Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 540
YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM TINH HOÀN MÀO TINH 
Lê Anh Tuấn*, Phạm Hữu Đương*, Mai Bá Tiến Dũng* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Viêm tinh hoàn – mào tinh là bệnh lý cấp tính của một bên tinh hoàn. Có nhiều diễn tiến trong 
quá trình điều trị và chỉ định nhập viện. Điều trị cần được thực hiện ngay sau khi có chẩn đoán bao gồm kháng 
sinh, giảm đau và phẫu thuật nếu cần thiết. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: từ năm 2015 – 2017, dữ liệu của các bệnh nhân viêm tinh hoàn 
mào tinh ở khoa nam học được thu thập dần. Chúng tôi đánh giá các đặc điểm của bệnh nhân trong quá trình 
nhập viện và phân tích các yếu tố tiên lượng trong điều trị viêm tinh hoàn mào tinh. 
Kết quả: trong 2 năm, 371 bệnh nhân viêm tinh hoàn mào tinh được ghi nhận. 4 trường hợp (1,1%) bị 
nhiễm khuẩn huyết, không có trường hợp tử vong. Trong 119 trường hợp (32,1%) trải qua phẫu thuật cắt tinh 
hoàn hoặc dẫn lưu áp xe, 72 bệnh nhân (19,4%) cần cắt tinh hoàn một bên và có độ tuổi lớn hơn các bệnh nhân 
còn lại có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Dựa vào phân tích thống kê, các yếu nguy cơ cắt tinh hoàn bao gồm: lớn 
tuổi (P < 0,001), phập phều (P < 0,001), áp xe mào tinh (P < 0,001), áp xe tinh hoàn (P = 0,004) và giảm hoặc mất 
phổ mạch máu tinh hoàn (P <0,001). Dựa vào các kết quả trên, 371 bệnh nhân được chia làm 5 nhóm bệnh nhân. 
Kết quả điều trị trong từng nhóm được đánh giá nhằm xây dựng hệ thống tiếp cận bệnh nhân viêm tinh hoàn 
mào tinh. 
Kết luận: viêm tinh hoàn mào tinh là một bệnh lý nghiêm trọng có thể dẫn đễn phẫu thuật cắt tinh hoàn. 
Trong nghiên cứu, tuổi tác, phập phều ở bìu, áp xe tinh hoàn và mào tinh là yếu tố nguy cơ của cắt tinh hoàn. 
Phân nhóm hệ thống tiếp cận bệnh nhân có thể giúp trong điều trị bệnh nhân viêm tinh hoàn mào tinh. 
Từ khóa: viêm mào tinh, viêm tinh hoàn, áp xe, cắt tinh hoàn, phân độ 
ABSTRACT 
PROGNOSTIC FACTORS OF EPIDIDYMO-ORCHITIS TREATMENTS 
Le Anh Tuan, Pham Huu Duong, Mai Ba Tien Dung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 541 - 547 
Introduction and objective: Acute epididymo-orchitis is an acute inflammatory disease of the epididymis 
and ipsi-lateral testis. There is considerable variability regarding its incidence and implications in a hospital 
setting. Treatment should be started immediately after diagnosis and includes antibiotics, analgesics, and if 
necessary surgery. 
Patients and method: From 2015 -2017, a data collection of epididymo-orchitis patient in our hospital 
andrology department have been started. We reviewed patient demographics, course of hospitalization and identify 
prognostic factors of epididymo-orchitis out comes. 
Results: in 2 years, 371 admitted patients with epididymo-orchitis were identified. 4 (1.1%) became septic, 
and no one died during hospitalization. Among 119 (32.1%) patients who underwent incision and drainage of the 
abscess, 72 (19.4%) patients had a unilateral orchiectomy and were significantly older than those who did not (P < 
0.001). Upon analysis, risk factors for having an orchiectomy included older age (P < 0.001), malacia (P < 0.001), 
epididymal abscess (P < 0.001), testicular abscess (P = 0.004) and reduction or absence of testicular blood flow (P < 
* Bệnh viện Bình Dân TP. HCM 
Tác giả liên hệ: BS. Lê Anh Tuấn ĐT: 01668571847 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 541
0.001). Depending on examination results, 371 patients were divided into five groups. The clinical outcomes in 
each group were analyzed to create a classification facilitates systematic approach for epididymo-orchitis patient. 
