 1965). Năm 1959 Tổng Công ty Nông Lâm thổ sản miền Bắc đã cho xây dựng một cơ sở thí nghiệm để sản xuất thử, với số công nhân viên ban đầu là 9 người. Sau khi xây dựng cơ bản hoàn thành cơ sở bắt tay vào việc nghiên cứu hạt trân châu (topico). Từ giữa năm 1959 đến tháng 4/1960 thực hiện chủ trương Tổng công ty nông lâm thổ sản miền Bắc cơ sở đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm mặt hàng miến từ nguyên liệu Đậu xanh để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Ngày 25/12/1960 xưởng sản xuất miến Hoàng Mai ra đời với quy mô ban đầu rất nhỏ bé, phương tiện thô sơ của nghề miến thủ công trong đó trang thiết bị của nhà máy gồm có: Một máy ly tâm chạy điện và 7 máy sàng sắt, 23 chum và 12 chà bột. Từ 1961 xưởng đã tập trung nhân lực và thiết bị để mở rộng sản xuất, xưởng đã liên tục hoàn thành và vượt mức kế hoạch với giá trị tổng sản lượng là 299,815 nghìn đồng, tổng sản lượng đạt 345,378 tấn. Ngoài sản phẩm miến xưởng còn sản xuất thêm nước chấm (bằng phương pháp lên mén hoá giải). Tinh bột ngô, cháo tương, đậu, dầu đỗ tương... -Thời kỳ 1965 – 1986. Trong thời này nhiệm vụ sản xuất có tăng nhưng quy mô vẫn nhỏ bé, thiết bị thô sơ lạc hậu. Thực hiện chủ trương của Bộ công nghiệp nhẹ từ 1965 viện thực phẩm đã lấy nơi đây vừa kiêm sản xuất vừa thực nghiệm các đề tài nghiên cứu thành phố để từ đó phổ biến cho các địa phương nhằm giải quyết hậu cần tại chỗ nhằm phù hợp với tình hình chiến tranh và nhà máy được đổi tên là nhà máy thực nghiệm thực phẩm Hải hà. Giữa năm 1970 thực hiện chỉ thị của Bộ lương thực – Thực phẩm nhà máy đã chính thức tiếp nhận phân xưởng kẹo của Hải Châu bàn giao sang với công suất 900 tấn/năm và được trang bị thêm một số dây chuyền có tính chất công nghệ như: -Dây chuyền chế biến nha. -Dây chuyền sản xuất kẹo cứng. -Dây chuyền sản xuất kẹo mềm. -Dây chuyển sản xuất giấy tinh bột. Từ đây nhà máy được đổi tên thành Nhà máy thực phẩm Hải Hà. Năm 1970 dưa vào sử dụng khu nhà 2 tầng với diện tích 200m2, tổng số công nhân viên 550 người. Bộ máy gồm 1 Giám đốc, 2 phó giám đốc 12 phòng ban, 3 xưởng sản xuất. Nhà máy đã tích cực phấn đấu vươn lên bằng cách tự nghiên cứu đổi mới công nghệ, tự đầu tư trang thiết bị máy móc. Bồi dưỡng trình độ đội ngũ công nhân viên, nhà máy liên tục mở rộng, phát triển và hoàn thành kế hoạch, sản xuất liên tục tăng từ 900 tấn/năm đến 1200tấn/năm; 1800tấn/năm rồi 2000tấn/năm. -Năm 1973 nhà máy hoàn thành kế hoạch trước thời hạn với giá trị tổng sản lượng là 9.495.000đồng với sản lượng nước chấm là 1.283.000 lít kẹo các loại là 2.064,94 tấn. -Năm 1975 nhà máy hoàn thành kế hoạch trước thời hạn với giá trị tổng sản lượng là 11.055.000 đồng đạt 111,15%. -Thời kỳ 1976-1986: Tháng 12 năm 1976 nhà máy được nhà nước phê chuẩn phương án. +Thiết kế mở rộng diện tích mặt bằng khoảng 300.000m2 với công suất thiết kế 6000 tấn/năm và được cấp vốn đầu tư mở rộng trang thiết bị, hệ thống chảo thủ công được thay thế bằng thiết bị nồi hơi chân không. Bên cạnh đó đơn vị đã cố gắng tìm tòi nghiên cứu, cải tạo và đầu tư mới máy móc của nhà máy, sản lượng và chất lượng được nâng lên, quy mô được mở rộng, sản phẩm của nhà máy đã tham gia vào thị trường kẹo xuất khẩu và được xuất sang các nước XHCN, Đông Âu... Trong thời gian này số lượng công nhân là 800 người. Trong những năm 1977 đến 1979 nhà máy liên tục gặp khó khăn như: thiếu vốn, thiếu vật tư, thiếu năng lượng, cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu thêm vào đó những ràng buộc nặng nề của thời bao cấp nên sự phats triển của nhà máy rất hạn chế. Tuy vậy bằng sự quyết tâm của mình, nhà máy luôn tìm cách khắc phục khó khăn, duy trì sản xuất, tìm các nguyên liệu thay thế thực hiện chế độ quản lý hành chính lao động giữ vai trò và luôn thực hiện được nhiệm vụ. - Giai đoạn 1987 đến 1993: Năm 1987 do việc sát nhập các Bộ, nhà máy thực phẩm Hải Hà được đổi tên thành nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà và nhà máy thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm quản lý. Thời kỳ này nhà máy mở rộng và phát triển thêm nhiều dãy kẹo, năm 1992 tổng số công nhân viên là 1437 người. - Giai đoạn 1993 đến nay: Tháng 1 năm 1992, nhà máy chuyển về trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ (nay Bộ Công nghiệp). Trong giai đoạn này nền kinh tế phát triển mạnh, với chính sách mở cửa kinh tế nhà máy đã có sự thay đổi, biến chuyển mạnh mẽ phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Theo quyết định 379 ngày 15/4/1992 của Bộ công nghiệp nhẹ nhà máy đổi tên thành Công ty Bánh kẹo Hải Hà do Nhà nước đầu tư và quản lý vốn với tư cách là chủ sở hưũ, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập. Hiện nay công ty có 5 xí nghiệp trực thuộc bao gồm: + Xí nghiệp kẹo. + Xí nghiệp bánh + Xí nghiệp thực phẩm Việt trì + Xí nghiệp phụ trợ + Xí nghiệp bột dinh dưỡng Nam Định Công ty còn đặc biệt chú ý mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, hiện công ty có 2 liên doanh với nước ngoài như Hải Hà - Kotobuki chuyên sản xuất các mặt hàng bánh gatô, Bánh Snack và 1 số loại bánh cao cấp khác, liên doanh với công ty Miwon (Hàn Quốc) để sản xuất bột ngọt tại Vĩnh phú, từ đó đến nay công ty không ngừng đổi mới công nghệ như năm 1997 trang bị cho xí nghiệp thực phẩm Việt Trì một dây chuyền fellef khuôn và felly cốc, năm 1997 Công ty đã mua máy gói kẹo của hãng KLOCNER HANSEL TEVONPHAN với công suất 1000 viên/phút, năm 1998 Công ty đầy tư thêm máy đóng gói nhỏ các loại bánh có công suất 1 tấn/ngày máy quật kẹo với công suất 10 tấn/ngày. Dây chuyền sản xuất bánh xốp dạng que với công suất 10 tấn/ngày. Dây chuyền sản xuất Caramel có công suất 200 ¸ 300 kg/giờ tổng số công nhân viên của nhà máy khoảng 1.709 người. Hiện nay công ty có hơn 100 đại lý ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài như Tiệp khắc, Vùng viễng Đông Ucraina... 