Vận dụng thuyết kiến tạo trong giảng dạy kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

Tài liệu Vận dụng thuyết kiến tạo trong giảng dạy kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin: 22 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đề tài về vận dụng thuyết kiến tạo vào trong giảng dạy kỹ năng nghe nói, đặc biệt là kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin ở Việt Nam vẫn còn rất mới mẻ, tuy nhiên, tại Trung Quốc đã có một số bài báo liên quan đến vấn đề này như “Phương pháp giảng dạy nghe nói qua công nghệ thông tin (CNTT) trên cơ sở lý luận kiến tạo” của Thành Lệ (盛丽). Trong bài viết, tác giả đã nêu ra một vài phương pháp giảng dạy kỹ năng nghe nói như xây dựng ngữ cảnh, tăng cường tương tác với sinh viên (盛丽, 2015, tr.198). Trần Kiên Lâm (陈坚林, 2011, tr.36) đã đưa ra mô hình dạy học theo quan điểm kiến tạo như lấy sinh viên làm trung tâm, giảng viên là người hướng NGUYỄN THỊ BẢO NGÂN* *Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội,  baongan0413@gmail.com Ngày nhận bài: 01/11/2018; ngày sửa chữa: 30/3/2019; ngày duyệt đăng: 30/5/2019 VẬN DỤNG THUYẾT KIẾN TẠO TRONG GIẢNG DẠY KỸ N...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 577 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng thuyết kiến tạo trong giảng dạy kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đề tài về vận dụng thuyết kiến tạo vào trong giảng dạy kỹ năng nghe nói, đặc biệt là kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin ở Việt Nam vẫn còn rất mới mẻ, tuy nhiên, tại Trung Quốc đã có một số bài báo liên quan đến vấn đề này như “Phương pháp giảng dạy nghe nói qua công nghệ thông tin (CNTT) trên cơ sở lý luận kiến tạo” của Thành Lệ (盛丽). Trong bài viết, tác giả đã nêu ra một vài phương pháp giảng dạy kỹ năng nghe nói như xây dựng ngữ cảnh, tăng cường tương tác với sinh viên (盛丽, 2015, tr.198). Trần Kiên Lâm (陈坚林, 2011, tr.36) đã đưa ra mô hình dạy học theo quan điểm kiến tạo như lấy sinh viên làm trung tâm, giảng viên là người hướng NGUYỄN THỊ BẢO NGÂN* *Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội,  baongan0413@gmail.com Ngày nhận bài: 01/11/2018; ngày sửa chữa: 30/3/2019; ngày duyệt đăng: 30/5/2019 VẬN DỤNG THUYẾT KIẾN TẠO TRONG GIẢNG DẠY KỸ NĂNG NGHE NÓI TIẾNG TRUNG QUỐC DƯỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TÓM TẮT Cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, môi trường dạy và học cũng ngày càng thay đổi. Công nghệ thông tin cung cấp cho người học môi trường học tập thực tế và sinh động. Nếu như người học biết sử dụng nguồn dữ liệu dồi dào trên mạng Internet, những ứng dụng có sẵn trên máy tính hay điện thoại, họ có thể cải thiện kỹ năng nghe nói của mình. Bài viết này dựa theo thuyết kiến tạo, tập trung nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị về phương pháp giảng dạy, nhằm nâng cao chất lượng dạy học kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc trong thời đại công nghệ. Từ khóa: công nghệ thông tin, giảng dạy, kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc, thuyết kiến tạo dẫn, tổ chức, giúp đỡ, hỗ trợ sinh viên; xây dựng ngữ cảnh, tích cực tương tác, tăng cường các cuộc thảo luận, hội thoại nhằm nâng cao kỹ năng biểu đạt, phát huy tính chủ động, tích cực của sinh viên. Tại Việt Nam, Trương Thu Hường (2016) cũng đề cao vai trò của thuyết kiến tạo trong việc dạy học các bài phong cách chức năng tiếng Việt. Có thể thấy, việc vận dụng thuyết kiến tạo nhằm nâng cao chất lượng học tập của sinh viên đang rất được nhà nghiên cứu quan tâm. Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu về việc vận dụng thuyết kiến tạo để nâng cao chất lượng giảng dạy học kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của CNTT. Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, bài viết gồm có bốn nội dung chính, bao gồm: Phần thứ 23KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v nhất, giới thiệu về thuyết kiến tạo. Phần thứ hai, nêu ra một vài lợi ích khi đưa công nghệ thông tin vào trong giảng dạy. Phần thứ ba, áp dụng thuyết kiến tạo trong giảng dạy kỹ năng nghe nói dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. Phần thứ tư, tác giả đưa ra một vài kiến nghị về phương pháp giảng dạy. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho giảng viên và sinh viên trong quá trình rèn luyện nâng cao kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc. 2. GIỚI THIỆU VỀ THUYẾT KIẾN TẠO Thuyết kiến tạo được hình thành và phát triển từ thuyết hành vi và thuyết tri nhận. Nội dung nghiên cứu chủ yếu của thuyết kiến tạo đó là “ý nghĩa của việc học” và “phương pháp học”. Người đầu tiên nghiên cứu và phát triển thuyết kiến tạo một cách rõ ràng và áp dụng vào việc dạy học là Jean Will Fritz Piaget. Ông cho rằng: “Con người chỉ có thể hiểu một cách rõ ràng những gì mà họ tự xây dựng lên cho mình”, do đó cần chú trọng nhiều vào quá trình học hơn nội dung học (皮亚杰、英 海尔德, 1980, tr.132). Piaget đã nghiên cứu và xây dựng thuyết kiến tạo từ quá trình nhận thức của trẻ em, ông cho rằng “Phát triển nhận thức của cá nhân và quá trình học tập có quan hệ mật thiết với nhau” (皮亚杰、英海尔德,1980,tr.147). Do đó, áp dụng thuyết kiến tạo vào trong giảng dạy có thể thấy được quy luật của quá trình nhận thức. Chủ nghĩa kiến tạo cho rằng kiến thức không phải được đón nhận do giảng viên truyền đạt lại, mà do sinh viên trong môi trường và văn hóa nhất định, “mượn” hình thức học tập đón nhận kiến thức dưới sự giúp đỡ của người khác (bao gồm cả giảng viên và bạn học), sử dụng nguồn tài liệu học tập cần thiết, thông qua phương thức ý nghĩa kiến tạo mà có được (陈坚林, 2011, tr.33). Do tri thức được xây dựng từ điều kiện môi trường văn hóa xã hội, dưới sự giao lưu, trao đổi hợp tác giữa con người với con người, hình thành nên ý nghĩa kiến tạo, do đó, thuyết kiến tạo đã nêu ra 4 yếu tố chính tác động đến việc học tập của con người, đó là “môi trường”, “hợp tác”, “ trao đổi”, “ý nghĩa kiến tạo”. (1) “môi trường”: môi trường học tập là yếu tố cần thiết và quan trọng trong quá trình xây dựng lên những kiến thức mới. (2) “hợp tác”: quá trình hợp tác rất quan trọng và được duy trì trong suốt quá trình học tập. Sinh viên cùng nhau học tập; cùng nhau tìm và lựa chọn tài liệu, cùng nhau hoàn thiện nhiệm vụ được giao... (3) “trao đổi”: trong quá trình hợp tác chúng ta không thể không giao lưu, trao đổi, thảo luận những ý kiến khác nhau để đưa ra một kết luận chung của cả nhóm. Qua việc trao đổi các ý