Conclusion: Epididymo-orchitis is a serious problem that can lead to orchiectomy. In this cohort, older age, 
malacia, epididymal and testicular abscess are the risk factors for having an orchiectomy. Classification facilitates 
systematic approaches is able to help in treatment of epididymo-orchitis. 
Keywords: epididymitis, orchitis, abscess, orchiectomy, classification. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên đã được 
Hippocrates đã mô tả. Viêm tinh hoàn mào tinh 
thường xuất hiện một bên bìu có thể do vi trùng, 
virus, do bệnh lý tự miễn. 
Viêm tinh hoàn là tình trạng tổn thương 
viêm ở mô tinh hoàn thường do tác nhân virus. 
Viêm mào tinh ngược lại thường xuất phát từ các 
tác nhân nhiễm khuẩn đường tiết niệu xâm nhập 
ngược dòng theo ống dẫn tinh gây viêm mào 
tinh. Tuy nhiên, vì hai cấu trúc tinh hoàn và mào 
tinh có sự thông nối về mạch máu và đường sinh 
tinh nên đã phần các trường hợp đều có tình 
trạng viêm tinh - hoàn mào tinh ở một mức độ 
nào đó. Viêm tinh - hoàn mào tinh cũng là thuật 
ngữ thường dùng trong chẩn đoán các trường 
hợp bệnh trên lâm sàng. 
Diễn tiến viêm ở tinh hoàn và mào tinh có 
thể tiến triển thành viêm tinh hoàn mào tinh 
mạn tính, áp xe tinh hoàn - mào tinh, hoại tử tinh 
hoàn đòi hỏi cần can thiệp phẫu thuật. Khi can 
thiệp phẫu thuật, khả năng bảo tồn của tinh 
hoàn thấp dần. 
Tổn thương viêm tinh hoàn mào tinh có 
thể gây ra tình trạng vô sinh, tổn thương tinh 
hoàn ở nhiều mức độ khác nhau và là nguyên 
nhân lớn nhất gây mất một tinh hoàn ở nam 
giới trưởng thành. 
Diễn tiến lâm sàng thực tế ở Việt Nam khác 
nhiều với các nước phương Tây vì tình hình kinh 
tế, tình trạng kháng kháng sinh. Không có nhiều 
tài liệu nói về các chỉ định phẫu thuật hoặc chỉ 
dừng lại ở dẫn lưu ổ áp xe. Khi nào bệnh nhân 
cần phẫu thuật cắt mào tinh, phẫu thuật cắt tinh 
hoàn, hoặc thoát lưu áp xe từ mào tinh và tinh 
hoàn, các yếu tố nào sẽ tiên lượng cho việc điều 
trị viêm tinh hoàn mào vẫn là một câu hỏi cần 
đặt ra. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được tiến hành dựa trên dữ liệu 
hồi cứu của 371 trường hợp viêm tinh hoàn - 
mào tinh có chỉ định nhập viện được điều trị tại 
khoa Nam học Bệnh viện Bình Dân từ tháng 
11/2015 đến tháng 11/2017. 
Các bệnh nhân với biểu hiện lâm sàng là các 
tổn thương viêm sưng ở tinh hoàn và mào tinh 
được đưa vào nghiên cứu. Các bệnh nhân có tổn 
thương áp xe từ vùng mô mềm ở bìu không 
được đưa vào nghiên cứu. Các dấu hiệu lâm 
sàng, cận lâm sàng được sử dụng nhằm phân 
chia các bệnh nhân thành các nhóm lâm sàng 
khác nhau. 
Bệnh nhân được thăm khám với các xét 
nghiệm chẩn đoán huyết đồ, siêu âm bụng, siêu 
âm Doppler bẹn bìu nhằm đánh giá tổn thương 
viêm, cấu trúc mạch máu của tinh hoàn. 
Bệnh nhân cũng đồng thời được điều trị 
kháng sinh và đánh giá lại mỗi 48-72 giờ bằng 
lâm sàng, đánh giá đáp ứng viêm toàn thân, 
công thức máu và siêu âm Doppler bẹn bìu. 
Bệnh nhân được đánh giá đáp ứng với điều 
trị nội khoa nếu giảm các triệu chứng đau, giảm 
sưng viêm tinh hoàn, bạch cầu máu giảm. 