2.1.2. Địa vị pháp lý của công ty: - Công ty bánh kẹo Hải Hà là đơn vị chuyên sản xuất các loại bánh kẹo phục vụ nhu cầu của nhân dân. Công ty có trụ sở đặt tại 15 đường Trương Định-Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Được thành lập theo quyết định số 216 CNn/TCLĐ ngày 24/3/1993 của Bộ Công nghiệp nhẹ (nay Bộ công nghiệp) căn cứ theo nghị Định số 338 - HĐBT (nay Chính Phủ) ngày 2/11/1991. - Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh số 106286 ngày 7/4/1993 của trọng tài kinh tế Hà Nội cấp. Mã số thuế là 010010914-1 tại Cục thuế Hà Nội. - Công ty bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, được mở tài khoản tại ngân hàng và sử dụng con dấu riêng của Nhà nước. - Công ty bánh kẹo Hải Hà đăng ký, nhãn hiệu hàng hoá số 5864 theo quyết định số 2348 ngày 21/8/1992 của Cục sở hữu công nghiệp và có giá trị 10 năm. - Đăng ký kiểu dáng công nghiệp số 5256 của kẹo cứng nhân theo quyết theo quyết định số 577/QĐKD ngày 7/9/1998 của Cục sở hữu công nghiệp. - Đăng ký chất lượng hàng hoá các mặt hàng theo quy định của Nhà nước. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Công ty -Đứng đầu công ty là Tổng Giám đốc. Tổng giám đốc Công ty do cấp trên bổ nhiệm, sau khi đã tham khảo ý kiến của Đảng bộ và phiếu tín nhiệm của cán bộ công nhân viên toàn Công ty. Tổng giám đốc Công ty quản trị Công ty theo chế độ một thủ trưởng có quyền quyết định điều hành hoạt động của Công ty theo đúng kế hoạch chính sách pháp luật của Nhà nước và nghị quyết đại hội công nhân viên chức, chịu trách nhiệm trước nhà nước và tập thể lao động về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty, Tổng giám đốc là đại diện toàn quyền của Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh. -Phó giám đốc điều hành hoạt động thương mại: chịu trách nhiệm về quản trị nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh luôn đảm bảo tiến độ, yêu cầu đặt ra. -Phó giám đốc điều hành hoạt động tài chính: Chịu trách nhiệm về hoạt động tài chính và kiểm tra giám sát phòng tài vụ: -Phó tổng giám đốc sản xuất: chịu trách nhiệm về chỉ đạo kiểm tra kỹ thuật để đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất, cụ thể là: -Giám sát hoạt động của phòng kỹ thuật và các xí nghiệp trên các khía cạnh an toàn sản xuất, an toàn lao động, nghiên cứu và bảo dưỡng thiết bị máy móc, đào tạo tay nghề. -Văn phòng: Có chức năng lập thời gian cho các loại sản phẩm, tính lương, thưởng, tuyển dụng lao động, vệ sinh công nghệ và phụ trách tiếp khách. -Phòng sản xuất kinh doanh: có chức năng lập kế hoạch sản xuất kinh doanh (năm, quý, dài hạn...) điều độ sản xuất và thực hiện kế hoạch, cung ứng vật tư sản xuất cân đối kế hoạch thu mua hợp đồng thu mua vật tư thiết bị, ký hợp đồng theo dõi việc thực hiện hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, tổ chức hoạt động Marketing, lập các dự án... Bên cạnh đó, hàng năm để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho cán bộ công nhân viên bằng cách cử đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn. Đây cũng là yếu tốt góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng của công ty. Về cơ cấu bộ máy tổ chức của công ty, công ty có 5 xí nghiệp thành viên, 2 công ty liên doanh và các phòng ban chuyên môn (sơ đồ 1), Bộ máy quản lý được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng, hoạt động của các phòng ban các xí nghiệp thành viên chịu sự điều hành tập trung của Ban giám đốc công ty, Tổng giám đốc là người ra quyết định quan trọng nhất đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, song vẫn có sự phân công rõ rệt đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tổ chức một Bộ máy quản lý như vậy đã tạo ra nhiều thuận lợi trong việc truyền đạt, xử lý các thông tin, dảm bảo việc ra và thực hiện các quyết định đạt hiệu quả cao. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, cán bộ quản lý và điều hành, năng động là một nguồn tài sản vô hình vô cùng quý giá đối với công ty. 2.1.4. Khái quát về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 2.1.4.1.Tình hình hoạt động kinh doanh. - Công ty bánh kẹo hải Hà được thành lập theo quyết định số 216 CNN/TCLĐ ngày 24/3/1993 của Bộ Công nghiệp nhẹ, lĩnh vực chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước. Tình hình vốn của công ty một vài năm gần đây được phản ánh qua bảng dưới đây. -Vốn điều lệ: 25.000.000 (đơn vị tính ;1000đ) Vốn 1998 1999 So sánh Số tuyệt đối Số tương đối I.Theo cơ cấu 1.Vốn lưu động 89402 95409 6007 106,7 2.Vốn cố định 9682 10286 601 106,2 Tổng 99087 105695 6608 106,7 Tổng 99087 105695 6608 106,7 II.Theo nguồn 1.Ngân sách cấp 49416 56370 6954 114 2.Vay vốn 43394 48000 4606 110 3.Vốn khác 6277 1325 -452 21 (Nguồn- phòng kinh doanh công ty Bánh kẹo Hải Hà) Qua bảng trên ta thấy cũng một số doanh nghiệp nhà nước khác Công ty bánh kẹo Hải hà thiếu vốn lưu động và vốn đầu tư nhiều, phần lớn số vốn lưu động và vốn đầu tư nhiều, phần lớp số vốn thiếu này công ty vay lãi tại ngân hàng công thương thanh xuân do đó ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của công ty. Hàng năm phải trả lại một khoản lớn cho ngân hàn điều đó làm cho giá thành sản phẩm tăng cao dẫn đến sự khó khăn trong cạnh tranh. + Kết quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Hà từ năm 1996 - 1999: Trong những năm qua Công ty đã dẫn đầu về doanh số bán ra và năm 1999 đã được bầu vào topten - hàng việt nam chất lượng cao. Hiện nay với công suất hơn 11000 tấn/năm, doanh số bán đạt 160 tỷ/năm. Công được coi là một trong những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả. Kết quả kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây được phản ánh như sau: TT Chỉ tiêu Đơn vị tính (đồng) 1996 1997 1998 1999 1 Giá trị tổng sản lượng Tỷ 132,91 133,35 135,5 132,8 2 Doanh thu Tỷ 149,16 153,38 161,5 162,5 3 Chi phí bán hàng Tỷ 2,01 1,953 1,987 4 Chi phí quản lý Tỷ 12,75 13,144 15,058 5 Nộp ngân sách Tỷ 10,59 16,017 16,17 18,2 6 Lợi nhuận Tỷ 0,48 0,325 0,2 0,3 7 Số lượng Tấn 11072 10694 10700 9840 8 Thu nhập bình quân 1000 620 680 730 750 9 Tổng vốn Tỷ 92,891 99,087 105,695 110,750 -Vốn cố định Tỷ 58,521 63,664 69,239 40,356 -Vốn lưu động Tỷ 34,37 35,4423 36,456 70,400 Số công nhân viên Người 1981 1932 1932 1962 (Nguồn: Phòng tài vụ và phòng hành chính) - Phương hướng hoạt động của Công ty: Trong thời gian tới việc thiết lập các chiến lược dài, trung, ngắn hạn luôn luôn cần thiết với mọi doanh nghiệp, Công ty đã đề ra phương hướng hoạt động cho đến năm 2005 như sau: -Tăng cường đầu tư chiều sâu với mục đích không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả, tăng năng suất lao động, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm nhằm mở rộng thị trường và đáp ứng nhu cầu của từng vùng từ nông thôn đến thành thị, từ trong và ngoài nước đủ sức cạnh tranh với các đối thủ trên thương trường. -Tăng cường đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại, thay thế dấn máy móc đã lạc hậu nhằm cơ giới hoá, tự động hoá, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất. -Đi sâu nghiên cứu thị trường, ổn định và nâng cao hiệu quả thị trường cũ, mở rộng thị trường mới nhất là các tỉnh phía nam và xuất khẩu. -Ngoài việc sản xuất bánh kẹo chính, Công ty sẽ kinh doanh các mặt hàng khác để không ngừng nâng cao đời sống và thúc đẩy sự phát triển ngày một lớn mạnh của Công ty. 2.2. Quá trình thực hiện luật thuế Giá trị gia tăng tại công ty bánh kẹo Hải Hà trong thời gian qua. 2.2.1. Công tác chuẩn bị chung : - Luật thuế GTGT có hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 01/01/1999. Luật thuế giá trị gia tăng thay cho luật thuế doanh thu là một chính sách lớn của Đảng, trong công cuộc đổi mới đất nước, để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, đòi hỏi phải cải cách hệ thống chính sách thuế nhằm đảm bảo nguồn thu ổn định cho Ngân sách Nhà nước tạo nguồn vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, đồng thời đảm bảo động viên hợp lý, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng của Nhà nước: thực hiện công bằng, hợp lý trong phân phối thu nhập, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư trong xã hội; bảo đảm đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, tạo điều kiện cho công tác quản lý hành chính thuế đạt hiệu quả cao. Quốc Hội khoá IX kỳ họp thứ 11 đưa ra Nghị quyết về cải cách hệ thống thuế Nhà nước ta. Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc Hội, Chính phủ đã trình Quốc Hội đề án cải cách bước hai hệ thống chính sách thuế. Để thực hiện cải cách thuế bước hai, Quốc Hội đã thông qua một số luật thuế mới trong đó luật thuế GTGT là một trong những luật thuế quan trọng. Việc thực hiện luật thuế GTGT không những gây tác động đến toàn bộ nền kinh tế xã hội mà còn làm thay đổi bộ máy tổ chức làm công tác quản lý thuế, nên trong thời gian đầu không tránh khỏi những khó khăn, bỡ ngỡ và nhất là trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực lại càng phát sinh thêm nhiều khó khăn vướng mắc. Vì vậy, công việc chuẩn bị đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công luật thuế GTGT. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã sử dụng các biện pháp khẩn trương, chu đáo và toàn diện. Công việc chuẩn bị thể hiện quyết tâm lớn trong quá trình cải cách hệ thống thuế và được thực hiện thống nhất cao, cụ thể: - Về công tác lãnh đạo: Bộ chính trị đã có chỉ thị 44CT/04/11/1998 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện Luật thuế GTGT. Thủ tướng Chính Phủ đã có chỉ thị quy định việc tổ chức và triển khai thực hiện Luật thuế GTGT cùng các chương trình hành động cụ thể. - Đến ngày 31/12/1998 (trước khi luật thuế GTGT bắt đầu thực hiện), Quốc Hội đã cơ bản xây dựng và ban hành đủ các văn bản pháp quy: Nghị định, thông tư thực hiện luật thuế GTGT. - Các cơ quan chức năng đã tập huấn, hướng dẫn về mục đích, ý nghĩa, nội dung, tác dụng và quy trình nghiệp vụ quản lý thuế cho cán bộ chủ chốt của các bộ, ngành, địa phương, cho cán bộ Tài chính và ngành thuế. - Đẩy mạnh việc tuyên truyền về thuế GTGT trên các phương diện thông tin đại chúng (đài, báo Trung ương và địa phương, hệ thống thông tin phường, xã...) và bằng các hình thức khác như in sách, hội thảo... - Về công tác quản lý thuế: Các cơ quan chức năng đã chuẩn bị chu đáo những công việc sau: + Cấp mã cho các đối tượng nộp thuế: Căn cứ quyết định 75/1998/QĐ-TTg ngày 04/4/1998 của Thủ tướng chính phủ quy định các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phải kê khai, đăng ký thuế để được cấp mã số để được cấp mã số xác định đối tượng nộp thuế. Ngay từ tháng7/1998, cơ quan thuế đã tổ chức cho các cơ sở kinh doanh kê khai, đăng ký cấp mã số thuế. Đến hết quý I/1999 đã cấp mã số thuế cho 985.194 cơ sở kinh doanh, trong đó có 485.517 cơ sở kinh doanh được phép thành lập và có đăng ký kinh doanh, số còn lại chưa có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn cấp mã số thuế đã có tác dụng quản lý được số lượng đối tượng nộp thuế và từng bước đưa công tác tin học vào công tác quản lý thuế. - Về hoá đơn chứng từ: Bộ tài chính đã in và cung cấp cho các cơ sở kinh doanh. Từ đầu tháng 12/1998 (bắt đầu bán hoá đơn cho các cơ sở kinh doanh để sử dụng vào ngày 01/01/1999 khi áp dụng luật thuế GTGT) đến hết tháng 3/1999, số lượng hoá đơn thuế GTGT đã phát hành là: 434.400 quyển và cho gần 700 cơ sở kinh doanh tự in và sử dụng hoá đơn thuế GTGT. So với năm 1998, viêc sử dụng hoá đơn của các doanh nghiệp tăng lên nhiều do việc quy định hoá đơn là căn cứ để khấu trừ thuế GTGT đầu vào và là căn cứ xác định chi phí hợp lý để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Qua đó, đã chứng tỏ luật thuế GTGT đã có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp trong việc thực hiện chế độ kế toán hoá đơn, chứng từ. - Về công tác tin học phục vụ cho công tác quản lý thuế: Ngay từ khi Luật thuế GTGT được thông qua, ngành thuế đã tiến hành chương trình quản lý thuế bằng máy vi tính và mua sắm, lắp đặt cho máy vi tính. Đến ngày 17/1/1999, các cục thuế đã được trang bị đầy đủ máy tính cần thiết phục vụ cho công tác quản lý thuế như: cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế, nhận tờ khai, kiểm tra tờ khai, in thông báo thuế, lưu trữ dữ kiện về thuế ... Qua quý I/1999, hoạt động của hệ thống máy tính tương đối tốt, đã nhập được tờ khai, in được thông báo thuế, lưu trữ dữ kiện, in được thông báo thuế ... Góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, nhất là công tác quản lý thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp. - Bộ máy quản lý; ở cục thuế, chi cục thuế đã được tổ chức lại. Thành lập phòng thuế quản lý cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh ở cục thuế để quản lý cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ từ chi cục thuế chuyển lên cục thuế. Các chi cục thuế quản lý các hộ kinh doanh cá thể nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Qua việc tổ chức lại đó, chi cục thuế đã nắm chắc trên 90% số thu của Ngân sách Nhà nước và đã tạo điều kiện đưa công tác tin học và quản lý thuế nhất là thuế GTGT. Ngoài ra, ngành thuế còn xây dựng quy trình quản lý thuế GTGT, quy trình quản lý thuế đối với