Đề tài Tác động đầu tư công đến tăng trưởng của tỉnh Long An

Tài liệu Đề tài Tác động đầu tư công đến tăng trưởng của tỉnh Long An: Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Là cửa ngõ nối thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, được kết nạp chính thức vào thành viên của Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam ( KTTĐPN ) từ năm 2000, lại nằm trong vành đai dãn nở công nghiệp và đô thị của trung tâm kinh tế lớn thành phố Hồ Chí Minh, Long An có lợi thế rất lớn trong cơ hội nâng cao năng lực sản xuất, trong thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, trong trao đổi buôn bán quốc tế và đặc biệt là việc sớm tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học trong sản xuất, trong quản lý. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, với xuất phát điểm thấp hơn so với các Tỉnh trong vùng KTTĐPN do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp, đã làm hạn chế cơ hội thu hút đầu tư vào địa bàn Tỉnh Long An. Với vị trí và những điều kiện thuận lợi sẵn có, để c...

pdf76 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tác động đầu tư công đến tăng trưởng của tỉnh Long An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Là cửa ngõ nối thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, được kết nạp chính thức vào thành viên của Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam ( KTTĐPN ) từ năm 2000, lại nằm trong vành đai dãn nở công nghiệp và đô thị của trung tâm kinh tế lớn thành phố Hồ Chí Minh, Long An có lợi thế rất lớn trong cơ hội nâng cao năng lực sản xuất, trong thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, trong trao đổi buôn bán quốc tế và đặc biệt là việc sớm tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học trong sản xuất, trong quản lý. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, với xuất phát điểm thấp hơn so với các Tỉnh trong vùng KTTĐPN do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp, đã làm hạn chế cơ hội thu hút đầu tư vào địa bàn Tỉnh Long An. Với vị trí và những điều kiện thuận lợi sẵn có, để có thể phát triển, hội nhập nhanh vào Vùng KTTĐPN thì vai trò của đầu tư công trên địa bàn Tỉnh là một yếu tố quan trọng. Để tìm hiểu sự tác động của đầu tư công với tăng trưởng kinh tế của Tỉnh trong thời gian qua, tôi đã lựa chọn đề tài: “Tác động Đầu tư công đến tăng trưởng của Tỉnh Long An” 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Đề tài được nghiên cứu nhằm đánh giá tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Long An trong thời gian qua. Từ đó, đưa ra các giải pháp, khuyến nghị nhằm giúp lãnh đạo Tỉnh có chính sách đầu tư Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 2 hợp lý để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Tỉnh cao và ổn định trong dài hạn. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đề tài được thiết kế nghiên cứu theo các bước và quy trình như sau: - Bước 1: nghiên cứu các lý thuyết đầu tư công. - Bước 2: từ các mô hình lý thuyết, chọn mô hình phù hợp để thiết kế phân tích tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế. - Bước 3: thu thập số liệu và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS qua mô hình hồi bội. - Bước 4: sử dụng kết quả tính toán, kết luận vấn đề nghiên cứu và minh chứng cho lý thuyết. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu: tác động đầu tư của khu vực công đến tăng trưởng kinh tế của Tỉnh. - Phạm vi nghiên cứu: được thực hiện trên địa bàn Tỉnh Long An trong giai đoạn 1987-2007 5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Lý thuyết đầu tư Đầu tư công Thiết kế mô hình phân tích các chỉ tiêu Thu thập và xử lý số liệu Kết quả và kết luận Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 3 - Góp phần đánh giá đúng tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế trên địa bàn Tỉnh. - Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị để thực hiện đầu tư công có hiệu quả hơn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Tỉnh cao và bền vững trong dài hạn. - Có thể giúp cho lãnh đạo Tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch định chính sách đầu tư và phân bổ vốn đầu tư công có hiệu quả hơn. 6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI Đề tài được kết cấu thành 3 chương chính, bao gồm: Chương 1: Tổng quan về lý thuyết đầu tư. Chương 2: Đánh giá thực trạng đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế Tỉnh Long An. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công trên địa bàn Tỉnh Long An. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT ĐẦU TƯ 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Đầu tư Đầu tư là phần sản lượng được tích lũy nhằm để gia tăng năng lực sản xuất tương lai của nền kinh tế (Sach-Larrain 1993). Sản lượng ở đây có thể do nền kinh tế tự sản xuất hay là do nhập khẩu từ bên ngoài, có thể là các sản phẩm hữu hình như máy móc, thiết bị,…hay là các sản phẩm vô hình như bằng phát minh, sáng chế…Cũng có định nghĩa đầu tư là hoạt động bỏ vốn ở hiện tại nhằm mục đích sinh lời ở tương lai. Vốn ở đây có thề là tiền, là tài sản, là sức lao động, là trí tuệ. Quá trình tích lũy vốn đến đầu tư được thể hiện qua ba khâu: tiết kiệm, huy động tiết kiệm vào hệ thống tài chính và cuối cùng là đầu tư. Vốn (hay tư bản) trong nền kinh tế tại một thời điểm nào đó được định nghĩa là bằng giá trị tổng các đầu tư qua các năm, tính đến thời điểm đó. Trong thực tế, để tính toán giá trị vốn tại một thời điểm nào đó người ta cộng tất cả các đầu tư trước đó rồi trừ đi khấu hao hàng năm. Một cách khác để tính giá trị vốn của nền kinh tế tại một thời điểm nào đó là người ta căn cứ vào giá cả thị trường hiện tại của các tài sản vốn này. Theo các nhà kinh tế thì chi cho giáo dục cũng là một dạng của đầu tư-đầu tư vốn con người. Đầu tư cho giáo dục cũng nhằm làm tăng năng lực sản xuất tương lai của nền kinh tế vì con người được trang bị kiến thức tốt hơn thì sẽ làm việc hiệu quả hơn, năng suất sẽ cao hơn. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 5 1.1.2. Nguồn vốn đầu tư Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế thì nguồn vốn đầu tư bao gồm hai loại sau: nguồn trong nước tiết kiệm được và nguồn từ nước ngoài đưa vào. Nguồn từ nước ngoài đưa vào có thể dưới dạng: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, các khoản vay nợ và viện trợ, tiền kiều hối và thu nhập do nhân tố từ nước ngoài chuyển về. Có thể chia vốn đầu tư làm 2 loại là đầu tư của khu vực doanh nghiệp và cá nhân (khu vực tư) và đầu tư của khu vực nhà nước (khu vực công). - Nguồn vốn đầu tư của khu vực tư: trên lý thuyết thì nguồn đầu tư của khu vực tư (Ip) được hình thành từ tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và của cá nhân (Sp) và luồng vốn của nước ngoài đổ vào khu vực này (Fp): Ip = Sp + Fp Sp = Ypd – Cp Trong đó: Ypd là thu nhập khả dụng; Cp là tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình Nguồn tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và cá nhân thường là nguồn chủ yếu trong nền kinh tế. Nguồn vốn của nước ngoài đổ vào khu vực tư thường ở các dạng như đầu tư trực tiếp (FDI) và các khoản nợ. - Nguồn vốn đầu tư của khu vực công: nguồn đầu tư của nhà nước (Ig) được xác định theo công thức sau: Ig = (T – Cg) + Fg. Trong đó: T là các khoản thu của khu vực nhà nước; Cg là các khoản chi tiêu của khu vực nhà nước không kể chi đầu tư. Chênh lệch giữa khoản thu và chi này là tiết kiệm của khu vực nhà nước; Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 6 Fg là các khoản viện trợ và vay nợ từ nước ngoài vào khu vực nhà nước. Dựa vào đẳng thức trên, ta thấy đầu tư của khu vực nhà nước được tài trợ bởi ba nguồn: Thứ nhất là khả năng huy động vốn của khu vực nhà nước từ khu vực doanh nghiệp và cá nhân hoặc các tổ chức tài chính trung gian. Hình thức huy động này được thực hiện bằng việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu của nhà nước. Thứ hai là tiết kiệm của khu vực nhà nước, bằng các khoản thu về ngân sách nhà nước trừ cho các khoản chi thường xuyên. Trong trường hợp các nước kém phát triển thì khoản tiết kiệm này rất khiêm tốn, không đủ đáp ứng nguồn vốn đầu tư lớn cho phát triển, nhất là vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Thứ ba là nguồn vốn giúp đỡ từ nước ngoài. Nguồn này có vai trò khá quan trọng đối với các nước kém phát triển. Các nguồn từ nước ngoài thường dưới dạng viện trợ hoặc nợ. 1.1.3. Đối tượng đầu tư Trong một nền kinh tế, tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức và vì vậy cũng có nhiều loại đầu tư. Có 3 loại đầu tư chính sau: - Đầu tư vào tài sản cố định: là đầu tư vào nhà, xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải…Đầu tư dưới dạng này chính là đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào đầu tư loại này. - Đầu tư vào tài sản lưu động: tài sản lưu động là những nguyên vật liệu thô, bán thành phẩm được sử dụng hết sau mỗi quá trình sản xuất. Ngoài ra, tài sản lưu động cũng có thể là thành phẩm được đơn vị đó sản xuất ra mà chưa đem đi tiêu thụ hết. Như vậy, lượng đầu tư vào Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 7 loại tài sản này chính là sự thay đổi về khối lượng của các hàng hoá này trong một thời gian nhất định. Và khi họ đầu tư vào loại tài sản này, đơn vị sản xuất, kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất bằng cách: (1) đầu tiên để tiết kiệm thời gian và chi phí quản lý, giao tiếp và phân phối; (2) đồng thời nhằm đảm bảo vật tư sản xuất luôn có sẵn khi cần. Xét trên tổng thể nền kinh tế thì có một dạng đầu tư vào các tài sản cố định rất quan trọng, đó là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phần lớn lượng đầu tư vào cơ sở hạ tầng do nhà nước đảm nhận. Tuy nhiên, trong nền kinh tế nhiều thành phần thì khu vực tư nhân và khu vực nước ngoài cũng tham gia đầu tư, kinh doanh cơ sở hạ tầng bằng các hình thức thích hợp (ví dụ như BOT, BTO, BT,...). Đặc điểm của đầu tư vào các loại hàng hoá công là nhu cầu vốn lớn, lâu thu hồi vốn nên thường do nhà nước đảm trách. Tuy nhiên, đầu tư vào kết cấu hạ tầng có tác động thúc đẩy đầu tư của các thành phần kinh tế khác phát triển. 1.1.4. Các lý thuyết về đầu tư công 1.1.4.1. Quan điểm của trường phái tân cổ điển Quan điểm của trường phái này cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế trong quá trình phân bổ nguồn lực như vốn và lao động…mà sự vận động của thị trường sẽ thực hiện tốt hơn vai trò này. Trường phái này khẳng định là một trong các ưu điểm kinh tế thị trường đó là sự phân bổ nguồn lực một cách tự động hay qua bàn tay vô hình của thị trường. Đầu tư là một hình thức phân bổ nguồn lực trong các hình thức đó - phân bổ vốn trong nền kinh tế. Theo lý thuyết này, các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế trong quá trình tìm đến điểm tối đa hoá lợi nhuận sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt nhất cho chính mình, và như vậy nhà nước không cần can thiệp để tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý cho doanh nghiệp vì bản thân doanh Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 8 nghiệp biết rõ hơn ai hết là cần phải làm gì để đạt lợi ích tốt nhất cho chính doanh nghiệp. Cộng tất cả các đơn vị sản xuất này trong nền kinh tế sẽ hình thành một cơ cấu đầu tư của một nền kinh tế và theo lập luận trên, và cơ cấu đó là hợp lý. Vai trò của nhà nước trong trường hợp này chỉ dừng lại ở mức là cung cấp các hàng hoá công cộng cần thiết cho nền kinh tế như kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội mà nếu để thị trường tự vận động thì không thể đáp ứng được. Giả định của trường phái tân cổ điển là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đây là thị trường mà người bán và người mua có khả năng kiểm soát giá vá họ có đầy đủ thông tin về thị trường không những trong hiện tại mà cả ở tương lai. 1.1.4.2. Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của nhà nước Quan điểm này cho rằng do sự không hoàn hảo của thị trường, nhất là các nước đang phát triển, nên sự tự thân vận động của thị trường sẽ không mang lại kết quả tối ưu. Thông tin không hoàn hảo có thể sẽ dẫn đến sản xuất và đầu tư quá mức. Trong trường hợp này, nhà nước phải là người tổ chức cung cấp thông tin tốt để thị trường hoạt động tốt hơn. Mặt khác, ở hầu hết các nước đang phát triển, nền kinh tế còn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, nếu để thị trường tự thân vận động thì sẽ không thể tạo ra sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ được mà chuyển dịch cơ cấu là nội dung của tiến trình công nghiệp hoá , Nhà nước cần phải tạo ra sự khởi động ban đầu để các thành phần kinh tế phát triển, tránh những rủi ro, mất cân đối trong nền kinh tế, và sự can thiệp của nhà nước, nhất là trong việc phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế là rất cần thiết. 