Nếu không đáp ứng điều trị hoặc tình trạng 
viêm tinh hoàn mào tinh diễn tiến xấu hơn như 
hình thành áp xe, hoại tử tinh hoàn, bệnh nhân 
sẽ được phẫu thuật. Các phương pháp can thiệp 
bao gồm cắt mào tinh hoàn, dẫn lưu áp xe, cắt 
tinh hoàn. Nếu phần tinh hoàn còn lại có hiệu 
tượng viêm hoại tử, hoặc phần áp xe chiếm phần 
lớn cấu trúc tinh hoàn thì bệnh nhân có chỉ định 
cắt tinh hoàn. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 542
Các kiểm định t test và chi square test được 
dùng để kiểm định các thống kê. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong khoảng 2 năm, có 371 trường hợp 
viêm tinh hoàn mào tinh được điều trị tại bệnh 
viện Bình Dân, 4 trường hợp (1,1%) nhiễm trùng 
huyết, không có trường hợp tử vong. 119 trường 
hợp (32,1%) cần can thiệp phẫu thuật, trong đó 
72 trường hợp (19,4%) cắt tinh hoàn, 47 trường 
hợp (12,7%) cắt mào tinh. Có 16 trường hợp 
được rạch thoát lưu áp xe trước nhưng 6 trường 
hợp (37,5%) phải phẫu thuật cắt tinh hoàn sau 
đó, 8 trường hợp (50,0%) cắt mào tinh, 2 trường 
hợp (12,5%) điều trị thành công, 19 trường hợp 
(5,1%) có tình trạng giảm tưới máu hoặc mất tưới 
máu tinh hoàn. 
Đặt Điểm Dịch Tể 
Độ tuổi trung bình của bệnh nhân viêm tinh 
hoàn – mào tinh trong nghiên cứu là 42,2 ± 16,5. 
Bảng 1. Phân bố độ tuổi của bệnh nhân 
TUỔI N TRUNG BÌNH 
Viêm tinh hoàn 88 34,6 ± 13,9 
Viêm mào tinh 161 42,4±14,3 
Viêm tinh hoàn – mào tinh 55 44,6 ± 15,4 
Áp xe mào tinh 30 46,1 ± 14,3 
Áp xe tinh hoàn 5 53,0 ± 23,3 
Áp xe mào tinh + tinh hoàn 10 65,2 ± 22,3 
Diễn tiến hoại tử tinh hoàn 21 36,4 ± 13,2 
Số ngày điều trị của các bệnh nhân không 
điều trị phẫu thuật, phẫu thuật cắt mào tinh 
hoàn, cắt tinh hoàn lần lượt là 5,0 ± 2,1; 6,1± 2,5; 
7,5 ± 2,7. 
Đặt Điểm Lâm Sàng –Cận lâm sàng 
9,4 % bệnh nhân có bệnh nội khoa kèm theo, 
hàng đầu là đái tháo đường (5,7%), tiếp theo là 
lao phổi (2,7%). 
Có 128 bệnh nhân (34,5%) có bạch cầu niệu 
trong nước tiểu. E coli là nhóm vi khuẩn chiếm 
phần lớn trong các trường hợp cấy dương tính. 
Có 27 bệnh nhân (9%) cấy nước tiểu dương tính 
(E. coli (51,9%). 16 bệnh nhân cấy mủ dương tính 
trong phẫu thuật, E. coli chiếm 63,8%. 
Vi khuẩn lao chiếm 30/47 (63,8%) mẫu mào 
tinh hoàn và 37/72 (44,4%) mẫu tinh hoàn. 
Các Yếu Tố Tiên Lượng Khả Năng Điều Trị 
Một số yếu tố nhằm đánh giá tiên lượng khả 
năng điều trị bảo tồn tinh hoàn được đưa vào 
kiểm định. Tuổi của bệnh nhân (P < 0,001), dấu 
hiệu phập phều (P < 0,001) trên lâm sàng, áp xe 
mào tinh (P < 0,001), áp xe tinh hoàn (P = 0,004), 
giảm tưới máu tinh hoàn (P < 0,001) là các dấu 
hiệu tiên lượng khả năng kém đáp ứng điều trị 
nội khoa của bệnh nhân. 