các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh... Ngành Hải quan cũng đã xây dựng quy trình tự khai, tự tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu. Nhìn chung, do có sự chỉ đạo sát sao của Trung ương Đảng, Bộ chính trị, Uỷ Ban thường vụ Quốc Hội, Chính Phủ, các ban ngành, các địa phương có quyết tâm lớn và chuẩn bị thực hiện luật thuế GTGT tương đối tỷ mỷ, chu đáo, đồng bộ từ khâu xây dựng văn bản hướng dẫn, tuyên truyền kỹ thuật nghiệp vụ, tổ chức cán bộ... 2.2.2. Công tác chuẩn bị tại công ty - Theo chỉ thị 44 của Bộ chính trị, chỉ thị 41 của Chính phủ về việc triển khai Luật thuế GTGT nhằm đôn đốc công tác chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng luật thuế GTGT sao cho đạt hiệu quả cao nhất. - Công ty đã mua đầy đủ các văn bản hướng dẫn về thuế GTGT của Bộ tài chính để nghiên cứu và tính thử thuế GTGT. - Công ty cũng gửi các cán bộ tham gia vào công tác tập huấn, hướng dẫn về nội dung luật thuế GTGT, quy trình quản lý kế toán thuế GTGT, phương thức ghi chép sổ sách, hóa đơn chứng từ cung cấp dịch vụ và mua bán hàng hoá do cục thuế điạ phương, tổng cục thuế, Bộ tài chính hướng dẫn. Sau khi tham dự các lớp tập huấn, 100% tham gia đều nắm được nội dung của luật thuế GTGT, đặc biệt là phương pháp tính thuế GTGT và các tác động tích cực của nó đối với nền kinh tế nước ta. - Công ty đã hoàn tất việc đăng ký mã số thuế trong tháng 12/1998 đồng thời bảo đảm cho công tác kê khai, nộp thuế được tiến hành dễ dàng khi thuế GTGT bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1999. - Tổ chức phân công cụ thể cán bộ theo dõi phụ trách về vấn đề thuế GTGT nhằm quản lý một cách tốt nhất, hiệu quả nhất luật thuế GTGT đồng thời phân định lại quy trình quản lý, luân chuyển, lưu gửi hoá đơn, chứng từ của hàng hoá, dịch vụ mua vào để phục vụ cho công tác theo dõi, tính toán số thuế được khấu trừ. - Nhìn chung, cho đến cuối tháng 12 năm 1998, công tác chuẩn bị các điều kiện cần thiết để áp dụng luật thuế GTGT tại công ty Bánh kẹo Hải Hà đã hoàn tất giúp công ty thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT được hoàn chỉnh. Từ sau khi luật thuế GTGT có hiệu lực đến nay, công ty đã thực hiện tốt việc triển khai luật thuế này. 2.2.3. Tình hình thực hiện luật thuế GTGT tại công ty 2.2.3.1. Thực trạng nộp và tính thuế trước ngày 1/1/1999. - Trước ngày 1/1/1999, công ty tính và nộp thuế doanh thu. Trước khi có thuế GTGT thì thuế doanh thu có vai trò rất lớn trong việc động viên, tập trung nguồn vốn vào ngân sách Nhà nước và đây là loại thuế đưa lại nguồn thu lớn cho Nhà nước, có các đối tượng chịu thuế tương đối rộng rãi, bao quát hầu hết các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh với hệ thống thuế tương đối ổn định và cách thức tiến hành đơn giản. Vì vậy công tác tính thuế và nộp thuế doanh thu của các doanh nghiệp nói chung và của công ty bánh kẹo Hải Hà nói riêng là tương đối dễ dàng. Căn cứ để tính thuế doanh thu là doanh thu và thuế suất: Thuế doanh thu = Doanh thu bán hàng x Thuế suất. Theo quy định thì thuế doanh thu chịu thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh bánh kẹo là tiền thu về từ hoạt động bán bánh kẹo. Mức thuế suất áp dụng cho công ty khi tính thuế doanh thu phải nộp là 6%, trong công tác tính và nộp thuế, công ty thực hiện hạch toán thuế kinh doanh thu theo từng tháng và quyết toán sau mỗi quý. Những năm vừa qua, công ty đã chấp hành nghiêm chỉnh chế độ sổ sách kế toán, chứng từ, hoá đơn về thuế doanh thu theo đúng quy định của Nhà nước. Đồng thời công ty cũng tiến hành kê khai đầy đủ thuế doanh thu theo đúng chế độ do Bộ tài chính quy định cho cục thuế Hà Nội. Tình hình tính và nộp thuế doanh thu cho ngân sách Nhà nước của công ty bánh kẹo Hải Hà trong hai năm 1997 và năm 1998 được phản ánh qua bảng sau. 1997 1998 Doanh thu (triệu đồng) Thuế doanh thu (triệu đồng) Doanh thu (triệu đồng) Thuế doanh thu (triệu) 162.249 7.734,94 159.895 9.593,7 Nhìn chung, công ty đã thực hiện đúng và nghiêm chỉnh trong công tác kê khai và nộp thuế, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước một cách đầy đủ. 2.2.3.2. Tình hình thực hiện luật thuế GTGT - Từ ngày 01/01/1999, công ty bánh kẹo Hải Hà đã tiến hành áp dụng luật thuế GTGT thay cho thuế doanh thu trước đây theo đúng sự chỉ đạo của Nhà nước. Quá trình thực hiện luật thuế GTGT đến nay đã hơn hai năm. Quá trình áp dụng luật thuế GTGT phản ánh như sau. -.Đối tượng chịu thuế - Tất cả các loại bánh kẹo do công ty sản xuất bao gồm trên 50 loại. - Nguyên vật liệu nhập khẩu như bột mì, bơ, sữa, nguyên liệu phụ da, chất tạo hương... -. Đối tượng nộp thuế Thuế GTGT là một loại thuế gián thu vì vậy chính công ty là người thu thuế cho Nhà nước. Người chịu thuế trực tiếp chính là người tiêu dùng bánh kẹo của công ty. Công ty có nghĩa vụ thu thuế hộ Nhà nước. -. Phương pháp tính thuế. Theo quy định của luật thuế thì công ty bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập và thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ đầy đủ nên công ty thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. -. Đăng ký nộp thuế. Công ty đã hoàn tất thủ tục đăng ký nộp thuế với cục thuế Hà Nội trước ngày 31/12/1998 và được cấp mã số thuế là 01001009141-1. -. Kê khai, nộp thuế GTGT. Việc kê khai nộp thuế GTGT được tiến hành thường xuyên tại công ty mỗi khi có phát sinh thuế GTGT đầu vào hay đầu ra. Đối với từng lô hàng cụ thể thì cứ khi hàng về đến tận cửa khẩu thì công ty phải tiến hành áp giá và tính thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu chịu thuế GTGT đồng thời với việc áp giá và tính thuế nhập khẩu. Sau khi kiểm tra hàng hoá nhập khẩu và kiểm tra tờ khai thuế GTGT, tờ khai thuế nhập khẩu, cơ quan Hải quan sẽ gửi văn bản thông báo số thuế mà công ty phải nộp. Căn cứ vào thông báo thuế của cơ quan Hải quan, công ty tiến hành nộp thuế GTGT đầu vào và thuế nhập khẩu tại cửa khẩu nơi nhập hàng về. Đối với các hàng hoá dịch vụ mua vào nhằm phục vụ hoạt đông quản lý và điều hành việc kinh doanh của công ty như điện, nước, điện thoại, xăng dầu... thì mỗi khi phát sinh thuế GTGT phòng kế toán tài vụ đều phải vào sổ kê khai thuế GTGT ngay sau đó cuối tháng phòng tài vụ tổng hợp lại. - Hàng tháng phòng kế toán tài vụ của công ty lập tờ khai thuế GTGT theo mẫu 01/GTGT và lập bảng kê khai hàng hoá dịch vụ mua vào và bán ra theo mẫu 