tưởng, các thành viên sẽ luyện cách tư duy, suy nghĩ để có những ý tưởng mới độc đáo, vượt trội. (4) “ý nghĩa kiến tạo”: ý nghĩa kiến tạo nghĩa là mối quan hệ giữa quy luật, tính chất của sự vật với các sự vật đã tồn tại khác. Trong quá trình học tập, để giúp sinh viên xây dựng ý nghĩa kiến tạo, cần phải giúp họ hiểu rõ mối qua hệ giữa quy luật, tính chất sự vật với các sự vật đã tồn tại khác. Nói một cách khác, sinh viên nhận được bao nhiêu kiến thức không phụ thuộc vào khả năng nhớ những nội dung giảng viên giảng dạy mà phụ thuộc vào khả năng xây dựng kiến thức của bản thân dựa theo những kinh nghiệm, kiến thức có sẵn. 3. LỢI ÍCH CỦA ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG GIẢNG DẠY Theo kinh nghiệm hơn 10 năm được học và dạy dưới sự hỗ trợ của CNTT, dưới đây tôi xin nêu ra một vài lợi ích của ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy tiếng Trung. 3.1. Cung cấp những hình ảnh, âm thanh sinh động và nguồn dữ liệu khổng lồ Trong quá trình giảng dạy tiếng Trung Quốc, ngoài việc sử dụng hợp lý và hiệu quả sách giáo khoa, giảng viên còn phải tích cực tìm hiểu thêm các nguồn dữ liệu khác phục vụ cho nội dung bài giảng, đặc biệt là những chương trình mà giới trẻ yêu thích, các bài báo, tạp chí... Trên thực tế với những bài giảng có nội dung, kiến thức khó, trừu tượng, đòi hỏi phải có hình ảnh trực quan sinh động và chính xác thì việc khai thác các tư liệu, hình ảnh, video trên mạng internet là một ưu thế rất lớn. Chúng ta có thể tùy theo nội dung từng 24 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY bài học để lựa chọn những hình ảnh, bài viết, vid- eo khác nhau để kích thích thị giác và thính giác của sinh viên, tăng cường khả năng tư duy sáng tạo, phát huy hết khả năng thông minh của não bộ, giúp cho sinh viên nhớ nhanh và lâu hơn, từ đó phát huy kỹ năng quan sát và tưởng tượng phong phú của sinh viên, khi liên tưởng càng sinh động, ấn tượng thì sinh viên sẽ ghi nhớ càng tốt, nâng cao hiệu quả học tập cho sinh viên. So với phương pháp truyền thống, mạng Internet có thể cung cấp cho sinh viên kho dữ liệu đồ sộ, kết hợp với những phần mềm có sẵn trên mạng sẽ đem đến cho sinh viên môi trường học tập tốt hơn mà phương pháp truyền thống không thể mang lại. 3.2. Cung cấp một môi trường học tập có tính tương tác cao Có thể thấy, đưa CNTT vào trong giảng dạy kỹ năng nghe nói trong tiếng Trung Quốc đã tạo ra một biến đổi cả về “chất” lẫn về “lượng” trong hiệu quả giảng dạy, ngoài ra còn cung cấp cho sinh viên môi trường tương tác toàn diện hơn giữa giảng viên với sinh viên. Chính môi trường tương tác cao này đã đem đến cho sinh viên một môi trường học tập sống động, tạo cảm giác hứng thú và đạt hiệu quả cao trong quá trình học tập qua đa giác quan. 3.3. Tiết kiệm nhiều thời gian Một trong những đặc điểm của dạy học đó là tìm mọi phương pháp để đưa sinh viên đến với nội dung giảng dạy bằng con đường nhanh nhất, dễ dàng nhất đồng thời giúp sinh viên đón nhận nó và sử dụng nó thành thạo nhất. Với việc ứng dụng CNTT, trong một tiết dạy, khối lượng kiến thức có thể được truyền đạt tới sinh viên nhiều hơn. Không còn phải dành nhiều thời gian để đọc chép hay ghi bảng, thay vào đó giảng viên có thể lấy thêm nhiều ví dụ minh