Bảng 2. Các yếu tố tiên lượng điều trị của bệnh nhân 
viêm tinh hoàn mào tinh 
YẾU TỐ N PHÂN 
BỐ 
P 
Tuổi Cắt tinh hoàn 51,1 ± 
17,4 
P < 
0,001 
 Không cắt tinh 
hoàn 
 39,4 ± 
15,3 
Thời gian diễn tiến đến 
khi nhập viện 
Cắt tinh hoàn 15,4 ± 
12,1 
P = 
0,383 
Không cắt tinh 
hoàn 
 10,4 
±14,8 
Phập phều Có 68 P < 
0,001 
 Không 303 
Bạch cầu máu > 20000/mL 307 P = 
0,204 
 < 20000/mL 64 
Áp xe mào tinh Có 60 P < 
0,001 
 Không 311 
Áp xe tinh hoàn Có 54 P = 
0,004 
 Không 317 
Giảm hoặc mất tưới 
máu tinh hoàn 
Có 19 P < 
0,001 
Không 352 
Dựa trên các yếu tố trên các bệnh nhân được 
chia thành các nhóm có đặc điểm lâm sàng và 
cận lâm sàng khác nhau: 
Nhóm I: có 103 bệnh nhân, tổn thương chính 
là viêm mào tinh hoàn đơn thuần không có viêm 
mào tinh hoặc áp xe tinh hoàn - mào tinh. 
Nhóm IIA: có 98 bệnh nhân có tổn thương 
viêm tinh hoàn đơn thuần không có viêm mào 
tinh hoặc áp xe tinh hoàn - mào tinh. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 543
Nhóm IIB: có 56 bệnh nhân tổn thương viêm 
tinh hoàn kết hợp viêm mào tinh không có áp xe 
tinh hoàn - mào tinh. 
Nhóm III: có 53 bệnh nhân có Áp xe mào 
tinh đơn thuần. 
Nhóm IV: có 42 bệnh nhân có Áp xe tinh 
hoàn ± Áp xe mào tinh. 
Nhóm V: có 19 bệnh nhân có diễn tiến hoại 
tử tinh hoàn với đặc điểm tổn thương giảm 
hoặc mất tưới máu tinh hoàn trên siêu âm 
Doppler. 
Bảng 3. Phân nhóm viêm tinh hoàn mào tinh và kết quả điều trị 
Nhóm N Tổn thương trên siêu 
âm 
Phập 
phều 
Kích thước áp 
xe 
(mm) 
Điều trị HIỆU QUẢ 
BẢO TỒN 
TINH HOÀN 
I 
103 Viêm mào tinh - - Nội khoa: 85,4 % 
Cắt mào tinh:14,6% 
100% 
IIA 
98 Viêm tinh hoàn - - Nội khoa: 95,9% 
Cắt tinh hoàn: 4,1% 
95,9% 
IIB 
56 Viêm tinh hoàn - mào 
tinh 
- - Nội khoa: 78,6% 92,9% 
Cắt mào tinh:14,3% 
Cắt tinh hoàn: 7,1% 
III 
53 Áp xe mào tình hoàn ± 8,7±4,2 Nôi khoa: 11,3% 57,7% 
17,6 ±10,3 Cắt mào tinh: 45,3% 
13,6 ± 5,6 Cắt tinh hoàn: 43,4% 
IV 
42 Áp xe tinh hoàn ± Áp xe 
mào tinh 
± 13,7 ± 2,7 
(Max:14 
 Min:10) 
Nội khoa: 38,1% 38,1% 
23,9 ± 8,7 
(Max:14 
Min:40) 
Cắt tinh hoàn: 61,9% 
V 19 Mất phổ mạch máu tinh 
hoàn ± Áp xe mào 
tinh/tinh hoàn 
± Nội khoa:21,1% 
Cắt tinh hoàn:78,9% 
21,1% 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu, các bệnh nhân viêm tinh 
hoàn mào tinh do virus, vi khuẩn, lao được phân 
tích chung nhằm đưa ra cái nhìn toàn diện thực 
tế khi điều trị một trường hợp viêm tinh hoàn 
mào tinh. 
Số ngày điều trị của các bệnh nhân không 
điều trị phẫu thuật, phẫu thuật cắt mào tinh 
hoàn, cắt tinh hoàn lần lượt là 5,0 ± 2,1; 6,1± 2,5; 
7,5 ± 2,7. Trong đó 82,1% bệnh nhân điều trị nội 
khoa cho thấy tình trạng giảm sưng viêm ngay 
sau 48 -72 giờ sau sử dụng kháng sinh. Tình 
trạng đáp ứng điều trị diễn ra rất nhanh với các 
trường hợp đáp ứng điều trị lâm sàng(1). Các 
trường hợp không đáp ứng điều trị cần khảo sát 
thêm bằng siêu âm, các dấu hiệu của phản ứng 
đáp ứng viêm toàn thân, nhằm phát hiện các 
diễn tiến xấu của viêm tinh hoàn mào tinh như 
áp xe hóa và hoại tử tinh hoàn(13). 