02/GTGT và mẫu 03/GTGT sau đó gửi cho cục thuế Hà Nội trong thời gian từ 5 đến 10 ngày tháng tiếp theo, khi nhận được thông báo nộp thuế của cục thuế Hà Nội, công ty sẽ tiến hành nộp thuế vào kho bạc Nhà nước. + Thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu. Theo quy định của luật thuế GTGT thì hàng hoá dịch vụ xuất khẩu sẽ được hưởng mức thuế suất ưu đãi là 0% nhằm mục đích khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Do đó, khi xuất khẩu sản phẩm bánh kẹo, công ty bánh kẹo Hải Hà không phải chịu thuế GTGT. Để xuất khẩu hàng hoá, công ty phải tính và nộp thuế xuất khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu đó (khi hàng hoá là đối tượng chịu thuế xuất khẩu). Đối với hàng hoá xuất khẩu nếu đầu vào của hàng hoá đã chịu thuế GTGT thì sau khi thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương với khách hàng nước ngoài và hết quý đó, công ty sẽ được hoàn thuế GTGT đầu vào với điều kiện phải có đầy đủ hoá đơn, chứng từ. +.Thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu. Nguyên vật liệu để sản xuất bánh kẹo của công ty bánh kẹo Hải Hà phần lớn là hàng nhập khẩu của các nước như úc, Bỉ, Pháp, Hà Lan, Thuỵ Sĩ; trong đó như: chất béo nhập từ úc, bột mỳ nhập từ Bỉ, Pháp, chất tạo hương... nhập từ Đức, Pháp, Mỹ, chất tạo màu ( Thuỵ Sỹ), chất tạo xốp, tạo vị, chất phụ gia thực phẩm ( Hà Lan)... Mức thuế suất áp dụng đối với các nguyện vật liệu nhập khẩu này là 10%. Do đó, mỗi khi hàng nhập khẩu về đến cửa khẩu thì công ty phải áp giá, tính và nộp thuế GTGT trên tổng trị giá của lô hàng và thuế nhập khẩu (nếu có) cùng với việc nộp thuế nhập khẩu (nếu có) đối với những mặt hàng thuộc diện chịu thuế GTGT tại cơ quan thuế, Hải quan cửa khẩu nơi nhập khẩu hàng hoá đó. Vào tháng 12 năm 2000, công ty đã thực hiện quyết toán với cục thuế Hà Nội. Sau đây là số thuế GTGT mà công ty phải nộp năm 1999. DT chịu thuế GTGT ( tr.đ) Thuế GTGT đầu ra ( tr.đ) Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (tr.đ) Số thuế GTGT phải nộp (tr.đ) 163.325 16.332 9.679 6.635 (Nguồn; Phòng tài vụ công ty) Bảng số liệu trên đã phản ánh đầy đủ công tác tính thuế GTGT của công ty bánh kẹo Hải Hà. Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là số thuế khi mua bán nguyên vật liệu và các sản phẩm công ty sản xuất, căn cứ vào các hoá đơn chứng từ hợp lệ và số đó là 9.679 triệu đồng. Và với mức thuế 10% công ty đã tính thuế GTGT đầu ra là 16.332 triệu đồng. Từ đó, theo phương pháp khấu trừ thuế số thuế GTGT phải nộp vào ngân sách Nhà nước của công ty được xác định như sau: Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào = 16.332 - 9.697 = 6.635 triệu đồng Khác với việc xác định số thuế doanh thu phải nộp trước đây là căn cứ vào doanh thu đã có thuế doanh thu nên thuế thu bị trùng lắp, việc căn cứ vào thuế doanh thu chưa có thuế để tính thuế GTGT đầu ra đồng thời tiến hành khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã phản ánh chính xác hơn số thuế phải nộp cho Ngân sách Nhà nước so với thuế doanh thu trước đây thì công ty vẫn phải chịu doanh thu chịu thuế tương tự với mức thuế suất thấp hơn thuế GTGT nhưng do không được khấu trừ thuế đầu vào nên gây ra tình trạng thuế chồng lên thuế vì vậy mức thuế phải nộp vẫn cao hơn .Vì nếu thuế doanh thu mà doanh thu chịu thuế bằng thuế GTGT và bằng (=) 163.325triệu đồng thì thuế doanh thu (với mức thuế suất 6%) sẽ là : 163.325 x 6% = 9.799,5 triệu đồng. Vậy so với thuế GTGT thì thuế doanh thu phải đóng cao hơn là 3.164,5 triệu đồng (32,29%) điều đó chứng tỏ một điều là việc triển khai luật thuế GTGT đã có lợi hơn so với thuế doanh thu của công ty. Đến năm 2000 sau hai năm triển khai luật thuế GTGT thì hiện nay đội ngũ cán bộ thuế của công ty đã loại bỏ được những bỡ ngỡ ban đầu vì việc tính thuế GTGT khá đơn giản và dễ tiếp cận, về việc kê khai thuế hàng tháng phòng kế toán tài vụ của công ty lập tờ khai thuế và lập bảng kê khai hàng hoá mua vào, bán ra theo mẫu do luật thuế GTGT quy định sau đó gửi cho cục thuế Hà Nội .Trong thời gian từ ngày 5 đến ngày 10 của tháng tiếp theo . Vào đầu năm 2001 công ty đã thực hiện quyết toán thuế với cục thuế Hà Nội sau đây là số thuế GTGT mà công ty phải nộp của năm 2000 (bảng số liệu). DT chịu thuế GTGT(tr.đ) Thuế GTGT đầu ra (tr.đ) Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (tr.đ) Thuế GTGT phải nộp (tr.đ ) 194.460 189.500 108.000 8.150 Những phân tích trên về tình hình thực hiệh luật thuế GTGT tại công ty bánh kẹo Hải Hà đã thể hiện tính đúng đắn của việc áp dụng luật thuế này đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty Bánh kẹo Hải Hà nói riêng.Tuy nhiên hơn hai năm thực hiện một số doanh nghiệp đã không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Để hiểu rõ những tác động của Luật thuế GTGT chúng ta phân tích những khó khăn vướng mắc của công ty Bánh kẹo Hải Hà qua hai năm thực hiện . 2.2.4. Những khó khăn vướng mắc khi thực hiện Luật thuế GTGT tại Công ty Bánh kẹo Hải Hà. - Luật thuế GTGT bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 trong năm đầu tiên thực hiện Luật thuế này công ty đã vấp phải một số khó khăn nhất định gây ảnh hưởng tới công ty như; + Hàng hoá tồn kho trước ngày 01/01/1999. Phải chịu thuế GTGT đầu ra lại không được khấu trừ thuế đầu vào. do trước đây áp dụng Luật thuế doanh thu hàng tồn kho đã chịu thuế doanh thu rồi nhưng không có hoá đơn GTGT hợp lệ nên sẽ không được khấu trừ vào thuế GTGT đầu vào, như vậy hàng hoá tồn kho này sẽ phải chịu hai lần thuế (thuế doanh thu đầu vào và thuế GTGT đầu ra) Mặc dù thuế GTGT là loại thuế gián thu do người tiêu dùng phải chịu nhưng ở đây Nhà nước lại quy định không được tăng giá bán với các sản phẩm bánh kẹo bán ra, do vậy công ty phải lấy lợi nhuận của mình bù vào khoản thuế mà công ty phải nộp thêm .Tuy nhiên hàng tồn kho chỉ là một sự kiện phát sinh một lần vào những tháng hoặc những năm đầu tiên áp dụng Luật thuế GTGT. + Khó khăn nữa là việc áp dụng cùng lúc hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, chính việc áp dụng cùng lúc hai phương pháp này đã khiến quan hệ làm ăn giữa các đối tác có các phương pháp tính thuế khác nhau rạn nứt vì nếu cơ sở kinh doanh áp dụng phương pháp khấu trứ mua bán với cơ sở kinh doanh áp dụng phương pháp trực tiếp thì sẽ không có cơ sở để khấu trừ thuế GTGT đầu vào vì trên hoá đơn không ghi thuế GTGT, còn