1.1.4.3. Quan điểm về sự phát triển cân đối hay không cân đối - Thuyết tăng trưởng cân đối Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 9 Theo Rosenstain - Rodan, khái niệm tăng trưởng cân đối được đưa ra nhằm mô tả sự tăng trưởng cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế. Ông đề xuất đầu tư nên hướng cùng lúc vào nhiều ngành để tăng cung cũng như cầu cho nhiều sản phẩm bằng cách tăng thu nhập của lao động trong những ngành này. Sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi lượng đầu tư lớn trong một thời gian dài. Từ đó phát sinh nhu cầu phát triển song song cả hàng hoá phục vụ sản xuất lẫn phục vụ tiêu dùng. Ý tưởng về “cú huých” lập luận rằng, một sự gia tăng đột ngột về đầu tư có thể làm cho mức tiết kiệm tăng lên bởi vì sự gia tăng đột ngột của thu nhập. “Cú huých” này biểu hiện thông qua các hoạt động của chính phủ và mục tiêu của viện trợ nước ngoài. Cũng theo Rosenstain-Rodan, mục đích của viện trợ nước ngoài cho các nước kém phát triển là đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế đến một điểm mà ở đó tốc độ tăng trưởng kinh tế mong muốn có thể đạt được trên nền tảng tự duy trì, không phụ thuộc vào các nguồn tài trợ bên ngoài. - Thuyết tăng trưởng không cân đối Hirchman (1958) đưa ra một mô hình trái ngược với thuyết tăng trưởng cân đối, ông cho rằng sự mất cân đối giữa cung và cầu tạo ra động lực cho nhiều dự án mới. Theo đó, cách tiếp cận này yêu cầu phần lớn vốn đầu tư được phân phối bởi nhà nước cho những ngành công nghiệp trọng điểm, nhằm tạo ra những cơ hội ở những ngành khác trong nền kinh tế, từ đó khuyến khích làn sóng đầu tư thứ hai. Những ngành được chọn ra để đầu tư nên được đánh giá theo mối liên hệ giữa ngành đó với các ngành liên quan theo “chuỗi giá trị”, điều này nói đến khả năng tạo ra những ngành mới làm đầu ra hay cung cấp đầu vào cho những ngành được chọn để đầu tư. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 10 Hirchman chấp nhận có sự can thiệp của nhà nước nhưng ông cho rằng ý tưởng “cú huých” là không khả thi mà thay vào đó, sự phát triển tốt nhất là được tạo ra từ những mất cân đối như thế. Do nguồn vốn có hạn, chính phủ không thể bảo đảm đầu tư một cách rải đều cho tất cả các ngành khác để đảm bảo phát triển ngành này cũng là tạo điều kiện để ngành khác phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, nhiều định chế của cơ chế thị trường chưa hình thành hoàn chỉnh nên các điều kiện của thị trường cạnh tranh hoàn hảo chưa thể đáp ứng được. Mặt khác, nền kinh tế nước ta đang ở trình độ rất thấp, chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp, trình độ cư dân thấp…đòi hỏi phải có vai trò chủ động của nhà nước trong việc định hướng phát triển các ngành kinh tế, nhà nước phải tạo những tiền đề nhất định như hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực…để thúc đẩy phát triển kinh tế. 1.2. Mối tương quan giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế 1.2.1. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế có nghĩa là gia tăng tổng sản lượng quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Sản lượng được tạo ra từ sản xuất, như vậy, nguồn gốc của tăng trưởng xuất phát từ quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất là quá trình mà trong đó các yếu tố đầu vào được phối hợp theo những cách thức tốt nhất để tạo ra khối lượng sản phẩm. Nếu xét ở góc độ phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì việc tạo ra tổng sản lượng quốc gia sẽ có quan hệ phụ thuộc vào các nguồn lực đầu vào của quốc gia. Một sự thay đổi tổng sản lượng quốc gia khi có sự thay đổi các nguồn lực đầu vào. Các lý thuyết tăng trưởng ra đời phân tích nguồn gốc của tăng trưởng với nhiều quan điểm khác nhau, mỗi lý thuyết đầu có sự khám Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 11 phá mới, nhưng trên căn bản vẫn là phân tích mối quan hệ đầu ra với đầu vào. Mối quan hệ đầu ra (GDP, GNP) với đầu vào được khái quát qua hàm sản xuất : Y = F(Xi) với i = 1, 2,….,n Xi là yếu tố đầu vào Hầu hết các nhà kinh tế học thống nhất các yếu tố đầu vào cơ bản của nền kinh tế, bao gồm: (1) Vốn sản xuất là yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất để tạo ra tổng sản lượng quốc gia (2) Lao động là yếu tố sản xuất đặc biệt có ảnh hưởng quan trọng đến gia tăng sản lượng quốc gia (3) đất đai nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên khác là tư liệu sản xuất góp phần làm gia tăng sản lượng quốc gia (4) Công nghệ là đầu vào quan trọng làm thay đổi phương pháp sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng quốc gia. Như vậy hàm sản xuất tổng hợp được thể hiện: Y = F(K, L, R, T) Hàm sản xuất cho thấy tăng trưởng tổng sản lượng phụ thuộc vào quy mô, chất lượng của các yếu tố đầu vào K, L, R, T và cách thức phối hợp chúng. Mỗi yếu tố giữ một vai trò nhất định và có tác động qua lại lẫn nhau, tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, có thể yếu tố nào đó được đề cao hơn yếu tố khác nhưng không có nghĩa là phụ thuộc duy nhất vào một yếu tố. Ngoài các yếu tố trên, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào những yếu tố phi kinh tế khác như: thể chế kinh tế chính trị, đặc điểm về văn hoá-xã hội, tôn giáo… 1.2.2. Một số mô hình phân tích nguồn gốc tăng trưởng kinh tế Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 12 Trong quá trình phát triển của kinh tế học, nguồn gốc của tăng trưởng được giải thích khác nhau bởi các nhà kinh tế học, có một số mô hình chủ yếu được phổ biến như sau: - Mô hình Ricardo (David Ricardo, 1772-1832): cho rằng đất đai sản xuất nông nghiệp là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Ông cho rằng giới hạn của đất làm cho lợi nhuận của người sản xuất có xu hướng giảm do chi phí sản xuất lương thực thực phẩm cao, giá hàng hoá tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và giới hạn của đất cũng làm cho năng suất lao động nông nghiệp thấp, xuất hiện thừa lao động trong nông nghiệp do đó hiệu suất sử dụng lao động thấp làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. - Trường phái Tân Cổ điển: cho rằng dưới tác động của khoa học và công nghệ, chất lượng ruộng đất không ngừng nâng cao vì vậy ngay từ đầu phải nâng cao năng suất lao động nhằm giảm áp lực tăng giá nông sản đồng thời đầu tư cho cả công nghiệp phát triển theo chiều sâu nhằm giảm áp lực cầu lao động. - Mô hình hai khu vực, được giải thích bởi Lewis (1995) và Oshima: Lewis cho rằng, đối với khu vực nông nghiệp do đất đai ngày càng hiếm trong khi lao động ngày càng tăng, sẽ có tình trạng dư thừa lao động, hệ quả là sản phẩm biên của lao động nông nghiệp bằng không, mức tiền lương ở mức tối thiểu. Đối với khu vực công nghiệp, do tiền lương của khu vực này cao hơn khu vực nông nghiệp nên có thể thu hút lao động dư thừa của khu vực nông nghiệp, quá trình này diễn ra đến khi thu hút hết lao động dư thừa. Đến một lúc nào đó, lợi nhuận khu vực công nghiệp giảm, bắt buộc nhà tư bản công nghiệp sẽ lựa chọn Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 13 yếu tố khác thay thế lao động (công nghệ thâm dụng vốn), quá trình tăng trưởng sẽ tiếp tục. - Mô hình Harry T. Oshima: cho rằng trong giai đoạn 1 nên đầu tư cho nông nghiệp phát triển theo chiều rộng nhằm đa dạng hoá sản xuất thu hút lao động nông nghiệp không cần chuyển lao động thừa qua công nghiệp. Giai đoạn 2 đồng thời đầu tư phát triển theo chiều rộng các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Giai đoạn 3 phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm nhu cầu lao động. - Mô hình Harrod – Domar: cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế chính là lượng vốn sản xuất tăng thêm có được từ đầu tư và tiết kiệm của quốc gia. Mô hình này đưa ra mối quan hệ hàm giữa vốn (ký hiệu là K) và tăng trưởng sản lượng (ký hiệu là Y) và cho rằng sản lượng của bất kỳ một thực thể kinh tế nào - cho dù đó là một doanh nghiệp, một ngành kinh tế, hay của toàn bộ nền kinh tế đều phụ thuộc vào số lượng vốn đã đầu tư vào thực thể kinh tế đó, được biểu diễn dưới dạng hàm: Y = K/k Trong đó k là hằng số, được gọi là hệ số vốn sản lượng. Chuyển sang tốc độ tăng, ta có: +Y = +K/k Chia cả 2 vế của đẳng thức trên cho Y, ta có: +Y/Y = (+K/Y).1/k +Y/Y chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế, +K/Y là tỷ lệ đầu tư/GDP. Điều này có nghĩa là để đạt được tốc độ tăng trưởng nào đó thì nền kinh tế phải đầu tư theo một tỷ lệ nhất định nào đó trên GDP. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 14 Khi chuyển sang tốc độ tăng thì hệ số k gọi là hệ số ICOR (incremental capital-output ratio). Hệ số này cho ta biết là để tăng được một đồng GDP thì cần phải đầu tư bao nhiêu đồng vốn. Nguồn đầu tư trên có thể là do tiết kiệm trong nước hay vốn nước ngoài đưa vào. Theo mô hình tăng trưởng “nhị khuyết” (two-gap model), thì ở hầu hết các nước đang phát triển, tiết kiệm nội địa thường thấp nên không thể đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư, do đó phải huy động vốn từ bên ngoài (“khuyết 1”). Do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào khả năng tiết kiệm của nền kinh tế và khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Ngoài ra, cũng theo mô hình này thì do đầu tư ở các nước đang phát triển phần lớn là phải nhập khẩu máy móc, thiết bị… nên việc thiếu hụt ngoại hối có thể trở thành một trong những cản trở chính cho hoạt động đầu tư (“khuyết 2”), và đó cũng là cản trở cho tăng trưởng kinh tế. - Mô hình Robert Solow (1956): cho rằng việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, không ảnh hưởng trong dài hạn. Một nền kinh tế có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn thì nền kinh tế đó sẽ có mức sản lượng cao hơn (GDP) nhưng không ảnh hưởng đến tăng trưởng trong dài hạn. Trong dài hạn tốc độ tăng trưởng sản lượng bằng 0, tỷ lệ tiết kiệm càng lớn mức sản lượng ở trạng thái dừng càng cao. Mô hình này giải thích tính chất hội tụ của nền kinh tế - hay sự cân bằng cách biệt giàu nghèo giữa các quốc gia. Nếu hai nền kinh tế do điều kiện lịch sử mà xuất phát với 2 mức vốn khác nhau, quốc gia có mức thu nhập thấp hơn tất yếu sẽ tăng trưởng nhanh hơn, dần đuổi kịp quốc gia có thu nhập cao hơn, nhờ tăng tỷ lệ tiết kiệm. Ví dụ Nhật Bản trong những năm 1950-1960 dần đuổi kịp Mỹ về mức thu. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 15 - Mô hình Kaldor: cho rằng nguồn gốc tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào phát triển tiến bộ kỹ thuật, tức trình độ công nghệ T. Mô hình này bổ sung thêm ngoài yếu tố vốn sản xuất, tăng trưởng kinh tế còn tùy thuộc vào trình độ phát triển công nghệ, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển thường chưa chú trọng đúng mức vai trò phát triển của khoa học và công nghệ trong chính sách phát triển kinh tế. - Mô hình Sung Sang Park: cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng GDP phụ thuộc vào các cơ sở sản xuất đã được xây dựng trên thực tế và trình độ kỹ năng lao động. Nói khác, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào quá trình tích lũy vốn sản xuất K và quá trình tích lũy trình độ công nghệ T. Theo Park, tích lũy vốn sản xuất sẽ được thực hiện một cách liên tục nhờ vào hoạt động đầu tư, tích luỹ công nghệ phụ thuộc vào đầu tư phát triển con người, Y = F(KI, HI). Vốn đầu tư quốc gia cần được phân bổ cho đầu tư con người, không nên chỉ quan tâm vào đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất. - Trường phái Tân Cổ điển: xuất hiện vào cuối thế kỷ 19, trường phái này cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế tuỳ thuộc và cách thức kết hợp giữa yếu tố đầu vào; vốn (K) và lao động (L). Theo mô hình này, có 2 cách thức để thực hiện tăng trưởng: chiều rộng và chiều sâu. Đối với các nước đang phát triển thường lựa chọn cách thức tăng trưởng theo chiều rộng như lựa chọn công nghệ thâm dụng lao động. Tuy nhiên cách thức này lại hạn chế việc nâng cao năng suất lao động. Do đó, trong chính sách kinh tế cần quan tâm đến việc khuyến khích những ngành có điều kiện để thực hiện tăng nhanh hệ số vốn trên lao động. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 16 1.2.3. Mối tương quan giữa đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế Đầu tư tác động lên tăng trưởng kinh tế ở 2 mặt: tổng cung và tổng cầu. Trong hàm tổng cầu thì đầu tư là một thành phần của tổng cầu có dạng: Y= C + I + G + X - M (1) Trong đó: Y là sản lượng hay thu nhập quốc dân; C là tiêu dùng dân cư; I là đầu tư; G là chi tiêu của nhà nước; X là xuất khẩu và M là nhập khẩu. Từ đẳng thức (1) ta thấy rằng khi đầu tư I tăng lên thì trực tiếp làm cho thu nhập quốc dân Y tăng lên. Theo lý thuyết Keynes thì khi đầu tư tăng lên một đơn vị thì làm cho Y tăng hơn một đơn vị. Thật vậy, khi thay thế C = a + b.Y và M = u + v.Y là hàm tiêu dùng và hàm nhập khẩu biểu diễn theo Y thì đẳng thức (1) có dạng: Y = a + b.Y +I + G + X – u - v.Y Chuyển vế, ta có: Y= (a + I+ G + X - u) / (1- b + v) (2) Vì b là hệ số thiên hướng tiêu dùng biên bao gồm tiêu dùng trong nước và tiêu dùng nhập khẩu, v là hệ số thiên hướng tiêu dùng nhập khẩu. Do đó (b - v) sẽ lớn hơn 0 và (1- b + v) sẽ nhỏ hơn 1, tức là 1/ (1 – b + v) sẽ lớn hơn 1. Từ đẳng thức (2) cho thấy là: với các điều kiện khác không đổi thì khi đầu tư (I) gia tăng một đơn vị thì thu nhập (Y) sẽ gia tăng hơn một đơn vị, ảnh hưởng này gọi là ảnh hưởng hệ số nhân. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 17 Trong thực tế thì mức độ của ảnh hưởng trên còn tùy thuộc vào năng lực cung của nền kinh tế. Nếu năng lực cung mà hạn chế thì việc gia tăng tổng cầu, dù với bất cứ lý do nào, chủ yếu chỉ làm tăng giá cả mà thôi, còn sản lượng thực tế thì không tăng lên bao nhiêu. Ngược lại, nếu năng lực cung mà dồi dào thì việc gia tăng tổng cầu thật sự làm tăng sản lượng như lý thuyết Keynes đã đưa ra ở trên. Năng lực cung của nền kinh tế biểu hiện ở độ dốc của đường cung. Ảnh hưởng khác của đầu tư lên tăng trưởng kinh tế thông qua tổng cung thể hiện ở chỗ: vốn là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn được kết hợp với lao động và tài nguyên thông qua quá trình sản xuất sẽ tạo ra của cải vật chất trong xã hội. Vốn không chỉ đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế với tư cách là đầu vào của sản xuất ( đóng góp về mặt lượng) mà còn đóng góp một cách gián tiếp thông qua việc thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật do đầu tư mới mang lại, do lợi thế kinh tế nhờ quy mô lớn, tức một số ngành việc đầu tư mở rộng quy mô sẽ làm giảm chi phí sản xuất do chuyên môn hoá…đây là những đóng góp về chất của đầu tư, tức là hiệu quả của nền kinh tế đã được nâng cao. Như vậy, các mô hình tăng trưởng đơn giản đều nhấn mạnh đến yếu tố vốn trong tăng trưởng. 1.3. Đặc điểm cuả đầu tư công và vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 1.3.1. Đặc điểm cuả đầu tư công Hàng hóa công là loại hàng hoá không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Tính phi cạnh tranh về tiêu dùng biểu hiện cùng một lúc có hơn một người tận hưởng những lợi ích từ hàng hoá công, và chi phí đáp ứng nhu cầu đòi hỏi các đối tượng tiêu dùng tăng thêm này là bằng Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 18 không. Phần lớn hàng hoá công do Chính phủ cung cấp và ngoài ra còn có thể huy động sự tham gia của khu vực tư để đáp ứng nhu cầu về hàng hoá công của xã hội. Hàng hoá công có tính tiêu dùng chung, khi tăng thêm một người tiêu dùng thì hàng hoá công sẽ không làm giảm đi lợi ích của những người tiêu dùng hiện có và chi phí đáp ứng đòi hỏi của các đối tượng tiêu dùng tăng thêm là bằng không. Khi hàng hoá công được cung cấp thì không thể loại trừ hoặc rất tốn kém để loại trừ một người nào đó tiêu dùng hàng hoá mà không chịu trả tiền cho hành động tiêu dùng của mình. Tại sao Chính phủ phải cung cấp hàng hoá công? Nguyên nhân là có sự thất bại của khu vực tư trong việc cung cấp hàng hoá công, tính không hiệu quả do khu vực tư cung cấp hàng hoá công và làm giảm phúc lợi xã hội. Sự phát triển của xã hội trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại đã cho thấy chi tiêu công hoàn toàn không mất đi mà trái lại nó tạo ra sự tái phân phối giữa các khu vực trong nền kinh tế. Chính phủ đóng vai trò là một trung tâm của quá trình tái phân phối thu nhập thông qua các khoản chi tiêu công. Với ý nghĩa đó, đầu tư công đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn nền kinh tế đang có những bước chuyển đổi nhằm sử dụng các nguồn vốn đầu tư có hiệu quả. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, đầu tư công chuyển mạnh sang đầu tư cho phát triển các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, cho sự nghiệp giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có một vai trò rất lớn trong đầu tư công để tạo những bước đột phá phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong nền kinh tế nhiều thành phần thì khu vực tư nhân trong nước và Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 19 khu vực nước ngoài cũng tham gia đầu tư, kinh doanh cơ sở hạ tầng bằng các hình thức thích hợp (ví dụ như BOT, BTO, BT,...). - Đầu tư công của ngân sách nhà nước là khoản chi tích lũy Chi đầu tư công trực tiếp làm gia tăng số lượng và chất lượng tài sản cố định, gia tăng giá trị tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Vấn đề này thể hiện rõ nét thông qua việc nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như: giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục…Sự tăng lên về số lượng và chất lượng của hàng hoá công này là cơ sở và nền tảng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân trên các mặt: phát triển cân đối giữa các ngành, các lãnh vực, các vùng kinh tế trên lãnh thổ quốc gia; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh; thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế, thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài và tạo động lực, cú hích cho sự tăng trưởng. - Quy mô và cơ cấu chi đầu tư công của ngân sách nhà nước không cố định và phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ và mức độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Theo kinh nghiệm phát triển cho thấy, trong thời kỳ đầu thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, quy mô chi đầu tư công của ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ khá lớn so với tổng đầu tư xã hội. Ở giai đoạn này, do khu vực kinh tế tư nhân còn yếu trong khi chính sách thu hút vốn đầu tư chưa hoàn thiện nên nhà nước phải tăng cường quy mô đầu tư từ ngân sách nhà nước để tạo đà cho tiến trình công nghiệp hoá. Đi đôi với sự gia tăng quy mô thì cơ cấu chi đầu tư cũng rất đa dạng để đáp ứng với nhu cầu thực tiễn đặt ra, như chi hỗ trợ, chi thực hiện chương trình mục tiêu kinh tế xã hội…Quy mô chi Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 20 đầu tư công của nhà nước sẽ giảm dần theo mức độ thành công của chiến lược công nghiệp hoá và mức độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Khi đó chi đầu tư phát triển của nhà nước chủ yếu tập trung vào điều chỉnh nhằm đạt tới sự ổn định của kinh tế vĩ mô và các khoản chi cho vay chỉ định, chi thực hiện chương trình mục tiêu kinh tế xã hội sẽ được cắt giảm. - Chi đầu tư công phải gắn chặt chi thường xuyên nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Sự phối hợp không đồng bộ giữa chi đầu tư với chi thường xuyên sẽ dẫn đến tình trạng thiếu kinh phí để duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng cơ sở hạ tầng. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả khai thác và sử dụng tài sản đầu tư. Sự gắn kết giữa 2 nhóm chi tiêu này sẽ khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan, không tình đến hiệu quả khai thác. Nội dung chi đầu tư công gồm 4 lãnh vực: chi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn; chi hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước; chi cho quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước; chi dự trữ nhà nước. Trong đó, chi đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất và được thực hiện theo phương thức không hoàn trả. Chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn tài chính của nhà nước hướng vào củng cố và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, các ngành công nghiệp cơ bản, các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công trình trọng điểm phục vụ phát triển văn hoá xã hội, phúc lợi công cộng. Thực chất loại chi này nhằm đảm bảo tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho các ngành sản xuất vật chất và Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 21 không sản xuất, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự tham gia của nhà nước vào các lĩnh vực nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, bởi nó nhằm kích thích đầu tư, giảm chi phí sản xuất, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh đồng thời tạo ra các trung tâm kinh tế. 1.3.2. Vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Đầu tư công có ý nghĩa xã hội rất lớn trong định hướng phát triển chung của đất nước, do đó, nếu chỉ tính hiệu quả kinh tế đơn thuần thì sẽ không chính xác, mà phải tính hiệu quả cả trong xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, an sinh xã hội... Kết cấu hạ tầng là đối tượng chính của đầu tư công, là một bộ phận đặc thù của cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân có chức năng, nhiệm vụ cơ bản là đảm bảo những điều kiện chung cần thiết cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng được diễn ra bình thường, liên tục. Kết cấu hạ tầng cũng được định nghĩa là tổng thể các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động kinh tế - xã hội được diễn ra một cách bình thường. Toàn bộ kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau. Cụ thể như: - Nếu căn cứ theo lĩnh vực kinh tế -xã hội thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng phục vụ kinh tế, kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động xã hội và kết cấu hạ tầng phục vụ an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, trên thực tế, ít có loại kết cấu hạ tầng nào chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội và ngược lại. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 22 - Nếu căn cứ theo sự phân ngành của nền kinh tế quốc dân thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng trong công nghiệp, trong nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, xây dựng, hoạt động tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, văn hoá xã hội… - Nếu căn cứ theo khu vực dân cư, vùng lãnh thổ thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng đô thị, kết cấu hạ tầng nông thôn; kết cấu hạ tầng kinh tế biển (ở những nước có kinh tế biển, và nhất là khi kinh tế biển lớn như nước ta), kết cấu hạ tầng đồng bằng, trung du, miền núi, vùng trọng điểm phát triển, các thành phố lớn… Kết cấu hạ tầng trong mỗi lĩnh vực, mỗi ngành, mỗi khu vực bao gồm những công trình đặc trưng cho hoạt động của lĩnh vực, ngành, khu vực và những công trình liên ngành đảm bảo cho hoạt động đồng bộ của toàn hệ thống. Trong nhiều công trình nghiên cứu về kết cấu hạ tầng, các tác giả thường phân chia kết cấu hạ tầng thành 2 loại cơ bản, gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội. - Kết cấu hạ tầng kinh tế: thuộc loại này bao gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật như: năng lượng (điện, than, dầu khí) phục vụ sản xuất và đời sống, các công trình giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường ống), bưu chính- viễn thông, các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông- lâm -ngư nghiệp…Kết cấu hạ tầng kinh tế là bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định, bền vững và là động lực thúc đẩy phát triển nhanh hơn, tạo điều kiện cải thiện cuộc sống dân cư. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 23 - Kết cấu hạ tầng xã hội: xếp vào loại này gồm nhà ở, các cơ sở khoa học, trường học, bệnh viện, các công trình văn hoá, thể thao… và các trang, thiết bị đồng bộ với chúng. Đây là điều kiện thiết yếu để phục vụ, nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy, kết cấu hạ tầng xã hội là tập hợp một số ngành có tính chất dịch vụ xã hội; sản phẩm do chúng tạo ra thể hiện dưới hình thức dịch vụ và thường mang tính chất công cộng, liên hệ với sự phát triển con người cả về thể chất lẫn tinh thần. Với tính chất đa dạng và thiết thực, kết cấu hạ tầng là nền tảng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia cũng như vùng lãnh thổ. Có kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nền kinh tế mới có điều kiện để tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng, phát triển kết cấu hạ tầng có tác động tích cực đến phát triển kinh tế-xã hội ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Trình độ phát triển của kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng đến trình độ phát triển của đất nước, có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và công tác xoá đói giảm nghèo. Nghiên cứu về tác động của việc phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam, tác giả Phạm Thị Tuý (2006) đã phát hiện ra sáu tác động quan trọng sau đây: - Kết cấu hạ tầng phát triển mở ra khả năng thu hút các luồng vốn đầu tư đa dạng cho phát triển kinh tế-xã hội; - Kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại là điều kiện để phát triển các vùng kinh tế động lực, các vùng trọng điểm và từ đó tạo ra các tác động lan toả lôi kéo các vùng liền kề phát triển; Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 24 - Kết cấu hạ tầng phát triển trực tiếp tác động đến các vùng nghèo, hộ nghèo thông qua việc cải thiện hạ tầng mà nâng cao diều kiện sống của hộ. - Phát triển kết cấu hạ tầng thực sự có ích với người nghèo và góp phần vào việc giữ gìn môi trường; - Đầu tư cho kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông nông thôn, đem đến tác động cao nhất đối với giảm nghèo; và - Phát triển kết cấu hạ tầng tạo điều kiện nâng cao trình độ kiến thức và cải thiện tình trạng sức khoẻ cho người dân, góp phần giảm thiểu bất bình đẳng về mặt xã hội cho người nghèo. Tóm lại, kết cấu hạ tầng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia, tạo động lực cho sự phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, một hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối với sự phát triển. Ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, kết cấu hạ tầng thiếu và yếu đã gây ứ đọng trong luân chuyển các nguồn lực, khó hấp thụ vốn đầu tư, gây ra những “nút cổ chai kết cấu hạ tầng” ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Thực tế trên thế giới hiện nay, những quốc gia phát triển cũng là những nước có hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại. Trong khi đó, hầu hết các quốc gia đang phát triển có hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển. Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đang là ưu tiên của nhiều quốc gia đang phát triển. Ở nước ta, với quan điểm “kết cấu hạ tầng đi trước một bước”, trong những năm qua Chính phủ đã dành một mức đầu tư cao cho phát Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 25 triển kết cấu hạ tầng. Khoảng 9-10% GDP hàng năm đã được đầu tư vào ngành giao thông, năng lượng, viễn thông, nước và vệ sinh, một tỷ lệ đầu tư kết cấu hạ tầng cao so với chuẩn quốc tế. Nhiều nghiên cứu kinh tế vi mô cũng cho thấy rằng có mối liên hệ mạnh mẽ giữa đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng với tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam. Độ dài của mạng lưới đường bộ đã tăng hơn gấp đôi tính từ năm 1990 và chất lượng cũng cải thiện đáng kể. Tất cả các khu vực thành thị và 90% hộ dân nông thôn được tiếp cận với điện. Số đường điện thoại cố định và di động trên 100 dân tăng gấp 10 lần từ năm 1995. Tiếp cận nước sạch tăng từ 26% dân số lên 57% trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến năm 2004, và trong cùng giai đoạn này tiếp cận nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn tăng từ 10% lên 31% dân số. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận. 1.4. Kinh nghiệm phát triển kết cấu hạ tầng của một số nước: 1.4.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc: Quá trình phát triển kết cấu hạ tầng ở Hàn Quốc đã diễn ra mạnh mẽ kể từ những năm 1960 khi nền kinh tế Hàn Quốc bắt đầu bước vào thời kỳ công nghiệp hoá nhanh chóng. Đến nay, Hàn Quốc đang có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối tiên tiến so với các nền kinh tế công nghiệp đang nổi lên khác, tuy nhiên nó vẫn còn lạc hậu so với các nền kinh tế công nghiệp phát triển. Ngay sau khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc đã bắt đầu quá trình hồi phục kinh tế của mình với sự hỗ trợ mạnh mẽ của viện trợ nước ngoài. Kế hoạch phát triển 5 năm lần đầu tiên của Hàn Quốc (1962-1966) tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp nhẹ và thay thế nhập khẩu. Chính phủ đã bắt tay xây dựng 275km đường sắt và nhiều dự án đường cao tốc nhỏ. Kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ hai (1967-1971) tập trung đẩy mạnh xuất khẩu với Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 26 tốc độ tăng trưởng gần 50%. Chính phủ tiếp tục đầu tư phát triển đường sắt và đầu tư xây dựng đường cao tốc. Dự án đường cao tốc lớn đầu tiên Hàn Quốc được xây dựng nối hai thành phố lớn nhất nước, Seoul ở Tây Bắc và Pusan ở Đông Nam. Dự án này đã tạo thành một hành lang công nghiệp tối quan trọng ở Hàn Quốc, đồng thời cũng là biểu tượng về tính tự lực tự cường của dân tộc Hàn Quốc. Tuy nhiên, các khoản đầu tư của Hàn Quốc cho phát triển kết cấu hạ tầng trong những năm 1960 là chưa đủ. Khi nền kinh tế bước vào giai đoạn toàn dụng nhân công đầu những năm 1970, Hàn Quốc đã bắt đầu gặp phải tình trạng “thắt cổ chai” kết cấu hạ tầng. Khi đó, nhận thấy thực tế rằng rất khó cạnh tranh với những ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động, Hàn Quốc đã chuyển trọng tâm sang phát triển các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất, đòi hỏi trình độ phát triển cao của kết cấu hạ tầng. Bắt đầu từ kế hoạch phát triển 5 năm lần thứ ba (1972-1976), Chính phủ Hàn Quốc đã xác định những ưu tiên mới cho phát triển kết cấu hạ tầng nhằm phục vụ các ngành công nghiệp hoá dầu, sản xuất thép và đóng tàu. Nhiều dự án lớn về phát triển sân bay, cảng biển, đường cao tốc, đường sắt và hệ thống viễn thông đã được thực hiện. Kể từ năm 1972, Chính phủ cũng bắt đầu xây dựng các khu công nghiệp lớn với cảng nước sâu mới, chủ yếu dọc bờ biển Đông Nam gần các cảng Pohang, Ulsan và Masan. Bên cạnh đó, các chính quyền địa phương cũng tiến hành xây dựng các dự án cảng lớn ở Inchon và Pusan, xây thêm 487km đường cao tốc ở miền Nam và xây dựng một hệ thống tàu điện ngầm ở Seoul. Vào nửa đầu những năm 1980, Hàn Quốc thực hiện các chính sách nhằm ổn định hoá nền kinh tế, phát triển khu vực tư nhân và giải điều tiết. Chính phủ tập trung ít hơn vào phát triển công nghiệp năng và Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 27 công nghiệp hoá chất, song chú ý nhiều hơn đến các ngành sản xuất hàng tiêu dùng chất lượng cao, đồng thời hạn chế chi tiêu Chính phủ. Tuy vậy, đầu tư cho kết cấu hạ tầng vẫn ở mức tương đối cao, chiếm 8% GNP năm 1983. Năm 1985, nhận thấy mức lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện một loạt các biện pháp kích thích nền kinh tế và bổ sung một khoản ngân sách để kích cầu và tăng đầu tư cho kết cấu hạ tầng. Những biện pháp này đã góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế lên mức 2 con số. Mặc dù tỷ trọng đầu tư cho kết cấu hạ tầng trong GNP giảm xuống còn khoảng 5%, nhưng lượng vốn đầu tư tuyệt đối gia tăng rất nhanh. Vào giữa những năm 1990, những nút thắt cổ chai lớn đã bắt đầu ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế Hàn Quốc, đặc biệt là những nút cổ chai về giao thông đường bộ và đường cao tốc. Do sự gia tăng bất thường của xe ô tô, là hệ quả của các chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp ô tô nội địa, Hàn Quốc đã phải đối mặt với những vấn đề giao thông nghiêm trọng, làm gia tăng mạnh những chi phí hậu cần. Người ta tính toán rằng, tắc nghẽn giao thông đã gây tổn hại tới 6,5 tỷ USD. Để khắc phục, trong những năm 1990.Hàn Quốc đã có kế hoạch chi khoảng 100 tỷ USD chỉ riêng cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó khoảng một nửa cho đường bộ, 40% cho đường sắt (kể cả tuyến đường sắt cao tốc từ Seoul đi Pusan), và phần còn lại cho sân bay và bến cảng. Tuy vậy, hệ thống kết cấu hạ tầng của Hàn cũng gặp phải một số vấn đề khác, chẳng hạn như chi phí xây dựng gia tăng nhanh chóng (nhất là đền bù giải phóng mặt bằng) và tiền lương của lao động trong nước) và các mối quan tâm ngày càng tăng về thâm hụt ngân sách. Thí dụ, bong bóng đầu cơ giá đất đã làm gia tăng chi phí xây Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 28 dựng một km đường cao tốc từ 4 triệu USD năm 1985 lên khoảng 26 triệu USD năm 1990. Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1993-1997 đã hoạch định một chương trình tham vọng tập trung vào việc cải thiện mức sống của người dân (nhà ở, môi trường, giao thông đô thị) và mở rộng phúc lợi xã hội (giao thông và phân phối, kể cả việc phát triển các tiêu chuẩn thông tin liên lạc) nhằm đáp ứng những nhu cầu về kết cấu hạ tầng của xã hội. Do có những nỗ lực liên tục của Chính phủ nên sự gia tăng đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng đã đạt mức kỷ lục hơn 20% một năm, và những năm gần đây thậm chí đã vượt qua tôc độ gia tăng ngân sách quốc gia. Đáng chú ý, trong năm 1997, ngân sách chính phủ đầu tư cho kết cấu hạ tầng lần đầu tiên vượt qua mức 10 tỷ Won. Năm 2001, tỷ trọng vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng trong tổng chi tiêu ngân sách của chính phủ đã đạt mức 14,6%, tăng đáng kể so với mức 11,2% của năm 1993 và 14,2% năm 1997. Bên cạnh những chính sách mở rộng cung, Chính phủ Hàn cũng tập trung vào những chính sách nhằm thu hẹp cầu đầu tư cho kết cấu hạ tầng thông qua việc sử dụng có hiệu quả hơn hệ thống kết cấu hạ tầng hiện có, chẳng hạn như áp dụng các hệ thống thông tin về hậu cần hoặc hệ thống thông tin về giao thông trên đường cao tốc. Hiện nay, định hướng phát triển của Hàn Quốc là hướng tới nền kinh tế dựa trên tri thức và nước này đang đứng trước những thử thách không nhỏ. Để đạt được mục tiêu phát triển, Chính phủ Hàn đã xác định cần phải nâng cao năng lực quốc gia để có thể tận dụng được hệ thống sáng tạo và truyền dẫn tri thức toàn cầu. Do vậy, Chính phủ đã hoạch định và tiến hành các biện pháp nhằm đạt được: (1) hệ thống kết Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 29 cấu hạ tầng thông tin năng động nhằm tạo thuận lợi cho thông tin liên lạc cũng như xử lý thông tin;(2) nền dân trí cao để có thể sáng tạo và sử dụng tri thức; (3) hệ thống các trung tâm nghiên cứu, trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và các tổ chức khác có thể khai thác kho tri thức toàn cầu, thích nghi với địa phương và sáng tạo tri thức mới; (4) một hệ thống kinh tế và thể chế hoạt động có hiệu quả nhằn khuyến khích việc sử dụng tri thức hiện có, sáng tạo tri thức mới và tinh thần kinh doanh. Bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc, đó là: Sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển kết cấu hạ tầng: Hàn Quốc đã tiến hành những bước dài trong việc thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển kết cấu hạ tầng kể từ những năm 1990. Năm 1994, Hàn Quốc ban hành Luật khuyến khích đầu tư tư nhân nhằm khuyến khích sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng, chủ yếu là các dự án đầu tư mới trong lĩnh vực giao thông. Chính phủ đã lên danh mục 40 dự án giao thông trọng điểm kêu gọi sự tham gia của tư nhân. Tháng 7/1998, Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách Hàn Quốc đã ban hành các chính sách quan trọng nhằm: (1) tư nhân hoá 11 doanh nghiệp nhà nước; (2) thiết lập một khuôn khổ pháp lý điều tiết sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển kết cấu hạ tầng; (3) đẩy mạnh cạnh tranh trên thị trường; (4) giải quyết các vấn đề lao động; và (5) tìm ra những biện pháp tư nhân hoá tối ưu. Nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư tư nhân, năm 1999 Hàn Quốc đã ban hành Luật Đầu tư tư nhân để thay thế Luật Khuyến khích đầu tư tư nhân năm 1994. Mục đích chính của Luật mới là khuyến khích mạnh mẽ hơn sự tham gia của khu vực tư nhân vào các lãnh vực Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 30 kết cấu hạ tầng-điện, ga, giao thông, sân bay, bến cảng, viễn thông, cấp và thoát nước thông qua các biện pháp khuyến khích về thuế và những khuyến khích khác cho nhà đầu tư tư nhân, cũng như cải tiến quá trình lựa chọn nhà đầu tư. Luật cũng đưa ra những biện pháp khuyến khích đối với các nhà đầu tư nước ngoài như: (1) miễn 10% thuế giá trị gia tăng đối với các công trình đã hoàn thành; (2) bảo lãnh của Chính phủ lên đến 90% doanh thu hoạt động; (3) thưởng cho những dự án hoàn thành sớm và cho phép thu lợi nhuận vượt mức khi nhà đầu tư tiết kiệm chi phí xây dựng; (4) bù đắp các khoản lỗ do những thay đổi tỷ giá hối đoái; (5) chấp nhận các phương thức xây dựng đa dạng như BOT, BTO… Kết quả là đến nay, khu vực tư nhân, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài, đã tham gia vào hầu hết các lãnh vực kết cấu hạ tầng của Hàn Quốc. Vai trò của Chính phủ: Chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kết cấu hạ tầng của đất nước, không chỉ vì Chính phủ và các cấp chính quyền chủ yếu là chủ đầu tư của các dự án kết cấu hạ tầng lớn, mà Chính phủ còn ban hành và thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển kết cấu hạ tầng phù hợp với tình hình và yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn. Cục Kế hoạch Kinh tế là cơ quan điều phối quá trình ra quyết định trong lãnh vực kết cấu hạ tầng, có trách nhiệm quản lý một diện rộng các hoạt động liên quan đến phát triển kết cấu hạ tầng, bao gồm điều phối kế hoạch của các bộ, đưa ra các khuyến nghị chính sách và phân bổ ngân sách. Ngoài ra các bộ khác cũng có trách nhiệm lập kế hoạch Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 31 phát triển và quản lý kết cấu hạ tầng theo ngành. Các chính quyền địa phương có trách nhiệm quản lý hệ thống giao thông ở địa phương. 1.4.2. Kinh nghiệm của Indonesia: Trong vòng ba thập kỷ cho tới khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997-1998, kết cấu hạ tầng đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Indonesia. Từ năm 1967 đến 1997, nền kinh tế Indonesia tăng trưởng trung bình 7%/năm, thu nhập bình quân đầu người của người dân Indonesia đã đạt 1.100 USD năm 2005, cao hơn gấp 4 lần so với năm 1967; tỷ lệ người nghèo đã giảm xuống còn 11% dân số so với mức 60% của năm 1965. Cho đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng, Indonesia đã đầu tư mạnh cho phát triển kết cấu hạ tầng. Tổng cộng các khoản đầu tư của cả nhà nước và khu vực tư nhân chiếm khoảng 6% GDP. Với kết quả đầu tư này, tính bình quân đầu người, mức độ dịch vụ kết cấu hạ tầng ở Indonesia là cao hơn so với Trung Quốc, Srilanka và Thái Lan. Sau khi nổ ra khủng hoảng, đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng ở Indonesia đã sụt giảm nhanh chóng. Đầu tư nhà nước giảm mạnh do Chính phủ bước vào thời kỳ thắt chặt tài khoá. Đầu tư tư nhân gần như bị đình lại do những yếu kém trong môi trường đầu tư, là hệ quả tác động của cuộc khủng hoảng. Những năm sau đó, tình hình có trở nên sáng sủa hơn, nhưng đầu tư cho kết cấu hạ tầng của Indonesia cũng chỉ chiến khoảng 2% GDP, và các nhà đầu tư tư nhân vẫn hầu như chưa trở lại. Kết quả là, Indonesia đã thụt lại phía sau so với các nước khác về trình độ kết cấu hạ tầng. Theo điều tra của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2006 ở 125 quốc gia, Indonesia đứng thứ 89 về cung ứng kết cấu hạ tầng cơ bản, xếp sau Trung Quốc thứ 60 và Thái Lan thứ 38. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 32 Để khắc phục những đình trệ sau khủng hoảng, những năm gần đây Chính phủ Indonesia đã khởi động lại nhiều dự án kết cấu hạ tầng quan trọng và có những cải cách cần thiết liên quan đến cơ chế phối hợp giữa các bộ trong phát triển kết cấu hạ tầng. Đặc biệt, năm 2005, Chính phủ đã thiết lập một khung khổ hợp tác giũa nhà nước và tư nhân (PPP) để kích thích đầu tư của nhà nước cũng như khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân cho kết cấu hạ tầng. Sau đó một loạt cải cách khác đã được thực hiện như: thông qua một khung khổ quản lý rủi ro; sửa đổi các quy định về thu hồi đất; sửa đổi các luật quan trọng về giao thông, với các điều khoản cho phép sự tham gia sâu rộng hơn của khu vực tư nhân; và thành lập các cơ quan quản lý chuyên ngành đối với các lĩnh vực đườngn bộ có thu phí, cấp nước và viễn thông. Chính phủ cũng ban hành các quy định cho phép thu phí trong các lĩnh vực then chốt và cắt giảm mạnh trợ cấp dầu mỏ. Với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á, Chính phủ Indonesia đã xây dựng một chương trình nghị sự cải cách trung hạn tập trung vào những cải cách liên ngành và chuyên ngành nhằm đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng. Trong giai đoạn 2005-2009, dự tính Indonesia sẽ đầu tư khoảng 72 tỷ USD để xây thêm 93.700km đường bộ, sản xuất thêm 21.900 MW điện, lắp đặt mới 11 triệu máy điện thọai cố định, mở rộng thêm 18,7 triệu thuê bao điện thoại di động, cung cấp nước sạch cho 30,5 triệu người, và cải thiện vệ sinh cho 46,9 triệu người. Nếu tính cả đầu tư cho các lĩnh vực kết cấu hạ tầng khác thì tổng vốn đầu tư còn lớn hơn nhiều. Trong khi đó, ngân sách nhà nước chỉ có thể trang trải được 40,8 tỷ USD, còn lại hơn 30 tỷ USD phải huy động từ khu vực tư nhân và Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 33 các nguồn vốn khác, có nghĩa là mỗi năm Indonesia phải huy động thêm trung bình hơn 6 tỷ USD. Với những khoản đầu tư lớn, Chính phủ Indonesia cho rằng kết cấu hạ tầng tiếp tục đóng vai trò quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước này. Kết cấu hạ tầng được đầu tư tốt sẽ tạo cơ hội việc làm trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, hạ thấp chi phí sản xuất-kinh doanh, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước, tạo ra các trung tâm kinh tế mới, qua đó mở rộng cơ hội viêc làm, cải thiện chất lượng cuộc sống, thúc đẩy thương mại quốc tế…Chính phủ cho rằng, sự phát triển kết cấu hạ tầng sẽ góp phần quan trọng để Indonesia có thể đạt được một số mục tiêu phát triển khá ấn tượng vào năm 2009: GDP tăng 7,6%; lạm phát được duy trì ở mức 3%; đầu tư tăng 12,8%; thu nhập bình quân đầu người đạt 10.000 Rupiah, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 5,1%... Kết luận Chương 1 Lý thuyết về đầu tư và các mô hình tăng trưởng cho thấy các nhà kinh tế đều kết luận rằng có mối tương quan tỷ lệ thuận giữa tỷ lệ đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế và họ đều thừa nhận rằng đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế: muốn có tăng trưởng kinh tế thì phải có đầu tư. Trong giai đoạn nền kinh tế đang có những bước chuyển đổi, đầu tư công có vai trò rất quan trọng nhằm sử dụng các nguồn vốn đầu tư có hiệu quả hơn. Đặc điểm của đầu tư vào các loại hàng hoá công là nhu cầu vốn lớn, lâu thu hồi vốn, phần lớn do Chính phủ cung cấp nhằm đảm bảo phúc lợi xã hội và tạo động lực thúc đẩy đầu tư của các thành phần kinh tế khác phát triển. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 34 CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN TỪ 1987 ĐẾN NAY 2.1. Đầu tư công và tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Long An từ 1987 đến nay 2.1.1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Long An từ năm 1987 đến nay 2.1.1.1 Vị trí địa lý Long An nằm ở khu vực Tây Nam bộ, phía Đông giáp với TP.HCM và Tỉnh Tây Ninh, giáp với Vương quốc Camphuchia về phía Bắc, với đường biên giới dài 137,7 km, giáp với Tỉnh Đồng Tháp về phía Tây và giáp Tỉnh Tiền Giang về phía Nam. Diện tích tự nhiên của toàn Tỉnh là 4.492,39 km2, bằng 1,43% so với diện tích cả nước và 11,78% so diện tích của vùng Đồng bằng sống Cửu Long. Tọa độ địa lý: 105030’30” đến 106047’02” kinh độ Đông và 10023’40” đến 11002’00’ vĩ độ Bắc. Về đơn vị hành chính, tỉnh có 1 thị xã và 13 huyện, trong đó có 6 huyện nằm trong khu vực Đồng Tháp Mười, địa hình trũng bao gồm Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa và Đức Huệ với diện tích tự nhiên là 298.243 ha, chiếm 66,4% so với toàn Tỉnh. Các huyện còn lại là khu vực phát triển khá ổn định và đa dạng. Long An là cửa ngõ nối thành phố Hồ Chí Minh và các Tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, là thành viên của Vùng Kinh tế trọng Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 35 điểm phía Nam, nằm trong vành đai công nghiệp và đô thị của trung tâm kinh tế lớn thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều cơ hội nâng cao năng lực sản xuất, trình độ khoa học và công nghệ để phát triển toàn diện theo hướng công nghiệp hoá và xuất khẩu, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; có điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước; tương đối thuận tiện trong việc trao đổi buôn bán quốc tế; có cơ hội tiếp thu sớm và ứng dụng các thành tựu khoa học trong sản xuất, trong quản lý. Nhưng cũng có bất lợi là khả năng thu hút nguồn lực của Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam rất lớn, nhất là nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực, tạo nên áp lực cạnh tranh lớn trong khi kết cấu hạ tầng của Tỉnh còn nghèo. 2.1.1.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, giai đoạn 1987-1991 tăng trưởng kinh tế bình quân là 6,7%/năm. Song giai đoạn 1992 - 1996 bình quân tăng lên 8,6%/năm, nhưng giai đoạn 1997- 2001 lại giảm xuống 6,4%/năm. Điều này cho thấy, tốc độ tăng trưởng của Tỉnh không ổn định, với biên độ dao động khá lớn. Những biến động về tăng trưởng kinh tế này cho thấy kinh tế trên địa bàn Tỉnh Long An đã có chiều hướng giảm trong giai đoạn chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông và Đông Nam Á (bùng nổ vào cuối năm 1997, đầu 1998). Điều này cũng khẳng định rằng những khó khăn và sự chững lại trong tăng trưởng kinh tế trước tiên phải xuất phát từ những hạn chế trong nội bộ nền kinh tế trên địa bàn Tỉnh. Mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 1997-2001 ở mức 6,4%/năm này là thấp so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh Long An lần VI đề ra (12-13%/năm) và chỉ gần đạt chỉ tiêu của phương án Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 36 thấp (phương án I) đề ra trong quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội Tỉnh giai đoạn 1996 – 2010; trong đó nhịp độ tăng trưởng của khối ngành nông nghiệp, công nghiệp và thương mại – dịch vụ đều đạt thấp hơn các phương án đề ra trong quy hoạch. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc không đạt các chỉ tiêu Nghị quyết đề ra là do các yếu tố quốc tế hóa và các cơ chế mới trong nước tác động đến tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh, các tác động xấu của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Á và Đông Nam Á diễn ra trong các năm 1997-1998. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này, luồng đầu tư nước ngoài mà đặc biệt là đầu tư từ các nước Đông và Đông Nam Á vào Việt Nam nói chung và Tỉnh Long An nói riêng bị giảm, qua đó ảnh hưởng không nhỏ đến tổng mức đầu tư toàn xã hội trên địa bàn Tỉnh. Giai đoạn 2002-2007, cùng với đà phục hồi kinh tế của thế giới, những cải cách mạnh mẽ về pháp lý và kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và nổ lực cao của các địa phương nói riêng và Long An nói chung đã giúp nền kinh tế cả nước và Long An đạt được mức tăng trưởng khá cao, bình quân là 12,6%/năm, nếu trừ năm 2002 (10,3%/năm) thì tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn có xu hướng tăng dần, (năm 2003 tăng 9,2%; năm 2004 tăng 9,7%; năm 2005 tăng 10,9%, năm 2006 tăng 11,2% và năm 2007 là 13,5%). Điều này chứng tỏ Long An bắt đầu phát triển khởi sắc từ năm 2002 và hiện đang đứng ở mức cao của chu kỳ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn này vượt mục tiêu tăng trưởng mà kế hoạch đề ra (8-9%/năm) và sự tăng trưởng đã diễn ra trong tất cả các khu vực kinh tế, cả ba khu vực kinh tế đều đạt được tốc độ tăng bình quân cao hơn so với các giai đoạn trước. Với tốc độ tăng trưởng này, GDP bình quân Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 37 đầu người năm 2007 đạt 11,8 triệu đồng (tương đương 780 USD) tăng gần 6,8 triệu đồng so với năm 2000 và 4 triệu đồng so với năm 2005. Sơ đồ 2.1: Động thái tăng trưởng kinh tế của Tỉnh từ 1987-2007 4,5% 14,1% 4,0% 7,9% 9,7% 6,7% 11,9% 14,9% 12,6% 13,5% 11,2% 10,9% 9,7%9,2% 10,4% 6,8%6,5% 6,9% 6,5% 5,5% 0,0% 2,0% 4,0% 6,0% 8,0% 10,0% 12,0% 14,0% 16,0% 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 G D P Nguồn: Cục Thống Kê Long An. Tăng trưởng khu vực công giai đoạn 1987-1991 rất cao, đạt 14,1% (khu vực tư 0,9%). Giai đoạn này đầu tư xã hội chủ yếu là của nhà nước do khu vực tư chưa phát triển, chính sách thu hút vốn đầu tư chưa hoàn thiện. Giai đọan 1992-1996 tăng trưởng khu vực công lại giảm xuống còn 7% (khu vực tư 10,9%), 3,6% giai đoạn 1997-2001 (khu vực tư 8,1%). Tăng trưởng hai khu vực đều thấp do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế Đông và Đông Nam Á. Giai đoạn 2002-2007 tăng trưởng khu vực công tăng trở lại 9,2% nhưng vẫn thấp hơn khu vực tư (11,7%) do thời gian này khu vực tư bắt đầu phát triển mạnh. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 38 Sơ đồ 2.2: Động thái tăng trưởng GDP các khu vực từ 1987-2007 Động thái tăng trưởng GDP các khu vực 0,0% 5,0% 10,0% 15,0% 20,0% 25,0% 30,0% 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 G D P Toàn tỉnh Khu vực công Khu vực tư Nguồn: Cục Thống Kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư Long An. Tuy nhiên, dù đã có những sự cải thiện lớn trong giai đoạn từ 2002-2007 so với các giai đoạn trước đó nhưng kinh tế trên địa bàn Tỉnh Long An phát triển vẫn còn chậm, chưa tương xứng với lợi thế và tiềm năng của Tỉnh. Kinh tế bước đầu phát triển theo hướng công nghiệp hóa nhưng yếu tố hiện đại hóa còn hạn chế, cơ cấu kinh tế Tỉnh có sự chuyển dịch nhưng chưa mạnh mẽ, từ 1995 đến nay tỷ trọng giữa các khu vực có dao động nhưng rất nhẹ. Khu vực nông nghiệp luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, mặc dù có giảm mạnh qua các năm (1995: 56%; 2000: 48%; 2007: 42,6%) nhưng luôn chiếm tỷ trọng cao ở mức trên 40%. Khu vực thương mại - dịch vụ chỉ dao động rất nhẹ, hầu như không tăng, ổn định ở mức 29% - 30% (1995: 28,1%; 2000: 29,4%; 2007:29,5%). Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng nhanh qua các năm nhưng so với các Tỉnh trong Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 39 vùng KTTĐPN là chưa đáng kể (1995: 15,6%; 2000: 22,5%; 2007: 27,9%). Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế như hiện nay, Long An còn phải nổ lực rất nhiều trong phát triển kinh tế và hội nhập vào Vùng KTTĐPN và cả nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó kết cấu hạ tầng phải ưu tiên đi trước một bước. Sơ đồ 2.3: Cơ cấu kinh tế toàn Tỉnh qua các thời kỳ Cơ cấu kinh tế toàn tỉnh 56,3 48,1 42,6 15,6 22,5 27,928,1 29,4 29,5 0 10 20 30 40 50 60 1 2 3 1987-1995 1996-2000 2000-2007 % Nông lâm thủy sản Công nghiệp -xây dựng Thương mại - dịch vụ Nguồn: Cục Thống Kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư Long An. 2.1.2.Thực trạng đầu tư công trên địa bàn Long An 2.1.2.1. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Tỉnh Long An những năm gần đây phát triển rất nhanh và góp phần rất lớn vào việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của Tỉnh. Từ năm 1987 đến nay, tỷ lệ đầu tư trên GDP của Tỉnh tăng bình quân 20%/năm. Từ 31,5% giai đoạn 1987-1991 đã tăng lên 37,5% giai đoạn 1992-1996, sau đó có giảm nhẹ xuống 30,3% giai đoạn 1997-2001 ( do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế Đông Và Đông Nam Á) nhưng tăng trở lại 44,5% giai đoạn 2002-2007. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 40 So sánh đầu tư trong hai khu vực thì tỷ lệ đầu tư trên tổng GDP của khu vực công rất lớn trong giai đoạn 1987-1991, chiếm đến 77,8% trong tổng GDP (khu vực tư 11,4%), giai đoạn 1992-1996 chiếm 67,5% (khu vực tư 15,9%). Đây là thời kỳ khu vực tư chưa phát triển, vì vậy đầu tư của nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhằm thúc đẩy đầu tư các thành phần kinh tế khác phát triển. Thế nhưng tỷ lệ đầu tư trên GDP khu vực công bắt đầu giảm về lượng từ 1997 đến nay ( 1997-2001: 44,5% ; 2002-2007: 39,6%) nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao, trong khi đầu tư khu vực tư lại bắt đầu phát triển lớn mạnh và chiếm tỷ trọng cao trong tổng GDP toàn Tỉnh (1997-2001: 21,8% ; 2002-2007: 28,9%). Sơ đồ 2.4: Tỷ lệ đầu tư trên GDP các khu vực từ 1987-2007 Tỷ lệ đầu tư/GDP các khu vực 77,8 67,5 44,5 39,6 11,4 15,9 21,8 25,5 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 1987-1991 1992-1996 1997-2001 2002-2007 % Khu vực công Khu vực tư Nguồn: Cục Thống Kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư Long An. Nếu so sánh đầu tư hai khu vực trong tổng vốn đầu tư xã hội thì kể từ năm 2002 trở lại đây đầu tư khu vực công đã bị khu vực tư lấn át. Đầu tư khu vực tư phát triển mạnh kể từ năm 2000, trong đó nguyên nhân chính phải kể đến là do tác động của đầu tư khu vực công. Đầu tư Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 41 khu vực công mà sản phẩm chính là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện và có tác động rất lớn đến việc thu hút đầu tư và sự phát triển của khu vực tư. Nếu như đầu tư khu vực tư giai đoạn 1987-1996 rất nhỏ so với khu vực công (chiếm bình quân 15% trong tổng vốn đầu tư xã hội) thì bắt đầu từ 1997-2007 đầu tư khu vực tư đã phát triển và có đóng góp rất lớn trong GDP của Tỉnh. Hiện nay, tốc độ đầu tư khu vực này tăng bình quân 47%/năm và chiếm tỷ lệ bình quân trên 60%/năm trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội của Tỉnh. Sơ đồ 2.5: Tổng vốn đầu tư các khu vực từ 1987-2007 Bình quân tổng vốn đầu tư các khu vực 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 1987-1991 1992-1996 1997-2001 2002-2007 tỷ đ ồ ng Tổng đầu tư xã hội Tổng đầu tư khu vực công Tổng đầu tư khu vực tư Nguồn: Cục Thống Kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư Long An. Đầu tư khu vực tư là nguồn vốn của các doanh nghiệp bố trí đều cho các ngành công nghiệp, nông lâm thủy sản, kết cấu hạ tầng, nhà xưởng và các ngành dịch vụ khác. Đây là nguồn vốn có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất những năm gần đây và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn đầu tư phát triển của Tỉnh. Trong đầu tư khu vực tư còn có nguồn vốn của nhân dân tập trung chủ yếu vào phát triển lĩnh vực nông nghiệp và nhà ở, do việc thi Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 42 công mở rộng, nâng cấp đường sá, bồi thường giải phóng mặt bằng các khu cụm công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Nguồn vốn tín dụng nếu giai đoạn 1996-2000 có xu hướng ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư thì tỷ trọng này bắt đầu có xu hướng giảm dần và hiện chỉ chiếm 1,3% tổng vốn đầu tư phát triển. Nguồn vốn này chủ yếu dành cho khu vực nông nghiệp và một phần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đổi mới trang thiết bị, tạo ra năng lực sản xuất mới, các doanh nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất phục vụ công tác thu hoạch và sau thu hoạch, công tác chế biến nông sản phẩm. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư phát triển của Tỉnh. Kể từ năm 2003, với đà phục hồi, dù chưa được như mong đợi, của kinh tế thế giới cũng như sự hồi phục khá mạnh của các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á, cộng với nổ lực cải cách hành chánh, việc thực thi các chính sách và biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài của Tỉnh Long An, dòng vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Tỉnh nhà đã có xu hướng gia tăng trở lại và theo đó tỷ trọng trong cơ cấu đầu tư phát triển cũng có xu hướng tăng dần. Tuy vậy, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Tỉnh vẫn chỉ tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp dệt may và công nghiệp thực phẩm (chủ yếu là chế biến nông sản thực phẩm, thức ăn gia súc) như trong thời kỳ trước. Tính đến tháng 10/2008 Tỉnh đã có 240 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 2,4 tỷ USD. 2.1.2.2. Cơ cấu đầu tư công trên địa bàn từ 1987-2007 Nhận thức rõ tầm quan trọng của đầu tư công đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong giai đoạn hiện nay, ngay từ Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 43 những năm đổi mới, Tỉnh Long An đã chủ trương đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đang ở trong tình trạng yếu kém, Tỉnh đã coi việc phát triển kết cấu hạ tầng là một khâu đột phá để phát triển địa phương và chuẩn bị cho các bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng cả nước, chủ trương này đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Tỉnh. Thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Chính phủ, Long An đã có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách cụ thể nhằm phát triển kết cấu hạ tầng trong từng lĩnh vực, Tỉnh đã vận dụng nhiều chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là chính sách xã hội hoá, khuyến khích, thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Các chính sách tập trung vào việc đẩy mạnh huy động các nguồn lực để ưu tiên cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, kết cấu hạ tầng đô thị, kết cấu hạ tầng xã hội… Giai đoạn từ 1987-1997 giai đoạn này cơ cấu kinh tế của Tỉnh được xác định là nông nghiệp - công nghiệp - thương mại, dịch vụ. Đầu tư khu vực công chủ yếu tập trung vào kết cấu hạ tầng kinh tế nhằm tạo điều kiện cải thiện cuộc sống dân cư. Trong đó, đầu tư cho ngành nông nghiệp mà chủ yếu là kết cấu hạ tầng vùng Đồng Tháp Mười để khai hoang phục hoá, ngăn lũ, nâng cao năng suất nông nghiệp chung cả Tỉnh, ổn định đời sống nông dân. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 44 Sơ đồ 2.6: Cơ cấu đầu tư giai đoạn 1987-1997 Cơ cấu đầu tư giai đoạn 1987-1997 QL nhà nước 2,2 Khác 1,8% Giáo dục 8% Văn hoá 4% Xây dựng 5% Y tế 7% Giao thông 25% Nông nghiệp 37% Xây dựng 10% Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Long An Giai đoạn 1998-2007 cơ cấu kinh tế của Tỉnh được xác định là công nghiệp - nông nghiệp - thương mại, dịch vụ. Giai đoạn này cơ cấu đầu tư có sự thay đổi rất rõ rệt, đầu tư khu vực công tập trung mạnh vào đường sá, hạ tầng ngoài hàng rào các khu cụm công nghiệp nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư, tạo bước đột phá trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 45 Sơ đồ 2.7: Cơ cấu đầu tư giai đoạn 1998-2007 Cơ cấu đầu tư giai đoạn 1998-2007 Văn hoá 3% QL nhà nước 2,8% Giáo dục 20% Y tế 10% Cấp nước 5% Khác 4,2% Nông nghiệp 15% Xây dựng 5% Giao thông 35% Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư Long An 2.1.2.3. Kết quả và hạn chế của đầu tư công trên địa bàn Tỉnh Long An 2.1.2.3.1. Kết quả đạt được  Về kinh tế Cơ cấu đầu tư đúng hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá như các Nghị quyết Đại hội Tỉnh đảng bộ, kết quả đạt được rất khả quan:  Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, GDP bình quân đầu người tăng 11,6%/năm. Bình quân giai đoạn 1992-1996 (8,6%) GDP tăng 2,1% so với giai đoạn 1987-1991 (6,7% ). Giai đoạn 2002-2007 (12,6%) GDP tăng gần gấp đôi giai đoạn 1997-2001 (6,4%).  Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng trong GDP tăng từ 15,6% năm 1995 lên 22,5% năm 2000 và lên 27% năm 2007; tỷ Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 46 trọng giá trị nông - lâm - thuỷ sản giảm từ 48% năm 2000 xuống còn 42,6% năm 2007.  Về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội  Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm bám sát vào bốn chương trình kinh tế trọng điểm của Tỉnh; hạ tầng kinh tế - xã hội của Tỉnh được hoàn thiện hơn; bước đầu cải thiện được môi trường đầu tư, phát triển sản xuất, điều kiện sống khu vực nông thôn được nâng lên rõ rệt + Tính đến năm 2007 đã xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, các cụm, tuyến dân cư và các cơ sở y tế, giáo dục, các chợ trung tâm vượt đỉnh lũ lịch sử năm 2000, tạo điều kiện phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nói chung và mục tiêu an toàn dân cư trong vùng lũ nói riêng. Đã có 85% xã vùng lũ có đường ô tô đến trung tâm xã; 3/8 thị trấn vùng lũ và 5/8 thị trấn vùng lũ đã được đê bao, đã hoàn thành san nền 184/184 cụm tuyến dân cư vượt lũ với 20 cụm tuyến được xây dựng hạ tầng kỹ thuật, đã giao nền cho 20.000/35.000 hộ dân. + Hệ thống giao thông, điện, nước phục vụ phát triển sản xuất công nghiệp được cải thiện đáng kể. Đường bộ: nếu giai đoạn 1987-1997 Tỉnh có 1.188 km đường bộ, trong đó có 142 km đường nhựa, chiếm tỷ lệ 12% thì đến thời điểm cuối năm 2007, toàn Tỉnh có 1.698 km đường bộ, tăng 30% so với giai đoạn 1987-1997, tỷ lệ đường nhựa chiếm 36%. Mật độ đường là 0,34 km/km2 và 0,99 km/1.000 dân, thấp hơn bình quân chung toàn vùng ĐBSCL (0,71km/km2 và 1,62km/1.000 dân). Tỷ lệ đường nhựa chiếm 43% trong tổng số đường ô tô, tăng 40% so với thời kỳ 1987-1997. Đường thuỷ: trên địa bàn Tỉnh Long An có 2.651km đường thủy được đưa vào cấm mốc chỉ giới. Mật độ giao thông thủy theo diện tích đạt 0,59 km/km2, theo dân số đạt 1,90 km/1.000 dân, mạng lưới đường Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 47 thủy của Tỉnh được phân bố khá đều khắp, tạo thuận lợi cho việc khai thác vận tải và đi lại của nhân dân, cơ bản đáp ứng được nhu cầu vận tải do trong thời kỳ 1987-1997 Tỉnh đã tập trung đầu tư hệ thống thủy lợi nội đồng để khai hoang phục hoá, thau chua rửa mặn vùng Đồng Tháp Mười. Hệ thống giao thông của Tỉnh được đánh giá ở mức trung bình khá so với sự phát triển chung toàn ngành và so với các Tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sự phát triển hạ tầng giao thông của Tỉnh trong thời gian qua mặc dù đã có định hướng và đầu tư đáng kể, nhưng chưa đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra, nguồn vốn đầu tư cần là rất lớn. Công nghệ thông tin và truyền thông: trên địa bàn Tỉnh Long An hiện nay có tất cả 24 bưu cục, trong đó có 1 bưu cục cấp 1 trung tâm đặt tại thị xã Tân An, còn lại là các bưu cục huyện, xã. Bên cạnh hệ thống các bưu cục, mạng lưới các điểm bưu điện văn hóa xã của Tỉnh phát triển rất nhanh, từ 70 điểm năm 2000, đến năm 2005 đã có 131 điểm và đến 2007 lên đến 216 điểm. Thực hiện chương trình mở rộng tổng đài EWSD Tỉnh Long An, gồm 24.176 số giai đoạn 2003-2004 và 10.496 số giai đoạn 2004- 2005, trong đó có 27 vệ tinh được mở rộng dung lượng và 11 vệ tinh được lắp đặt mới. Hiện nay, tổng dung lượng toàn Tỉnh đạt 107.038 số, đưa vào sử dụng 105.996 số, đạt hiệu suất sử dụng 99,02%. Hiện nay, tất cả các địa phương xã phường trong Tỉnh đều có đường dây điện thoại, tạo thuận lợi cho việc thông tin liên lạc của người dân, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa của Tỉnh. Mật độ máy điện thoại trang bị năm 2004 bình quân đạt 7,57 máy/100 dân, đến cuối Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 48 năm 2007 tăng lên 23,75 máy/100 dân, về trước 1 năm so với chỉ tiêu mà Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Long An đề ra. Cấp nước sinh hoạt: tổng công suất cấp nước sạch của các đô thị của Tỉnh đạt 63.000m3/ngày đêm, tăng 50% so với giai đoạn 1987- 1997. Tuy nhiên với dân số 1,4 triệu người và nước sạch cung cấp bình quân đầu người còn thấp vì thế nước sạch đang là một nhu cầu cấp thiết. Cấp nước cho sản xuất sản xuất công nghiệp: đến năm 2007 Long An có 7.708 cơ sở công nghiệp đang hoạt động, quy mô doanh nghiệp lớn hơn và nhu cầu sử dụng nước cao hơn. Nước cho hoạt động sản xuất công nghiệp hiện nay khai thác từ nguồn nước ngầm đã đáp ứng được nhu cầu nước cho sản xuất trước mắt, trong tương lai cần có quy hoạch mở rộng đến 1 triệu m3/ngđ. Cấp điện: Long An có lưới truyền tải điện 220kV Phú Lâm – Cai Lậy và 220kV Cai Lậy – Phú Mỹ chạy ngang qua, tuy vậy Tỉnh vẫn chưa có trạm 220kV (đang xây dựng), nên nguồn cung cấp điện của tỉnh chủ yếu từ 3 trạm 220kV Cai Lậy, Nhà Bè và Phú Lâm. Tổng chiều dài đường dây trung thế toàn Tỉnh là 2.901,74km Toàn bộ lưới điện phân phối của Tỉnh đang vận hành ở 2 cấp điện áp 15kV và 22kV, hiện đã có 100% xã, phường, thị trấn có điện, tỷ lệ hộ có điện là 95%.  Nét nổi bật trong đầu tư công là Tỉnh đã điều hành khá thành công 4 chương trình trọng điểm của Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần VII và chương trình phát triển vùng hạ - Đã tập trung vào đào tạo nghề, tạo thị trường lao động qua hội chợ việc làm, thực hiện đề án xuất khẩu lao động, đặc biệt là kết hợp Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 49 lồng ghép với chương trình mục tiêu quốc gia, hoạt động thu hút đầu tư trong, ngoài nước…,đã giải quyết việc làm cho trên 200.000 lao động, xuất khẩu 1200 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 15,3% năm 2000 lên 25% năm 2005, giảm tỷ lệ lao động không có việc làm từ 5,4% xuống còn 4,8%, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu lao động; tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 42% lên 48% và tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 58% xuống còn 52%. Hoạt động xoá đói giảm nghèo được triển khai tích cực đến tận cơ sở; triển khai đồng bộ, có hiệu quả các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng cho các xã nghèo, xã biên giới, xã vùng hạ, dự án xây dựng mô hình xã thoát nghèo. Đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,8% xuống còn 2,88%, số xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 15% giảm từ 38 xã xuống còn 2 xã. - Nguồn nhân lực ngày càng được nâng lên về số lượng và chất lượng. Đến cuối năm 2007 có 95,3% cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp Tỉnh có trình độ Đại học và Cao cấp chính trị; cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp huyện có 78,1% đạt trình độ Đại học và 92% có trình độ Cao cấp chính trị; cán bộ chủ chốt cấp xã phường có 90% tốt nghiệp Phổ thông trung học và 45% Trung cấp chính trị; nâng tỷ lệ xã có Bác sĩ lên 80%, đào tạo thêm 150 cán bộ sau Đại học , trong đó có 8 Tiến sĩ. Với những thành tựu đã đạt được, tại Đại hội lần thứ VIII (2005- 2010) Tỉnh Đảng bộ đã xác định “Khâu đột phá để thu hút đầu tư nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng công nghiệp và xây dựng là đẩy mạnh phát triển đầu tư công, đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Trên cơ sở điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, ưu tiên vốn ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp đi liền với xây Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 50 dựng đồng bộ các điểm dân cư mới, bảo đảm điều kiện sống cho người lao động. Trong đó, tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng để sớm đưa vào khai thác 5.000 ha đất xây dựng công nghiệp và phát triển kết cấu hạ tầng về giao thông, điện, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường, bưu chính viễn thông cho các khu, cụm công nghiệp để nâng cao khả năng thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài”. - Hạ tầng trong và ngoài các khu cụm công nghiệp, dân cư và đô thị được tập trung đầu tư tạo điều kiện thu hút trực tiếp của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài: đã quy hoạch 20 khu, cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 8.600 ha, trong đó có 3 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động, thu hút 300 dự án đầu tư trong nước và 230 dự án đầu tư nước ngoài. Tổng vốn dự án thu hút năm 2001 bằng 41% so với cả thời kỳ 1987-2000 và liên tục tăng bình quân 40%/năm so với năm 2000. 2.1.2.3.2. Hạn chế trong đầu tư công của Tỉnh  Bố trí đầu tư dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa mang tính mang tính đột phá do nguồn vốn có hạn Việc phân bổ vốn đầu tư còn dàn trải, chưa tập trung cao theo cơ cấu, chưa gắn công tác quy hoạch với kế hoạch đầu tư phát triển. Trong phân bổ đầu tư còn dàn đều trên tất cả các lĩnh vực do xuất phát điểm kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của Tỉnh thấp nên nhu cầu đầu tư các ngành đều bức thiết như nhau. Trong lựa chọn đầu tư, chưa có phương pháp luận đúng đắn để đánh giá cụ thể và khách quan hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của dự án kết cấu hạ tầng để từ đó có cơ sở xác định thứ tự ưu tiên các dự án một cách thuyết phục. Hiện tại các dự án đầu tư của Tỉnh còn quá sơ sài, còn nhiều nhược điểm, chưa có dự án đầu tư Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 51 công nào phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội. Phương pháp phân tích chi phí vòng đời chưa được áp dụng trong so sánh chọn lựa phương án.  Hiệu quả kinh tế đầu tư công chưa cao, thể hiện qua hệ số ICOR luôn cao hơn ICOR chung của toàn Tỉnh và khu vực tư . Kết quả cho thấy là hệ số ICOR chung trên địa bàn Tỉnh có chiều hướng giảm dần qua các giai đoạn, điều này chứng tỏ đầu tư trên địa bàn ngày càng có hiệu quả, giai đoạn 2002-2007 giảm 1,25 lần so với giai đoạn 1997-2001. Các hệ số này có nghĩa là: trong giai đoạn 1997-2001 phải đầu tư 4,59 đồng để tạo thêm một đồng GDP thì giai đoạn 2002-2007 chỉ cần đầu tư 3,67 đồng để tạo thêm một đồng GDP. Tuy nhiên, nếu xét từng khu vực thì hệ số ICOR khu vực công luôn cao hơn khu vực tư, theo lý thuyết nghĩa là đầu tư khu vực công chưa đạt hiệu quả cao như khu vực tư do đầu tư khu vực công chủ yếu là hàng hoá công cộng, có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu. Sơ đồ 2.8: Hệ số ICOR các khu vực Hệ số ICOR các khu vực 5,55 4,25 4,59 3,67 5,64 10,36 17,81 5,77 6,91 3,14 2,96 3,27 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 1987-1991 1992-1996 1997-2001 2002-2007 Toàn tỉnh Khu vực công Khu vực tư Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Long An Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 52  Có sự thất thoát và lãng phí trong đầu tư công qua các cuộc thanh tra và kiểm toán với tỷ lệ trên 20%. Năng lực chủ đầu tư và tư vấn hạn chế, chủ trương chuẩn bị đầu tư quá nhiều nhưng nguồn lực không đủ để cân đối dẫn đến lãng phí chi phí chuẩn bị đầu tư. Áp dụng phổ biến hình thức chỉ định thầu trên cơ sở tách nhỏ các hạng mục của dự án nên không tiết kiệm được vốn. Ngoài ra, chưa có biện pháp chế tài các hợp đồng xây dựng, nhiều dự án lớn có tiến độ chậm, làm giảm đi hiệu quả kinh tế, làm mất đi cơ hội thu hút đầu tư.  Chưa huy động được các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư, chính sách xã hội hoá đầu tư chưa phát huy, tổng nguồn vốn chi đầu tư công phần lớn do nhà nước đảm nhận.. Chi đầu tư hàng hoá công của Tỉnh phần lớn do ngân sách nhà nước đảm nhận, chưa thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia xây dựng. Đây là một trong những nguyên nhân làm chậm đi tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của Tỉnh do ngân sách nhà nước không cân đối được cung và cầu trong đầu tư. 2.1.2.3.3. Nguyên nhân hạn chế Nhìn chung, thời gian qua tuy phải đối mặt với những khó khăn thách thức khó lường nhưng Tỉnh đã cố gắng cân đối hàng năm 20% tổng chi ngân sách cho đầu tư công để giữ được nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân khá cao, cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực, tiếp tục phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, ổn định đời sống nhân dân, an ninh chính trị được giữ vững. Đạt được kết quả đó là nhờ tinh thần đoàn kết, phấn đấu của toàn Đảng bộ và nhân dân, các ngành, các cấp. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 53 Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại trong một số lĩnh vực, nguyên nhân có thể là: Môi trường kinh tế thế giới biến động bất lợi đến quá trình thu hút đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh. Những biến động lớn về thị trường trong nước như thị trường bất động sản, giá cả nông sản phẩm hàng hóa bấp bênh, thiên tai lũ lụt thường xuyên đe dọa.  Công tác tổ chức chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch còn có những mặt yếu kém. Năng lực quản lý nhà nước còn bất cập, trình độ cán bộ chưa theo kịp xu thế phát triển. Việc triển khai thực hiện 4 chương trình trọng điểm có nơi có lúc chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ, chưa tạo ra sự chuyển biến tích cực. Công tác kiểm tra, đôn đốc không thường xuyên và thiếu các giải pháp khả thi.  Trong điều kiện còn quá nhiều khó khăn, các nhu cầu bức xúc còn quá lớn, nguồn lực lại có hạn nên việc đầu tư còn mang tính dàn trải, thiếu tính tập trung cho các mục tiêu trọng điểm. 2.1.2.3.4. Bài học kinh nghiệm từ thực trạng đầu tư công 20 năm qua Một là: Nắm vững chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và cụ thể hoá bằng các mục tiêu, chương trình, các giải pháp cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế, đặc thù của địa phương. Trong từng ngành, từng cấp, từng lĩnh vực phải xây dựng các chương trình dự án cụ thể; định hướng phát triển chung phải toàn diện nhưng phải xác định cho được nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm phải biết chọn khâu đột phá để phát huy nội lực và lợi thế so sánh đồng thời tranh thủ nắm bắt, khai thác yếu tố ngoại lực. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 54 Hai là: Trong tổ chức thực hiện phải có giải pháp cụ thể khả thi, trong chỉ đạo điều hành phải kiên quyết, linh hoạt sáng tạo; phải tạo ra sự liên kết, gắn bó chặt chẽ giữa ngành với ngành, giữa ngành với lãnh thổ. Kịp thời tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình mới hiệu quả, khơi dậy và phát huy các tiềm năng to lớn của các thành phần kinh tế. Tiếp cận và giải quyết, xử lý đúng đắn kịp thời các vấn đề mới cũng như các tồn tại, vướng mắc của các đơn vị kinh tế cơ sở. Trong quản lý, điều hành kinh tế, chú trọng công tác kế hoạch hoá, kết hợp chặt chẽ quy hoạch, kế hoạch cho trung hạn và kế hoạch hàng năm. Tránh các yếu tố tự phát, nóng vội làm ảnh hưởng đến mục tiêu chung và sự phát triển bền vững. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong tổ chức và quản lý. Mạnh dạn phân cấp quản lý cho cấp cơ sở, gắn liền trách nhiệm và quyền hạn trong giải quyết nhiệm vụ, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát của cấp trên. Ba là: Chủ trương phải hợp lý có lựa chọn và cân nhắc, trong bố trí đầu tư tránh bố trí dàn trải, cần tập trung hơn cho các công trình trọng điểm mang tính đột phá góp phần quyết định trong thu hút đầu tư cũng như quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, cần tập trung đầu tư cho những công trình bức xúc ở những địa phương đặc biệt khó khăn đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của người dân đảm bảo tính cân đối, bền vững trong phát triển kinh tế. Chủ động thu hút đầu tư bằng những chương trình, dự án cụ thể. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao vai trò quyết định của nguồn nội lực và tranh thủ tối đa nguồn ngoại lực FDI, ODA, BT, BOT,...để đẩy mạnh đầu tư và bố trí đầu tư theo kế hoạch. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 55 Phát huy các cực phát triển tạo đà lôi kéo, lấp bớt lỗ trống những lĩnh vực chậm phát triển đưa mặt bằng kinh tế đi lên. Có kế hoạch tạo, sử dụng lợi thế trong trung và dài hạn. Bốn là: Chú trọng hơn đến chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là quan tâm đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Thực hiện tốt chiến lược xây dựng và phát triển đội ngủ cán bộ, nhất là cán bộ khoa học, cán bộ đầu đàn có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức lối sống lành mạnh, có trình độ chuyên môn cao, có tư duy sáng tạo, dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp đáp ứng nhu cầu tổ chức, quản lý phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới. Năm là: Phát triển kinh tế phải đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Tăng trưởng phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, nâng cao dân trí, nâng cao năng lực khoa học công nghệ. 2.2. Đánh giá tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế tỉnh Long An 2.2.1. Chọn mô hình phân tích Từ lý thuyết các mô hình tăng trưởng ở chương 1, ta thấy các nhà kinh tế đều kết luận rằng có mối tương quan tỷ lệ thuận giữa tỷ lệ đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế và họ đều thừa nhận rằng đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế: muốn có tăng trưởng kinh tế thì phải có đầu tư. Mô hình Harrod – Domar là một trong những mô hình giản đơn cho thấy rất rõ mối tương quan giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Harrod - Domar cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế chính là lượng vốn sản xuất tăng thêm có được từ đầu tư và tiết kiệm của quốc Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 56 gia, tốc độ tăng trưởng tổng sản lượng quốc gia phụ thuộc vào mức tăng vốn đầu tư để tạo ra vốn sản xuất trong nền kinh tế. Đây là mô hình phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài để phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế cũng như ứng dụng mô hình trong hoạch định chính sách kinh tế của địa phương. Từ các phương trình của mô hình có thể rút ra các tính toán để phục vụ cho công tác kế hoạch hoá như tính tốc độ tăng trưởng sản lượng quốc gia, vốn đầu tư của nền kinh tế trong một giai đoạn (I), tỷ lệ đầu tư (s) và quy mô GDP (Y)… Từ mô hình Harrod-Domar, Kasliwal (1995) đưa ra công thức tăng trưởng như sau: Tốc độ tăng trưởng = Lượng đầu tư x ICOR. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 57 Bảng số liệu ví dụ về mối quan hệ giữa đầu tư và hiệu quả đầu tư. Đầu tư và tăng trưởng ở các nước đang phát triển (1960 -1984) Nước Tốcđộ tăng GDP trên đầu người Tỷ lệ đầu tư/GDP ICOR Nhóm tăng trưởng cao Philipines 2,5 17 4,3 Colombia 2,7 14 3,9 Turkey 3,1 14 3,6 Mexico 3,4 16 3,3 Malyasia 4,3 16 3,3 Brazil 4,4 19 3,7 Thailand 4,5 17 3,3 Greece 4,6 18 4,5 HongKong 6,1 27 3,9 Korea 6,4 17 2,7 Botswana 7,3 27 3,2 Singapore 7,4 24 3,3 Trung bình nhóm tăng trưởng cao 4,5 18 3,6 Trung bình nhóm tăng trưởng thấp 0,4 11 7,2 Nguồn: Kasliwal 1995 – Báo cáo phát triển thế giới Bảng số liệu trên cho thấy mối tương quan tỷ lệ thuận giữa tỷ lệ đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Những nước với tỷ lệ đầu tư cao có khuynh hướng sử dụng vốn đầu tư hiệu quả hơn, thể hiện ở hệ số ICOR thấp hơn, tạo ra một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Cũng từ bảng số liệu cho thấy sự khác biệt trong hệ số ICOR giữa các nước, ICOR đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng giữa các nước so với tỷ lệ đầu tư trên GDP. Điều này có nghĩa là yếu tố hiệu quả kinh tế đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 58 Để đẩy nhanh tăng trưởng cần tăng tiết kiệm để gia tăng đầu tư. Nhưng nếu GDP/người thấp thì khó mà nâng cao tỷ lệ tiết kiệm. Đây là trở ngại của nhiều quốc gia có thu nhập thấp. Những nước có tỷ lệ đầu tư cao có khuynh hướng sử dụng vốn đầu tư hiệu quả hơn, thể hiện ở hệ số ICOR thấp hơn, tạo ra một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Như vậy hệ số ICOR càng thấp thì chứng tỏ đầu tư càng hiệu quả. Hệ số ICOR thấp hơn có nghĩa là cần một tỷ lệ đầu tư/GDP thấp hơn để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, theo quy luật về lợi tức biên giảm dần, khi nền kinh tế càng phát triển (GDP/đầu người tăng lên) thì hệ số ICOR sẽ gia tăng, lúc này tiền lương gia tăng cao và nền kinh tế mang tính thâm dụng vốn, nền kinh tế cần một tỷ lệ đầu tư/GDP cao hơn để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng. Theo nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, đối với các nước đang phát triển, trung bình chung ICOR = 3, đối với các nước phát triển hệ số này là 5. Lý do ICOR tăng dần là do năng suất biên của vốn sản xuất giảm dần. 2.2.2. Ứng dụng mô hình Harrod - Domar trong phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế Tỉnh Long An Để đo lường nguồn tiết kiệm trong và ngoài nước ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng GDP, có thể mở rộng việc ứng dụng mô hình Harrod - Domar vào tính toán tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế như sau: * Tốc độ tăng trưởng GDP: gY = s / ICOR gY : tốc độ tăng trưởng GDP, s : tỷ lệ đầu tư quốc gia. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 59 S : tổng tiết kiệm quốc gia, với S= I= Id + If , trong đó Id là tiết kiệm trong nước, If là tiết kiệm nước ngoài. * Tốc độ tăng trưởng GDP do đầu tư khu vực công mang lại: đầu tư khu vực công là đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước. gYg = sg / ICOR sg = Ig: là tiết kiệm của khu vực công * Tốc độ tăng trưởng GDP do đầu tư khu vực tư mang lại: đầu tư khu vực tư là đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nước, nước ngoài và dân cư. gYp = sp / ICOR Sp : tiết kiệm khu vực tư , Sp= Ip = Sf + Se + Sh , trong đó: Se : tiết kiệm của các doanh nghiệp, Sf : tiết kiệm của đầu tư nước ngoài, Sh : tiết kiệm của dân cư. 2.2.3. Khung phân tích của đề tài - Thu thập số liệu về tổng vốn đầu tư xã hội và tổng GDP qua niên giám thống kê của Tỉnh trong thời gian 20 năm từ 1987-2007. - Thu thập số liệu tổng vốn đầu tư của khu vực công và khu vực tư. - Tính toán động thái tăng trưởng, tỷ lệ đầu tư trên GDP và trên tổng vốn đầu tư xã hội của hai khu vực. So sánh mức độ tác động đầu tư của hai khu vực đến GDP toàn Tỉnh. - Dựa vào các số liệu thu thập, xây dựng hàm hồi quy GDP = f(I) để tính tương quan giữa tổng đầu tư - tăng trưởng và tổng đầu tư hai khu vực – tăng trưởng. Vẽ đồ thị minh hoạ chung. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 60 Sử dụng phần mềm SPSS để tính kết quả các biến, các hệ số hồi quy và giải thích ý nghĩa của chúng. Qua đó, đánh giá mức độ tương quan các biến, tính toán và kiểm định mức độ phù hợp của mô hình hồi quy. - Kết hợp mô hình hồi quy đã xây dựng và kết quả tính toán để đưa ra nhận xét về mức độ đóng góp đầu tư của tổng đầu tư xã hội và tổng đầu tư hai khu vực đến GDP và đưa ra các giải pháp, khuyến nghị trong hoạch định chính sách đầu tư của Tỉnh. 2.2.4. Kết quả tính toán 2.2.4.1. Mô hình tính tương quan GDP của Tỉnh với vốn đầu tư công và vốn đầu tư khu vực tư I_g: đầu tư khu vực công I_p: đầu tư khu vực tư. Model Summary(b) Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Change Statistics Durbin- Watson R Square Change F Change df 1 df2 Sig. F Change 1 ,986(a) ,973 ,970 392,500 ,973 324,469 2 18 ,000 ,861 a Predictors: (Constant), I_P, I_G b Dependent Variable: GDP ANOVA(b) Model Sum of Squares df Mean Square F Sig. 1 Regression 99972986,029 2 49986493,014 324,469 ,000(a) Residual 2773011,114 18 154056,173 Total 102745997,143 20 a Predictors: (Constant), I_P, I_G b Dependent Variable: GDP Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 61 Coefficients(a) Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. Collinearity Statistics B Std. Error Beta Tolera nce VIF 1 (Constant) 983,442 294,114 3,344 ,004 I_G 1,608 ,484 ,196 3,323 ,004 ,431 2,320 I_P 2,998 ,213 ,830 14,075 ,000 ,431 2,320 a Dependent Variable: GDP Từ kết quả ước lượng mô hình Linear, R2 cho biết mức độ % của biến phụ thuộc được giải thích bởi các biến độc lập trong mô hình. - R2 = 0,973 có nghĩa là 97,3% sự thay đổi của GDP được giải thích bởi sự thay đổi của tổng vốn đầu tư của hai khu vực. Còn lại 2,7% được giải thích bởi các biến ngoài mô hình đề cập. - Kết quả thống kê F trong bảng ANOVA là 324,469 với mức ý nghĩa tương ứng Sig = 0,000 (<0,05) nên R2 thực sự có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95%, nói cách khác mô hình phù hợp với dữ liệu. - Sig của thống kê t tương ứng với hệ số hồi quy trong bảng Coefficients của I_g và I_p lần lượt là 0,004 và 0,000 cho thấy một hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95% (vì Sig của thống kê t nhỏ hơn 0,05). - Biến phụ thuộc (Dependent variable) GDP, bảng số liệu cho biết khi tổng vốn đầu tư khu vực tư tăng 1 đơn vị thì tổng GDP tăng 3 đơn vị với giả định quy mô đầu tư khu vực công không đổi, và khi tổng vốn đầu tư khu vực công tăng 1 đơn vị thì tổng GDP tăng 1,6 đơn vị với giả định quy mô đầu tư khu vực tư không đổi. - Hệ số hồi quy quy đổi của I_g là 0,484 và I_p là 0,830 cho biết tổng đầu tư của hai khu vực có tác động đến tăng trưởng GDP toàn tỉnh, trong đó đầu tư khu vực tư có tác động nhiều hơn đầu tư của khu vực công. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 62 Phương trình ước lượng tăng trưởng GDP theo hai khu vực: GDP = 983,442 + 1,608 I_g + 2,998 I_p. t = 3,344 t = 3,323 t = 14,075 Kết luận: vốn đầu tư của khu vực tư và khu vực công có tác động đến tăng trưởng GDP của toàn Tỉnh. 2.2.4.2. Mô hình tính tương quan GDP của Tỉnh với tổng vốn đầu tư toàn xã hội Model Summary(b) Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Change Statistics Durbin- Watson R Square Change F Change df1 df2 Sig. F Change 1 ,983(a) ,966 ,965 426,532 ,966 545,756 1 19 ,000 ,701 a Predictors: (Constant), I b Dependent Variable: GDP ANOVA(b) Model Sum of Squares Df Mean Square F Sig. 1 Regression 99289329,684 1 99289329,684 545,756 ,000(a) Residual 3456667,459 19 181929,866 Total 102745997,143 20 a Predictors: (Constant), I b Dependent Variable: GDP Coefficients(a) Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. Collinearity Statistics B Std. Error Beta Tolerance VIF 1 (Constant) 483,047 188,469 2,563 ,019 I 2,605 ,111 ,983 23,361 ,000 1,000 1,000 a Dependent Variable: GDP Từ kết quả ước lượng mô hình Linear, R2 cho biết mức độ % của biến phụ thuộc được giải thích bởi các biến độc lập trong mô hình. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 63 - Bảng số liệu cho thấy, R2 = 0,966 có nghĩa là 96,6% sự thay đổi của GDP được giải thích bởi sự thay đổi của vốn đầu tư. Còn lại 3,4% được giải thích bởi các biến ngoài mô hình đề cập. - Kết quả thống kê F trong bảng ANOVA là 545,756 với mức ý nghĩa tương ứng Sig = 0,000 (<0,05) nên R2 thực sự có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95%, nói cách khác mô hình phù hợp với dữ liệu. - Sig của thống kê t tương ứng với hệ số hồi quy trong bảng Coefficients thì ta có một hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95% (vì Sig của thống kê t nhỏ hơn 0,05). - Biến phụ thuộc (Dependent variable) GDP, bảng số liệu cho biết khi tổng vốn đầu tư xã hội tăng 1 đơn vị thì GDP tăng 2,6 đơn vị. - Hệ số hồi quy quy đổi là 0,983 cho biết yếu tố vốn đầu tư đóng góp đến 98,3% đối với tăng trưởng GDP của toàn Tỉnh. Phương trình ước lượng tăng trưởng là: GDP = 483,047 + 2,605 I t = 2,563 t = 23,631 Kết luận: Tổng vốn đầu tư xã hội có tương quan đến tăng trưởng GDP của Tỉnh. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 64 Từ kết quả các số liệu tính toán, ta có đồ thị tương quan như sau: Sơ đồ 2.2: Tương quan GDP và vốn đầu tư Đồ thị tương quan GDP và vốn đầu tư 0 2000 4000 6000 8000 10000 12000 0 1000 2000 3000 4000 vốn đầu tư G D P GDP Linear (GDP) Kết luận Chương 2 Nhìn chung, thời gian qua đầu tư công đã có tác động rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, đã góp phần giữ được nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi, hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện đáng kể, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế đều phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng, góp phần ổn định đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo và thu hút được lượng lớn nhà đầu tư vào Tỉnh. Thực trạng và cơ cấu đầu tư của Tỉnh qua các giai đoạn nhìn chung rất phù hợp với lý thuyết đầu tư trình bày ở Chương 1, trong thời kỳ đầu thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, quy mô chi đầu tư công của ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ khá lớn so với tổng đầu tư xã hội. Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15 SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành 65 - Hệ số ICOR khu vực công còn cao, Tỉnh cần có giải pháp tốt hơn trong hoạch định chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư có hiệu quả hơn để tạo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluanvanhoanchinhnop150109.pdf
Tài liệu liên quan