Viêm tinh hoàn mào tinh là một bệnh lý 
thường gặp gây nên tình trạng nhiễm trùng 
trong mô bìu, bệnh thường ghi nhận ở nam giới 
18 - 50 tuổi(4,12,6). Các bệnh nhân trong nghiên cứu 
có độ tuổi tương tự như các báo cáo của 
Melekos(12) và Banyra(14). Các bệnh nhân viêm 
tinh hoàn đơn thuần trong nghiên cứu có độ tuổi 
34,6 ± 13,9 trẻ hơn các nhóm có tổn thương diễn 
tiến nặng hình thành áp xe trong tinh hoàn hoặc 
mào tinh. Điều này có thể được giải thích bởi 
virus là nhóm tác nhân chính gây nên tình trạng 
viêm tinh hoàn ở nhóm tuổi này(4,13,1). Các tổn 
thương do virus thường ổn định và tự hồi phục. 
Rất tiếc trong nghiên cứu, chúng tôi không đủ 
phương tiện để chẩn đoán xác định nguyên 
nhân viêm tinh hoàn – mào tinh do virus gây ra. 
Trên thực tế lâm sàng, các bệnh nhân có viêm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 544
tinh hoàn do virus có các dấu hiệu nhiễm siêu vi 
toàn thân, bạch cầu máu không tăng, bệnh nhân 
thường sốt trước khi tinh hoàn –mào tinh sưng 
phù nề(14). 
Ngược lại, tình trạng diễn tiến thành áp xe 
mào tinh hoặc tinh hoàn xảy ra nhiều ở nhóm 
bệnh nhân lớn tuổi do tình trạng lớn tuổi với 
nhiều bệnh lý nội khoa đi kèm theo như đái 
tháo đường (5,7%), lao phổi (2,7%). Có những 
bệnh nhân đã có đái tháo đường đã lâu nhưng 
không được chẩn đoán, chỉ được chẩn đoán 
lần đầu cùng bệnh cảnh viêm tinh hoàn mào 
tinh. Vi khuẩn lao chiếm 63,8% trong các tổn 
thương mào tinh hoàn và 44,4% mẫu tinh 
hoàn, nên mủ cần được soi nhuộm và làm 
PCR lao trước khi điều trị(9,11). Nhóm vi trùng 
lao tạo nên các áp xe lạnh, triệu chứng không 
rầm rộ nên một số bệnh nhân chỉ đến điều trị 
khi các ổ lao đã diễn tiến lan rộng tạo áp xe 
vùng mào tinh và tinh hoàn(15,11). 
128 trường hợp (34,5%) trong nghiên cứu 
có bạch cầu trong nước tiểu. Tác nhân nhiễm 
khuẩn đường niệu thường gây các dấu hiệu 
nhiễm khuẩn hệ niệu có thể có hoặc không có 
triệu chứng và ngược dòng theo ống dẫn tinh 
gây nên các tổn thương viêm ở tinh hoàn và 
mào tinh(1,10). Tuy nhiên chỉ có 27 bệnh nhân 
(9%) cấy nước tiểu và 16 bệnh nhân cấy mủ 
dương tính. E. coli vẫn là tác nhân chính gây 
nhiễm khuẩn trong bệnh cảnh viêm tinh hoàn 
mào tinh. Tỷ lệ cấy vi khuẩn thấp có thể do 
bệnh nhân đã sử dụng kháng sinh kéo dài 
trước và trong khi nhập viện. Tuy không thể 
khẳng định hoàn toàn vi khuẩn trong nước 
tiểu là tác nhân chính của bệnh, nhưng tất cả 
các bệnh nhân cần được cấy nước tiểu trước 
khi dung kháng sinh(1,10,14,16). Bệnh phẩm khi 
được cắt ra cũng cần được cấy nhằm tạo tiền 
đề cho các nghiên cứu sử dụng kháng sinh 
theo kinh nghiệm lâm sàng đặt biệt trong tình 
hình đề kháng kháng sinh phức tạp hiện nay. 
Các bệnh nhân viêm tinh hoàn mào tinh nên 
được chia làm các nhóm lâm sàng khác nhau 
nhằm giúp tiên lượng khả năng và có kế hoạch 
theo dõi điều trị cho bệnh nhân(1,14). Việc phân 
nhóm bệnh nhân với các yếu tố nguy cơ khiến 
việc điều trị trở nên thích hợp hơn. Bệnh nhân 
cũng được tư vấn trước khả năng điều trị. 