nếu chỉ quan hệ với cơ sở tính bằng phương pháp trực tiếp thì lại không đáp ứng hết được nhu cầu để sản xuất kinh doanh. Công ty Bánh kẹo Hải Hà là đơn vị gặp phải khó khăn trên rất lớn vì trên thực tế số nguyên vật liệu như bột, trứng, đường sữa ...hầu hết công ty mua của các cơ sở kinh doanh vừa và nhỏ hoặc hộ gia đình nên không có hoá đơn GTGT và đây là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cần thiết cho công ty mà công ty không thể không hợp tác. Nhằm khắc phục những khó khăn đó thì theo Nghị định 102/1998/NĐCP thì công ty cũng được khấu trừ một số sản phẩm theo tỷ lệ 3% và thực tế thì số khấu trừ này là rất bé so với số còn lại không được khấu trừ do vậy cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty . Bên cạnh đó đối vấn đề thuế suất thuế GTGT đầu vào cũng là vấn đề khó khăn đối với công ty, vì công ty có một khối lượng khá lớn nguyên vật liệu đầu vào là nhập khẩu, theo quy định của luật thuế GTGT những nguyên liệu này ngoài việc nộp thuế nhập khẩu còn phải nộp ngay thuế GTGT với thuế suất 10%. Với điều kiện có hoá đơn hợp lệ thì đến cuối kì công ty sẽ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Nhưng khó khăn ở đây là ở chỗ công ty phải chịu chi phí ban đầu này (thuế GTGT nhập khẩu) điều đó làm cho chi phí ban đầu tăng lên tình hình tài chính công ty trở nên khó khăn, do số nguyên vật liêu đã được đưa vào quy trình sản xuất sau khi tiêu thụ thì công mới thu hồi vốn ban đầu. Vì vậy công ty phải mất một khoản chi phí do phải nộp tiền thuế trước. Cũng do tính mới mẻ của luật thuế GTGT và do yêu cầu để thực hiên được Luật thuế này thì việc sử dụng hoá đơn chứng từ là điều kiện cần và đủ cho việc thực hiện thuế GTGT. Vì hoá đơn bán hàng là chứng cứ ban đầu làm cơ sở cho công ty tính thuế GTGT đầu vào, đầu ra, khi kê khai, nộp thuế nếu không thực hiện đầy đủ việc lập và giao hoá đơn khi mua, bán hàng hoá thì sẽ không có chứng cứ làm cơ sở kê khai, nộp thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế theo quy định của luật thuế GTGT. Chính vì thế trong quá trình mua bán sản phẩm, hàng hoá công ty đã phải mất nhiều thời gian hơn để lập, kiểm tra hoá đơn chứng từ, chính việc này đã làm tăng khối lượng công việc của cán bộ kế toán công ty, do phải ghi theo từng hoá đơn, chứng từ vào bảng kê để quyết toán với cơ quan thuế . Những khó khăn trên mà công ty Bánh kẹo Hải Hà gặp phải nhìn chung cũng là vấn đề bức xúc lớn đối với tất cả các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT . Tóm lại :Trong thời gian qua khi thực hiện luật thuế GTGT công ty Bánh kẹo Hải Hà nói riêng và các doanh nghiệp nói chung ngoài những thuận lợi mà thuế GTGT mang lại thì cũng gặp không ít khó khăn thiệt hại nhưng nhìn về lâu dài những gì các doanh nghiệp sẽ đạt được trong tương lại sẽ bù đắp lại và còn hơn hẳn những thiệt hại ban đầu, chính vì vậy việc tiếp tục hoàn thiện luật thuế GTGT sẽ còn được Nhà nước quan tâm và có trách nhiệm thúc đẩy việc thực hiện luật thuế GTGT theo hướng có lợi nhất cho nền kinh tế đất nước và cho phát triển lâu dài của các doanh nghiệp. Phần ba những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng 3.1. Mục đích, yêu cầu của việc hoàn thiện 3.1.1. Mục đích của việc hoàn thiện Theo một khái niệm được nhiều người thừa nhận, thuế là một hình thức phân phối lại được Nhà nước sử dụng để động viên một phần thu nhập của các thành phần kinh tế, là khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh mà Nhà nước bắt buộc mọi người dân và tổ chức kinh tế phải nộp cho Ngân sách để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Để có một khái niệm cơ bản về sự thay đổi thuế doanh thu bằng thuế GTGT trong bài viết này em xin trình bày một số mục đích cơ bản của thuế GTGT. Tại sao sử dụng thuế GTGT ?. Từ năm 1987 Nước ta đã tiến hành cải cách toàn diện và hiện đại hoá hệ thống thuế của mình. Theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây, Nhà nước quy định giá cả hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp, sao cho doanh nghiệp có được thặng dư lớn để nộp vào Ngân sách Nhà nước sau khi hai bên đã có những thương lượng nhất định. Theo cách như vậy ngành thuế đã phục vụ nền kinh tế một cách thụ động. Cho đến cuối năm 1987, 4/5 tổng thu Ngân sách từ thuế, tức là trên 2/3 tổng thu Ngan sách là thu từ các doanh nghiệp Quốc doanh. Quá trình pháp triển kinh tế đòi hỏi Chính Phủ phải pháp triển nguồn thu Ngân sách mới, với hàng loạt luật thuế mới được ban hành, Nước ta đã xây dựng cho mình một cấu trúc cơ bản của hệ thống thuế hiện đại . Mặc dù đã có nhiều thay đổi trong thời gian vừa qua, hệ thống thuế Nước ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết nghiêm trọng. Vấn đề đặt ra là hiện nay hầu hết các sắc thuế Nước ta vẫn còn rất phức tạp. điều đó làm cho việc thu thuế trở nên tốn kém cùng với việc các đơn vị nộp thuế đã tìm mọi cách để trốn thuế, bóp méo hệ thống thuế (hệ thống thuế có đến có hơn 10 sắc thuế khác nhau, thuế suất như thuế doanh thu có đến 11 mức, thuế nhập khẩu có đến 26 mức, thuế xuất khẩu có đến 11 mức..) Để đáp ứng được mục tiêu tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước thì hệ thống thuế quan đơn giản, ít ngoại lệ là khả năng pháp huy được tác dụng tốt nhất. Mục đích của việc đánh thuế phải tạo lập nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, và nhiệm vụ này phải thực hiện lâu dài, công bằng và hợp lý. Những truyền thống thuế được đánh giá thông qua tính linh hoạt, ổn định, hiệu quả và công bằng. đây là những chuẩn mực được thuế quan và kế toán quốc tế thừa nhận. - Tính linh hoạt có nghĩa là nguồn thu từ thuế phải tăng lên khi thu nhập quốc gia tăng mà không cần thay đổi lớn trong cơ cấu hệ thống thuế. Khi kinh tế phát triển nhu cầu chi tiêu của Chính Phủ cũng tăng lên và điều đó đòi hỏi nguồn thu từ thuế cũng phải tăng lên ở mức tương ứng để tránh thâm hụt Ngân sách. Một cơ cấu thuế linh hoạt sẽ giải quyết được vấn đề này. - Tính ổn định: Đòi hỏi múc thu phải ổn định không được giao động quá mức giữa các năm. - Tính hiệu quả: Hệ thống thuế hiệu quả sẽ giúp ta sẽ không phải tốn kém cho việc quản lý. Thông thường chi phí cho việc quản lý thuế chỉ chiếm một vài phần trăm tổng thu thuế, hệ thống thuế có hiệu quả sẽ không bóp méo sự lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng trong việc sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Với