họa, dẫn dắt sinh viên tiếp cận với các kiến thức phong phú hơn. Tóm lại, nếu như chúng ta sử dụng CNTT một cách khéo léo và hợp lý để hỗ trợ giảng dạy kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc sẽ đem đến cho sinh viên một môi trường học tập mới lạ, đem đến cho sinh viên những hình ảnh, âm thanh chân thực nhất của thứ ngôn ngữ họ đang học, giúp họ phát huy kỹ năng nghe nói; đồng thời cũng phát huy vai trò chủ đạo của giảng viên, phát huy tính sáng tạo và chủ thể của sinh viên, giúp cho sinh viên ngoài việc tiếp thu được những kiến thức cơ bản, còn có cơ hội luyện tập thực tiễn nhiều hơn. Qua những thước phim thực tế, sinh viên sẽ được bồi dưỡng những kỹ năng biểu đạt và tư duy của người Trung Quốc, để từ đó xây dựng nền tảng cơ bản về kỹ năng biểu đạt. 4. ÁP DỤNG THUYẾT KIẾN TẠO TRONG GIẢNG DẠY KỸ NĂNG NGHE NÓI TIẾNG TRUNG QUỐC DƯỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Thuyết kiến tạo là nền tảng, là cơ sở dẫn đường tiến hành cải cách phương pháp rèn luyện kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như nhu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, lớp học đa phương tiện và mạng Internet có thể được coi là hai trợ thủ đắc lực của giảng viên. Dựa theo thuyết kiến tạo chúng ta có thể thấy, phương pháp giáo dục trong thời đại 4.0 giúp cho sinh viên có một môi trường học thoải mái, thực tế và không còn quá bị giới hạn về không gian, thời gian. Dưới đây là hai ưu thế chính của ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy kỹ năng nghe nói. Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức học tập. Theo thuyết kiến tạo (皮亚杰、英海尔德, 1980, tr.57), “môi trường”, “hợp tác”, “trao đổi”, “ý nghĩa kiến tạo” là 4 yếu tố chính tác động đến việc học tập của con người. Như chúng ta đã biết, CNTT cung cấp cho sinh viên môi trường học tập thực tế và sinh động cùng với nguồn dữ liệu trực tuyến dồi dào phong phú và không bị hạn chế về không gian, thời gian. Chính bởi những tính ưu việt đó cùng với tâm thế có thể tiếp cận kiến thức một cách chủ động và sáng tạo, giúp cho việc học càng trở nên hiệu quả hơn. Dưới sự hỗ trợ của CNTT, sinh viên tùy theo nhu cầu của bản thân có 25KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v thể tự lựa chọn cho mình những hình thức học tập khác nhau, lựa chọn thời gian học tập hợp lý, chủ động tìm kiếm tài liệu trau dồi kiến thức. Ví dụ, để hỗ trợ rèn luyện kỹ năng nghe nói, sinh viên có thể tự tải những ứng dụng miễn phí về máy tính hay điện thoại của mình, qua đó sinh viên có thể tự chỉnh sửa những âm sai, hay có thể luyện đọc theo video để luyện ngữ âm, ngữ điệu... Hay để các em cũng có thể trao đổi, giao lưu với các bạn Trung Quốc qua mạng Internet nhằm nâng cao kỹ năng nghe nói của các em. Trên lớp học đa phương tiện, giảng viên cung cấp cho sinh viên những hình ảnh chân thực, những video sinh động để rèn luyện kỹ năng nghe nói. Ngoài ra, tùy theo trình độ của bản thân, sinh viên có thể tự vào các trang web Trung Quốc tìm những nội dung mình yêu thích xem. CNTT cung cấp những hình ảnh, âm thanh sinh động nhằm kích thích cảm quan của sinh viên, có thể nói đây là một trong những công cụ đắc lực để kích thích hoạt động trí tuệ cho sinh viên. Sinh viên có thể tùy