Tuổi (P < 0,001) là một trong các yếu tố tiên 
lượng kém trong điều trị bảo tồn tinh hoàn vì vi 
khuẩn là nhóm gây ra các triệu chứng chính ở 
nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Trong bối cảnh tình 
hình đề kháng kháng sinh rất phức tạp ở nước 
ta. Các bệnh nhân lớn tuổi thường có nhiều bệnh 
lý nội khoa đồng thời làm giảm sức đề kháng cơ 
thể như đái tháo đường, viêm phổi, hoặc đã trải 
qua điều trị kháng sinh các bệnh khác trước đó. 
Tinh hoàn có hệ thống hàng rào máu tinh hoàn, 
khiến cho kháng sinh kém thâm nhập vào các 
cấu trúc tinh hoàn mào tinh(7). Tất cả các yếu tố 
trên khiến việc điều trị nhóm bệnh nhân lớn tuổi 
trở thành một thách thức trong lâm sàng. Đôi khi 
tình trạng nhiễm khuẩn quá nặng khiến việc 
phẫu thuật cắt tinh hoàn cần thực hiện sớm 
nhằm tránh diễn tiến nhiễm khuẩn huyết trên 
bệnh nhân. Khác với các cấu trúc cơ quan khác, 
việc mất một tinh hoàn, làm suy giảm nội tiết tố 
có thể được hổ trợ bằng hormone nhân tạo và 
đảm bảo thẩm mỹ bằng tinh hoàn nhân tạo. 
Khám và sờ tinh hoàn mào tinh là bước đầu 
tiên phát hiện tình trạnh viêm tinh hoàn mào 
tinh, nhằm đánh giá cơ quan bị tổn thương và 
mức độ viêm(5,6,7). Tác giả Banyra gợi ý rằng nếu 
không phân biệt được mào tinh và tinh hoàn thì 
mức độ tổn thương nặng. Tuy nhiên các trường 
hợp lâm sàng trong nghiên cứu cho thấy khả 
năng khám và phân biệt tinh hoàn và mào tinh 
rất chủ quan, phụ thuộc rất nhiều vào khả năng 
của bác sĩ lâm sàng. 
Siêu âm Doppler rất nhạy trong chẩn tình 
trạng của mào tinh và tinh hoàn, có thể giúp 
phát hiện sự hình thành khối áp xe và đánh giá 
mức độ tưới máu của tinh hoàn(9,16). Viêm tinh 
hoàn mào tinh thể hiện bởi sự tăng tưới máu cấu 
trúc tinh hoàn mào tinh, cấu trúc thừng tinh 
nhằm phân biệt với các trường hợp xoăn thừng 
tinh(1,9,10,16). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 545
Dấu hiệu phập phều trên lâm sàng là yếu 
tố tiên lượng kém khả năng điều trị bảo tồn 
tinh hoàn(14). Để tạo nên triệu chứng trên, khối 
áp xe trong tinh hoàn mào tinh phải đủ lớn để 
phá bỏ bao trắng tinh hoàn dò ra mô bìu xung 
quanh, và đôi khi đây cũng là gợi ý bệnh diễn 
tiến dai dẳng. 
Việc rạch thoát lưu mủ trước có thể giúp 
giảm khối lượng nhiễm trùng, gợi ý nhóm kháng 
sinh điều trị và chẩn đoán trong trường. Trong 
nghiên cứu có 16 trường hợp được rạch thoát 
lưu. Tuy nhiên đa phần các bệnh nhân đều cần 
phải phẫu thuật làm sạch khối nhiễm trùng. Sau 
rạch thoát lưu áp xe, 2 trường hợp (12,5 %) phải 
nhập viện lại cắt toàn bộ tinh hoàn sau vài tuần 
do diễn tiến áp xe hoại tử phần mô tinh hoàn còn 
lại, 4 trường hợp (33,2%) phải phẫu thuật cắt tinh 
hoàn ngay trong quá trình nhập viện. Phần mô 
tế bào còn lại của tinh hoàn và mào tinh thường 
có tình trạng hoại tử, tưới máu kém không có sự 
phát triển mô hạt đầy đủ để khu trú khối áp xe. 