số lượng bao nhiêu. - Tính công bằng mang hai ý nghĩa: + Thứ nhất công bằng theo chiều ngang, nghĩa là những người có thu nhập ngang nhau thì phải chịu thuế như nhau không kể thu nhập đó đến từ nguồn nào... + Thứ hai Sự công bằng theo chiều dọc thường là những đối tượng có thu nhập cao hơn cần phải nộp ở mức cao hơn tương ứng. Vậy hệ thống thuế hiệu quả phải là một hệ thống như thế nào? Trước hết hệ thống đó bắt đầu từ thuế doanh thu có diện thu rộng, thuế doanh thu hiện hành của chúng tra có ưu điểm là thuế suất thấp, nhiều mức thuế phân biệt theo ngành nghề, mặt hàng nhưng nhược điểm cơ bản là tính trùng lắp qua mỗi lần bán hàng, không phù hợp với thông lệ quốc tế và tình hình mới, bỏ thuế doanh thu sang sử dụng Thuế GTGT là loại thuế tiêu biểu gián thu trên trị giá gia tăng thêm ở từng khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh. Những tồn tại trên đây của thuế doanh thu gây ra có thể giải quyết một cách căn bản bằng sắc Thuế GTGT . 3.1.1.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện Việc chuyển từ thuế doanh thu sang Thuế GTGT không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về kỷ thuật nghiệp vụ mà là sự thay đổi cơ bản về nội dung chính sách và biện pháp quản lý thuế nhằm làm cho chính sách thuế phù hợp hơn góp phần thúc đẩy nền kinh tế pháp triển theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá... do sự tác động mạnh mẽ của Thuế GTGT đến quá trình sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của hầu hết các doanh nghiệp trong nền kinh tế và nó còn tác động mạnh mẽ đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội vì vậy yêu cầu của việc thay thế đặt ra ở đây là tính công bằng, hợp lý tính linh hoạt và hiệu quả đó là một công việc cực kỳ khó khăn cho bất kỳ một Nhà nước nào vì mọi sự thay đổi đều có thể đảo lộn mọi hoạt động sản xuất kinh doạnh và còn ảnh hưởng đến các mặt khác của đời sống kinh tế xã hội. Vậy yêu cầu đặt ra ở đây là việc hoàn thiện phải đáp ứng dược những mục đích cơ bản của nó như: + Đảm bảo nguồn thu Ngân sách + Đảm bảo công bằng hợp lý cho các thành phần kinh tế phát triển, tạo “sân chơi” lành mạnh thúc đẩy sự phát triển chung của toàn xã hội. + Chống được việc trốn lậu thuế, trì trệ trong thu thuế Tuy nhiên thuế GTGT mà hiện tại chúng ta đang áp dụng cũng chưa hẳn là hoàn hảo vì qua hơn hai năm thực hiện thuế GTGT còn một số điểm bất cập, gây nên sự khó khăn cho các doanh nghiệp, vì lẽ đó nó sẽ còn được tiếp tục hoàn thiện và hoàn thiện hơn nữa để góp phần hoàn thiện hệ thống thuế nước ta, góp phần vào kết quả quá trình phát triển. 3.2. Những kết quả đạt được + Qua một quý đầu thực hiện đối chiếu với yêu cầu thì luật thuế GTGT đã đạt được những kết quả như sau: 3.2.1. Về tình hình thu Ngân sách Nhà Nước. Quý I/1999 thu ngân sách Nhà nước đạt 20,1% so với dự toán hàng năm và bằng 98,2% so cùng kỳ năm trước .Trong đó dự kiến thu thuế GTGT quý I/1999 đạt 19% so với dự toán năm, khi thiết kế chính sách thuế GTGT người ta đưa ra mục tiêu là số thu thuế GTGT phải tương đương so số thu thuế doanh thu. Trong số thu 19% thuế GTGT trong quý I/1999 thì số thu ở cơ sở kinh doanh trong nước đạt 18% dự toán năm, thu ở hàng hoá nhập khẩu đạt 9,3% dự toán năm ... theo báo cáo của một số địa phương và một số doanh nghiệp trọng điểm thì số thu thuế GTGT phần nội địa bằng 70%-75% so với mặt bằng số liệu thuế doanh thu . Qua báo cáo của các địa phương số doanh nghiệp kê khai và nộp tờ khai thuế GTGT chiếm 75% tổng số doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng,đối với doanh nghiệp không nộp tờ khai thuế cơ quan thuế đã ấn định số thuế phải nộp theo quy định của luật. Trong quý I/1999 để đảm bảo nguồn thu ổn định cho Ngân sách địa phương, Ngân sách trung ương bù đủ cho ngân sách địa phương phần giảm thu thuế GTGT so với thuế doanh thu là 1.519 tỷ đồng, sở dĩ có sự thâm hụt này là do khi áp dụng luật thuế GTGT là luật thuế có cơ cấu thu chi giữa Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương thay đổi .Trước đây không có chế độ hoàn thuế GTGT ,nay nguồn hoàn thuế được lấy từ Ngân sách địa phương, nguồn thu của Ngân sách địa phương giảm do một số hoạt động sản xuất ,kinh doanh nộp thẳng thuế vào Ngân sách Trung ương...trong quý I này Ngân sách Trung ương cấp 40% số bổ sung nêu trên cho Ngân sách địa phương. 3.2.2. Tác động đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh quý I/1999 tăng so cùng kỳ năm trước nhưng tốc độ tăng giảm dần. - Sản xuất công nghiệp tăng 10,3% so cung kỳ năm trước nhưng tốc độ tăng không cao bằng các năm trước (quý I/1997 tăng 14%,quý I/1998 tăng 13%) trong đó khu vực Nhà nước tăng 4,3%,đầu tư nước ngoài tăng 22,6% khu vực ngoài quốc doanh tăng 5,8%.... - Sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do thiên tai.... - Sản xuất kinh doanh so cùng kỳ năm trước có tốc độ tăng giảm dần do tác động của nhiều nguyên nhân. Đối với các nganh nghề tạm thời còn gặp khó khăn trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT, Quốc Hội, Chính Phủ các Bộ, Ngành các địa phương đã kịp thời có biện pháp tháo gỡ khắc phục những khó khăn nhằm ổn định sản xuất kinh doanh như mở rộng đối tượng được giảm thuế (cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ ăn uống...) bỏ mức khống chế, giảm tối đa không quá 50% số thuế phải nộp, cho khấu trừ đối với sắt thép phế liệu, hải sản mua của ngư dân. 3.2.3. Tác động đến thị trường giá cả hàng hoá dịch vụ . - Thị trường hàng hoá dồi dào, phong phú, mẫu mã đẹp chất lượng tốt hơn năm trước (năm 1998), đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng ,tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước tính quý I/1999 đạt 45.571 tỷ đồng tăng 10,2% so cùng kỳ năm trước. - Sự thay đổi hay ổn định giá cả là do quy luật cung cầu hay là do sự tác động của quản lý Nhà nước còn bản chất của thuế GTGT không gây lạm phát, tăng giá. Từ tình hình sản xuất kinh doanh, thị trường giá cả và thu Ngân sách nêu trên cho thấy việc triển khai luật thuế GTGT về cơ bản đã thực hiện đúng tinh thần của Luật thuế và chỉ đạo của Bộ Chính Trị, sau thời gian áp dụng chúng ta có thể khái quát như sau : Tình hình giá cả ổn định, Ngân sách Nhà nước không biến động, Sản xuất kinh doanh không bị ảnh hưởng xấu. 3.2.4. Tác động của thuế GTGT đến công ty bánh kẹo Hải Hà. Qua hai năm thực hiện Luât thuế GTGT đã có tác động đáng kể đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trong cả nước nói chung và công ty bánh kẹo Hải Hà nói riêng. Luật thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm thuế chồng lên thuế của thuế doanh thu, vì vậy trong thời gian qua công ty Bánh kẹo Hải Hà đã có những khoản lợi nhuận tăng đáng kể do tiết kiệm được thuế phải nộp (năm 1999 là 3.165,5triệu đồng, năm 2000 là 3.220 triệu đồng .) Hơn thế nữa Luật thuế GTGT ra đời đã khuyến khích công ty mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm được chi phí trong quá trình sản xuất, phát huy được vai trò, vị trí của mình trong cơ chế thị trường, đồng thời thuế GTGT tạo ra sân chơi công bằng bình đẳng giữa các doanh nghiệp. 