theo khả năng, trình độ, sở thích để lựa chọn cho mình những nội dung, phương pháp học phù hợp với bản thân nhất. Có thể thấy, nếu như giảng viên và sinh viên biết cách sử dụng hợp lý và khai thác những lợi ích của CNTT, nhất định có thể nâng cao kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc của sinh viên. Thứ hai, số hóa môi trường học tập. Thuyết kiến tạo (皮亚杰、英海尔德, 1980, tr.63) cho rằng, để có kết quả học tập tốt, chúng ta cần phải cung cấp cho sinh viên môi trường học tập thực tế, sinh viên cần phải có sự hợp tác, giao lưu với nhau, đặc biệt cần phải có tính chủ động cao. Để cung cấp cho sinh viên môi trường học tập thực tế, ứng dụng kỹ thuật số vào dạy và học là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Những hình ảnh, âm thanh giúp sinh viên đón nhận bài giảng nhanh nhất và nhớ lâu hơn. Những ứng dụng trên điện thoại hay máy tính được giảng viên lựa chọn để hỗ trợ cho việc rèn luyện kỹ năng nghe nói với mục tiêu nâng cao năng lực học tập cho sinh viên. Với phương châm xu hướng đưa số hóa và công nghệ vào trong giảng đường, không những giúp cho sinh viên đón nhận kiến thức thông qua các giác quan, tăng khả năng ghi nhớ, nâng cao hiệu quả học tập mà còn tăng cường hứng thú học tập, tích cực tham gia các hoạt động trên lớp và ngoại khóa, tự tin hơn. 5. MỘT VÀI KIẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 5.1. Tổ chức học tập theo nhóm Một trong những phương pháp đổi mới hiện được các trường Đại học đánh giá mang lại hiệu quả cao là phương pháp học tập theo nhóm. Để tổ chức học tập nhóm một cách hiệu quả chúng ta cần phải chú ý đến những yếu tố sau. Thứ nhất, việc học tập theo nhóm giúp cho sinh viên không chỉ có trách nhiệm với bản thân mà còn phải có trách nhiệm với tất cả các thành viên trong nhóm. Mục tiêu, thành công của cả nhóm cũng là mục tiêu, thành công của các thành viên. Để nhóm có hoạt động hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức và tất nhiên nhóm trưởng không thể thiếu trong mỗi nhóm. Thứ hai, về vấn đề trao đổi trong nhóm, sinh viên có thể trao đổi thảo luận ngay trên lớp hoặc sử dụng ứng dụng Zalo, Facebook... hỗ trợ, giúp các em thuận tiện hơn cả về thời gian và đi lại. Thứ ba, trong quá trình hợp tác, sinh viên cần phải biết lựa chọn và phát huy những ưu điểm, thế mạnh của từng thành viên trong nhóm, đồng thời cùng giúp nhau sửa đổi, hạn chế những nhược điểm của nhau. Thứ tư, qua học tập nhóm sinh viên cần phải tự rèn luyện kỹ năng giao tiếp, thảo luận, trao đổi thông tin để tăng cường tính hợp tác và học hỏi lẫn nhau. Thứ năm, các thành viên trong nhóm cần phải tự kiểm điểm bản thân để đảm bảo đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong quá trình học tập nhóm, giảng viên cũng cần phải theo sát, đánh giá, nhận xét các em, giúp các em phát hiện và sửa ngay những vấn đề bản thân còn hạn chế, ngoài ra cũng không thể thiếu những lời động viên, khích lệ của giảng viên để các em tự tin và có thêm động lực. Cuối cùng, tùy theo nội dung bài học mà giảng viên lựa chọn những hình thức học nhóm khác nhau, ví dụ như điều tra, thảo luận, diễn kịch.... 26 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Khi lập nhóm, giảng viên cần điều chỉnh sao cho có sự cân bằng trình độ, giới tính, năng lực học tập giữa sinh viên các nhóm với nhau, nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập giữa các thành viên trong nhóm. Việc học tập theo nhóm sẽ giúp sinh viên tăng tính tự giác, tăng tính tự chủ học tập, tăng khả năng tương tác, trao đổi, giao tiếp giữa sinh viên với sinh viên, sinh viên với giảng viên. Nhờ có sự hỗ trợ của CNTT, sinh viên có thể tìm kiếm trao đổi tin tức nhanh hơn; chỉ cần vài bước tìm kiếm, copy và paste, các thành viên trong nhóm lập tức đón nhận được các thông tin chính xác; chỉ cần một nút ấn, những ý kiến của các thành viên sẽ được chuyển đi và lưu lại mãi mãi trong nhóm. Đặc biệt nhờ có sự giúp đỡ của CNTT mà các thành viên trao đổi với nhau nhiều hơn, hiểu nhau hơn, gắn kết nhau hơn và tất nhiên sẽ cùng nhau hỗ trợ giúp nhau cùng tiến bộ. 5.2. Vận dụng công nghệ thông tin tạo môi trường học tập thú vị cho sinh viên Môi trường học tập có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy và học. Môi trường học tập tốt sẽ giúp cho sinh viên tăng hứng thú học tập. Cùng với tính tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp sinh viên học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo. Ngoài việc khai thác sự lý thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của sinh viên còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của sinh viên. Trong đó một trong những phương pháp được sinh viên yêu thích đón nhận nhất đó là cùng hòa nhập với thời đại công nghệ. Nhờ có phòng học đa phương tiện giúp cho giảng viên truyền tải đến sinh viên những nội dung sinh động hơn, không cần phải quá lo lắng để giải thích những từ ngữ mang tính trừu tượng dưới sự hỗ trợ của những bức ảnh, video, âm thanh... Qua đó tạo môi trường học tập trực quan sinh động cho sinh viên, giúp cho không khí lớp học sôi nổi, thoải mái, tự nhiên. Thông qua những video trình chiếu, giảng viên động viên, khích lệ sinh viên nói và làm theo, phát huy tính tích cực học tập, nâng cao hứng thú trong giờ học, đồng thời cũng tăng sự tập trung của sinh viên. Hiện nay, với sự phát triển của CNTT, phần mềm PowerPoint có vai trò vô cùng quan trọng và đã đem lại những kết quả tích cực. Sử dụng phần mềm PowerPoint đang là xu hướng phổ biến trong giáo dục nhờ sự tiện ích của nó. Điểm nổi bật của Powerpoint là tạo ra các bài giảng có âm thanh, hình ảnh, chuyển động và tương tác... phù hợp với mọi đối tượng sinh viên. Ứng dụng PowerPoint trong việc giảng dạy kỹ năng nghe nói nhằm giúp sinh viên vượt qua những trở ngại trên, Đồng thời cũng giúp các em ấn tượng với bài giảng hơn và nhớ lâu hơn, cũng như tạo một môi trường học ngoại ngữ tích cực, hứng thú, khơi gợi sự sáng tạo và tích cực, chủ động cho sinh viên, giúp các em vận dụng ngôn ngữ tốt hơn trong tình huống thực tế. Ví dụ, khi dạy phát âm, chúng ta ngoài phát những bài hát luyện phát âm giúp các em cảm thấy học thoải mái hơn, chúng ta cũng có thể trình chiếu những video luyện phát âm qua khẩu hình miệng, qua đó các em sẽ nắm rõ vị trí của lưỡi ở đâu hay khẩu hình miệng như thế nào. Hay trên điện thoại có phần mềm ghi nhớ, các em có thể ghi vào đó những từ mới, cấu trúc câu, ngữ pháp các em vẫn chưa nắm vững vào đó, thỉnh thoảng lại mở ra xem, rất tiện lợi. Những phần mềm miễn phí có sẵn trên mạng, sinh viên có thể tải về bất cứ lúc nào để hỗ trợ cho việc học, ví dụ như những phần mềm thứ tự các nét chữ, phần mềm dịch thuật, phần mềm luyện phát âm... Ngoài ra, sinh viên cần chuyển từ phương pháp học thuộc, sang phương pháp vận dụng, rèn luyện thực tế, không chỉ học trong sách vở, qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua các chương trình giải trí, phim truyện, đài báo ... Ngoài ra, giảng viên cũng cần phải sử dụng một vài biện pháp khéo léo nhằm tăng hứng thú học tập của sinh viên, đặc biệt trong thời đại thông 27KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v tin ngày nay, chỉ một nháy chuột sinh viên có thể tự tìm kiếm cho mình rất nhiều thông tin. Cũng bởi quá nhiều thông tin từ nhiều nguồn khác nhau sẽ làm cho sinh viên hoang mang, do đó, giảng viên cần phải hướng dẫn sinh viên biết tự chắt lọc thông tin. Cuối cùng, khi thiết kế bài giảng, giảng viên nên xây dựng vài trò chơi dựa qua vài thủ thuật đơn giản có sẵn trên máy tính ví dụ như trò “đuổi hình bắt chữ” hay “hoàn thiện lời bài hát”... Đặc biệt, để tăng hứng thú học tập của bản thân, những lúc quá mệt mỏi, căng thẳng sinh viên không cần phải cố gắng tiếp tục hoàn thiện bài tập. Các em có thể mở máy tính hay điện thoại, lựa chọn những bài hát hay những chương trình tiếng Trung Quốc mà mình yêu thích, giúp giảm căng thẳng, thư giãn đầu óc, tinh thần thoải mái hơn. 5.3. Thay đổi phương pháp học tập Kỹ năng nghe nói là một trong những kỹ năng quan trọng trong việc học ngoại ngữ. Tuy nhiên, sinh viên thường cảm thấy thiếu tự tin trong giao tiếp, nhất là trong việc diễn đạt ngôn ngữ và trình bày ý tưởng bằng tiếng Trung Quốc. Do đó, trước tác động của Cách mạng Công nghiệp 4.0, việc thay đổi phương pháp học tập, áp dụng công nghệ hiện đại vào giáo dục ngày càng được chú trọng và phát triển. Thông qua mạng xã hội, chúng ta có thể kết nối được với cả thế giới. Chỉ với vài cái nháy chuột, sinh viên có thể tham gia diễn đàn online, tìm được người trò chuyện hàng ngày bằng tiếng Trung Quốc nhằm nâng cao khả năng nghe nói hay đăng ký một khóa học trực tuyến. Những mô hình học tập thông minh thông qua môi trường trực tuyến ngày nay ngày càng được phát triển mạnh mẽ. Sinh viên chỉ cần đăng ký thành viên qua các thiết bị có kết nối mạng Internet là có thể học tập ở bất kỳ đâu với bất cứ kỹ năng gì mà không cần phải sắp xếp thời gian lên lớp mỗi ngày hay phải di chuyển đến lớp học. Sinh viên có thể luyện nghe, luyện nói trên môi trường trực tuyến thông qua tương tác với giảng viên bằng các video trực quan, sinh động. Ngoài ra trò chuyện với bạn bè online không chỉ giúp sinh viên thư giãn sau mớ lý thuyết khô khan mà còn giúp họ thực hành thực tế nhất, cùng nhau trao đổi tiếng Trung Quốc nhằm nâng cao khẩu ngữ của sinh viên. Xem các chương trình giải trí mà sinh viên yêu thích cũng là một trong những phương pháp luyện kỹ năng nghe và tăng lượng từ vựng hiệu quả. Đối với những sinh viên có trình độ sơ hoặc trung cấp thì xem những video có thời lượng ngắn khoảng 3 phút sẽ khiến các em cảm thấy học tiếng Trung Quốc dễ dàng hơn và không có cảm giác buồn chán. Nếu như các em vẫn còn gặp vấn đề về kỹ năng nghe thì có thể bật phụ đề, vừa xem và đọc theo lời thoại của nhân vật. Xem phim hay các chương trình truyền hình cũng sẽ giúp sinh viên cải thiện được khả năng nói, tăng khả năng cảm thụ tiếng Trung Quốc. Có thể nói việc học sẽ trở nên đơn giản và hiệu quả khi sinh viên biết vận dụng những thiết bị và ứng dụng công nghệ có sẵn để nâng cao chất lượng học tập. 6. KẾT LUẬN Thuyết kiến tạo đã ra đời cách đây nhiều thập kỷ, nhưng những giá trị khoa học của lý thuyết này cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Những đóng góp của thuyết kiến tạo tạo ra những thay đổi quan trọng trong phương pháp rèn luyện kỹ năng nghe nói tiếng Trung Quốc trong thời đại công nghệ, giúp chúng ta có cách nhìn lại về quá trình dạy học, phương pháp dạy học, vị trí, công việc của giảng viên và sinh viên. Trong quá trình dạy học sử dụng phương pháp kiến tạo, sinh viên có thể vận dụng những kiến thức hoặc kinh nghiệm đã có từ trước để sắp xếp và xây dựng hình thành kiến thức mới vào hệ thống kiến thức đã có. Do đó, phương pháp dạy học kiến tạo trong thời đại 4.0 đòi hỏi giảng viên có kinh nghiệm nghề nghiệp nhất định, không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt, có khả năng ứng dụng linh hoạt CNTT vào các bước trong quy trình dạy học, phải xây dựng nên môi trường học tập thực tế, sinh động giúp sinh viên tự kiến tạo nên kiến thức của mình, như vậy thì phương pháp dạy học kiến tạo trong trong thời đại công nghệ mới phát huy được ưu thế vượt trội của nó, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy./. 28 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY APPLICATION OF CONSTRUCTIVISM THEORY IN MULTIMEDIA TEACHING OF CHINESE LISTENING AND SPEAKING SKILLS NGUYEN THI BAO NGAN Abstract: Since the 20th century, foreign learning theories have been distinguished from the psychological aspects, which can be roughly classified into four major factions: humanism theory, constructivism theory, behaviorism theory and cognitive theory. Today, in the promotion of educational innovation, the influence of constructivist learning theories is expanding worldwide. Many scholars believe that the constructivist learning theories are particularly suitable for the learning environment in multimedia teaching. It is regarded as one of the important theoretical foundations for guiding multimedia teaching. This paper first introduces constructivist learning theory briefly, and then analyzes its application in designing several teaching modules in Chinese multimedia teaching. Keywords: multimedia, teaching, Chinese listening and speaking skills, constructivist learning theory Received: 01/11/2019; Revised: 30/3/2019; Accepted: 30/5/2019 Tài liệu tham khảo: Trương Thu Hường (2016), “Vai trò của thuyết kiến tạo trong việc dạy học các bài phong cách chức năng tiếng Việt”, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 12, 141-143. 陈坚林 (2011), 计算机网络与外语教学整合研究, 博士学位论文, 上海外国语大学, 36 。 盛丽(2015), 建构主义理论下的多媒体视听说教学模态, 郑州航空工业管理学院学报(社会科学版), 第34卷第 5期, 197-199 。 黄华明(1998), 应用现代教育技术研究,辽宁人民出版社,沈阳。 皮亚杰、英海尔德(吴福元译)(1980),儿童心理学,商务印书馆,北京。

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvan_dung_thuyet_kien_tao_trong_giang_day_ky_nang_nghe_noi_tieng_trung_quoc_duoi_su_ho_tro_cua_cong_n.pdf
Tài liệu liên quan