Các trường hợp thoát lưu mủ áp xe tinh hoàn 
mào tinh thường diễn tiến kém. Khối mô tinh 
hoàn mào tinh còn lại đa phần đều diễn tiến hoại 
tử tiếp khiến tình trạng dò mủ và mô hoại tử dai 
dẵng. Bệnh nhân phải nhập viện lại để phẫu 
thuật hoặc kéo dài thời gian điều trị của bệnh 
nhân. 8 trường hợp (50,0%) cắt mào tinh chủ yếu 
do áp xe lan từ mào tinh hoàn, tình trạng áp xe 
trong tinh hoàn rất ít hoặc không có. Có 2 trường 
hợp áp xe tinh hoàn được rạch thoát lưu mủ và 
khối áp xe ổn định dần là các trường hợp có khối 
áp xe nhỏ khoảng 10 mm. 
Áp xe mào tinh có thể được phẫu thuật 
nhằm loại bỏ khối áp xe và toàn bộ mào tinh 
giúp hỗ trợ cho quá trình điều trị. Tuy nhiên nếu 
ghi nhận có áp xe tinh hoàn phối hợp thì cần cân 
nhắc khả năng phẫu thuật cắt toàn bộ tinh hoàn 
vì việc cắt mào tinh gây tổn thương 2/3 nhóm 
mạch máu chính của tinh hoàn(5,15,9,16). Khối áp xe 
có thể diễn tiến nặng nề hơn do tình trạng thiếu 
máu và giảm phân bố của kháng sinh điều trị ở 
các mô tế bào còn lại. 
Tương tự các dấu hiệu diễn tiến nặng của 
viêm tinh hoàn như áp xe mào tinh, áp xe tinh 
hoàn (P = 0,004), giảm tưới máu tinh hoàn (P < 
0,001) gợi ý khả năng điều trị nội khoa thấp. Các 
dấu hiệu trên cho thấy mức độ tổn thương nặng 
của tinh hoàn. Trong lâm sàng các trường hợp 
giảm tưới máu tinh hoàn được gợi ý bằng tình 
trạng viêm diễn tiến tăng dần kết hợp với sự phù 
nề thừng tinh(14,16). 
Khả năng điều trị bảo tồn của tinh hoàn phụ 
thuộc vào mức độ tổn thương các cấu trúc tinh 
hoàn và mào tinh. Các bệnh nhân chỉ có viêm 
tinh hoàn hoặc mào tinh, khả năng điều trị bảo 
tồn từ 95,9% - 100% và giảm dần khi có áp xe 
tinh hoàn- mào tinh, chỉ còn 38,1 - 57,7%. Tiên 
lượng nặng nhất là diễn tiến hoại tử tinh hoàn 
với dấu hiệu giảm tưới máu trên siêu âm 
Doppler. 78,9 % các trường hợp có dấu hiệu dấu 
hiệu giảm tưới máu trên đều phải cắt tinh hoàn 
vì tinh hoàn diễn tiến hoại tử áp xe hóa lan rộng 
sau đó. Các trường hợp này khi phẫu thuật, mô 
tinh hoàn đều hoại tử, xuất hiện các vi áp xe 
khắp toàn bộ tinh hoàn khiến việc điều trị bảo 
tồn khó khăn. 
Trong thực hành lâm sàng, các tài liệu trước 
đây thường đánh giá viêm tinh hoàn mào tinh 
dựa trên các mức độ nặng, nhẹ, trung bình. Mỗi 
bác sĩ lâm sàng lại có kinh nghiệm riêng trong 
điều trị dựa trên đánh giá của bản thân. Tuy 
nhiên việc chỉ định thời gian và thời điểm can 
thiệp phẫu thuật trên một bệnh nhân viêm tinh 
hoàn mào tinh rất quan trọng. Một số tác giả ủng 
hộ quan điểm can thiệp phẫu thuật sớm, một số 
tác giả khác lại chú trọng việc điều trị bảo tồn. 
Diễn tiến viêm lâm sàng của các trường hợp 
viêm tinh hoàn mào tinh thực tế rất phức tạp tùy 
thuộc vào điều kiện kinh tế và phổ vi khuẩn 
kháng thuốc từng vùng. Tuy nhiên, việc can 
thiệp phẫu thuật trễ các tổn thương viêm hoặc 
áp xe mào tinh tạo điều kiện cho tình trạng 
nhiễm trùng tiến triễn có thể dẫn đến áp xe và 
hoại tử tinh hoàn sau đó. Dẫn lưu áp xe tinh 
hoàn trong nghiên cứu cho thấy khả năng thấp 
trong điều trị bảo tồn tinh hoàn. Nếu rạch thoát 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 546
lưu mủ áp xe tinh hoàn, bệnh nhân cần phải 
được giải thích về khả năng sẽ có thể cắt tinh 
hoàn sau đó nếu diễn tiến kém. 
KẾT LUẬN 
Viêm tinh hoàn mào tinh vẫn là một nguyên 
nhân lớn gây tổn thương tinh hoàn ở nam giới. 
Các yếu tố như tuổi tác và các dấu hiệu lâm sàng 
như phập phều, áp xe tinh hoàn, áp xe mào tinh 
giảm tưới máu tinh hoàn là các dấu hiệu tiên 
lượng xấu khả năng bảo tồn tinh hoàn. Siêu âm 
đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện 
sớm các dấu hiệu này. Việc phân nhóm bệnh 
trong nghiên cứu góp phần hỗ trợ điều trị, giúp 
bác sĩ lâm sàng tiên lượng khả năng và có kế 
hoạch điều trị bệnh nhân. Các bệnh nhân nhóm 
I-II cần được điều trị nội khoa tích cực, trong khi 
nhóm III-V cần phải khảo sát lâm sàng liên tục 
nhằm đánh giá khả năng phẫu thuật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arbuliev MG, Arbuliev KM, Gadzhiev DP, et al (2008). 
Diagnosis and treatment of acute epididymo-orchitis. 
Urologiia; (3): 49-52. 
2. Berger RE, Alexander ER, Monda GD, et al (1978). Chlamydia 
trachomatis as a cause of acute idiopathic epididymitis. N Engl 
J Med; 298: 301-304. 
3. Berger RE, Holmes KK, Mayo ME, et al (1980). The clinical use 
of epididymal aspira-tion cultures in the management of 
selected patients with acute epididymi-tis. J Urol; 124: 60-61. 
4. Centre for Disease Control and Prevention. Sexually 
Transmitted Diseases Management Guidelines (2006). 
MMWR 2006; 55 (RR-11): 61-62. 
5. Chattopadhyay A, Bhatnagar W, Agarwala S, et al (1997). 
Genitourinary tuberculo-sis in pediatric surgical practice. J 
Pediatr Surg; 32: 1283-1286. 
6. De Jong Z, Pontonnier F, Plante P, et al (1988). The frequency 
of Chlamydia tra-chomatis in acute epididymitis. Br J Urol; 62: 
76-78. 
7. Holmes KK, Berger RE, Alexander ER (1979). Acute 
epididymitis: Etiology and therapy. Andrology; 3: 309-316. 
8. Horner PJ (2001). European guideline for the management of 
epididymo-orchitis and syndromic management of acute 
scrotal swelling. Int J STD and AIDS; 12 (Suppl 3): 88-93. 
9. Johnson WD Jr, Johnson CW, Lowe FC (2002). Tuberculosis 
and parasitic diseases of the genitourinary system. In: Walsh 
P.C., Retik A.B., Vaughan D.E. Jr, Wein A.J. et al editors. 
Campbell’s Urology 8th edition. Philadelphia, Saunders;; pp 
743-795. 
10. Kaver I, Matzkin H, Braf ZF (1990). Epididymo-orchitis: a 
retrospective study of 121 patients. J Fam Prac; 30 (5): 548-552. 
11. Madeb R, Marshall J, Nativ O, et al (2005). Epididymal 
tuberculosis: case report and review of the literature. Urology; 
65 (4): 798. 
12. Melekos MD, Asbach HW (1987). Epididymitis: Aspects 
concerning etiology and treatment. J Urol; 138: 83-86. 
13. Mittemeyer BT, Lennox KW, Borski AA (1966). Epididymitis: 
a review of 610 cases. J Urol; 95: 390-392. 
14. Oleg B, Shulyak A (2012). Acute Epididymo-Orchitis: Staging 
and Treatment. Central European Journal of Urology 65.3 139–
143. PMC. Web. 26 Dec. 2017. 
15. Reeve HR, Weinerth JL, Peterson LJ (1974). Tuberculosis of 
epididymis and testicle presenting as hydrocele. Urology 1974; 
4: 329-331. 
16. Tanagho EA and Kane CJ (2008). Specific Infections of the 
genitourinary tract. In: Tanagho EA, McAninch J.W. Smith’s 
General Urology, 17th Edition, MC Graw Hill Medical, pp. 219-
221. 
Ngày nhận bài báo: 25/12/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/01/2018 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018