3.3. nội dung hoàn thiện Luật thuế GTGT dược Quốc Hội khoá IX thông qua ngày 10/5/1997 tại kỳ họp thứ 11.Được Chủ Tịch Nước ký lệnh công bố ngày 25/5/1997 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Sau hơn hai năm thực hiện thuế GTGT chúng ta đã đạt được một số thành quả nhất định trên một số mặt như: - Khuyến khích đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển thuế GTGT đã lànm cho giá thành các công trình đầu tư trong nước giảm khoảng 10%, nên năm 1999 vốn đầu tư trong nước tăng 28,6%... - Khuyến khích sản xuất xuất khẩu với thuế suất 0%cho hàng hoá xuất khẩu bằng cách hoàn thuế đầu vào đã tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu và năm1999 kim ngạch xuất khẩu tăng 23,1%. - Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách, mặc dù khắc phục sự trùng lắp thuế chồng lên thuế của huế doanh thu nhưng năm 1999 nguồn thu Ngân sách vẫn đảm bảo tương đương với nguồn thu của thuế doanh thu tuy nhiên thuế GTGT còn khá mới mẻ với Việt Nam nên trong quá trình thực hiện tất yếu sẽ không tránh khỏi những vướng mắc, hạn chế nhất định, làm thế nào để hạn chế những vướng mắc đó và nâng cao hiệu quả thực hiện thuế GTGT đang là câu hỏi lớn đặt ra cho tất cả chúng ta... - Trong thời gian nghiên cứu đề tài em nhận hấy một số khó khăn và em mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, khó khăn, bất cập của Luật thuế GTGT hiện tại. Thứ nhất: Về thuế suất thuế GTGT : Trước đây khi áp dụng thuế doanh thu chúng ta đã sử dụng 11 nhóm thuế suất (từ 0% đến 30%), Nay sự ra đời của thuế GTGT đã dồn 11 nhóm mức thuế suất xuống còn 4 mức (0%,5%,10%,20%) việc dồn mức thuế này đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp thuận lợi hơn do việc thuế suất phải nộp giảm hơn so với trước nhưng đồng thời một số doanh nghiệp khác lại gặp phải khó khăn này do mức thuế mới phải nộp cao hơn trước, ví dụ như: Một số ngành, sản phẩm áp dụng thuế doanh thu với mức thuế suất thấp (1%, 2%...), nay áp dụng luật thuế GTGT với mức thuế cao hơn rất nhiều (bảng số liệu). Ngành, sản phẩm Thuế doanh thu Thuế GTGT sản phẩm cơ khí 1%-2% 10% sản phẩm thép 1%-2% 10% sản xuất phân bón 1% 5% Khai thác than 1%-2% 10% Giấy, bột giấy 1%-2% 10% Kinh doanh khách sạn 1%-2% 20% Kinh doanh bảo hiểm 4% 10% (Nguồn vụ chính sách tài chính -Bộ tài chính) Với mức thuế doanh thu và thuế GTGT chênh lệch như vậy dự toán kế hoạch năm 1999 của một số ngành như sau: Ngành thuế doanh thu(tr.đ) Thuế GTGT (tr.đ) ngành than 58.860 59.820 ngành thép 64.995 168.492 ngành giấy 30.314 53.617 (nguồn vụ chính sách tài chính-BTC) + Một số ngành sản phẩm đang áp dụng thuế suất thuế doanh thu ở mức cao nay chuyển sang mức thuế suất thuế GTGT thấp hơn. Ngành, sản phẩm Thuế doanh thu Thuế GTGT Sp thuỷ sản xuất khẩu 1%-4% 0% Xổ số kiến thiết 20%-30% 20% (nguồn vụ chính sách tài chính-BTC) + Một số ngành khi áp dụng thuế GTGT đơn vị thuế đầu vào được khấu trừ lớn làm giảm số thuế phải nộp ,đơn vị dược lãi lớn. Ngành Thuế doanh thu(tr.đ) Thuế GTGT (tr.đ) thuế nộp NS giảm (tr.đ) lãi (tr.đ) điện 1.171.331 188.612 982.719 219.726 Xi măng 520.948 220.678 300.270 713.362 Bưu chính-vt 638.739 501.987 136.758 2.750.403 TCT cao su 20.921 4.903 16.018 18.097 (Nguồn; phòng kinh doanh công ty Bánh kẹo Hải Hà) Qua kết quả trên chúng ta thấy rằng còn nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi áp dụng thuế GTGT tuy nhiên trong thực tế có khoảng 11.000 doanh nghiệp trước khi áp dụng luật thuế GTGT đang ở trong tình trạng thua lỗ (trong đó doanh nghiệp nhà nước khoảng 40% số doanh nghiệp thua lỗ đó) Nguyên nhân thua lỗ của các doanh nghiệp này chủ yếu là do sản phẩm làm ra không có thị trường tiêu thụ, đầu tư không có hiệu quả, quản lý kinh doanh kém.... Đối với các doanh nghiệp này cần phải đổi mới công nghệ sắp xếp lại sản xuất, cải tiến lại quản lý để đảm bảo sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Còn đối với doanh nghiệp bị thua lỗ do thay đổi mức thuế suất của thuế GTGT thì Nhà nước giảm bớt thuế để bớt lỗ và biện pháp này chỉ thực hiện trong thời gian nhất định còn về lâu dài Nhà nước sẽ không điều chỉnh mức thuế cá biệt cho từng doanh nghiệp để tránh lặp lại việc hình thành nhiều mức thuế suất như thuế doanh thu trước đây, xoá vỡ nguyên tắc bình đẳng, công bằng về nghĩa vụ nộp thuế . Trước tình hình khó khăn đó để đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường từng bước vươn lên thích ứng với quá trình chuyển đổi sang cơ chế mới, Chính phủ đã ban hành Ngị định số 102/1998/NĐ-CP ngày 21/12/1998 trong đó cho giảm 50% mức thuế GTGT đối với : Than đá, máy cày, máy kéo, máy công cụ, máy động lực, máy bơm nước, một số mặt hàng lương thực, thực phẩm tươi sống, rau quả tươi sống sản xuất trong nước, kinh doanh khách sạn, du lịch, ăn uống ....Hiện nay một số đơn vị kinh doanh các mặt hàng như sản phẩm cơ khí (đặc biệt là sản phẩm cơ khí tư liệu sản xuất) sản phẩm hoá chất cơ bản, xuất bản và phát hành phim vi-đê-ô, vận tải hàng hoá và một số dịch vụ khác đang gặp khó khăn vẫn chưa được giảm thuế suất thuế GTGT. Nhà nước nên có chính sách giảm thuế suất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này vượt qua khó khăn. + Đối với các doanh nghiệp sản xuât đang còn phải nhập nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện từ nước ngoài như ngành cơ khí điện tử, dệt, sản xuất bóng đèn, phích nước....cũng như nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, vật tư, hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn Áp dụng thuế GIÁ TRỊ GIA TĂNG tại công ty Bánh kẹo Hải Hà -thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan