Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
 T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ 
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ 
Môc lôc Trang 
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn 
học trung đại Việt Nam 15 
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông 
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21 
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ 
người Việt 27 
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39 
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45 
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai 
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51 
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57 
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ 
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63 
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc 
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69 
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73 
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại 
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái 
Nguyên hiện nay 79 
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường 
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85 
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử 
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91 
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho 
học sinh trung học phổ thông 97 
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện 
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105 
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên 
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học 
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111 
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng 
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117 
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123 
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên 
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129 
Journal of Science and Technology 
 183(07) 
 N¨m 2018 
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh 
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135 
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học 
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141 
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây 
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147 
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất 
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153 
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên 
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159 
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165 
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính 
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171 
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học 
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177 
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới, 
tỉnh Bắc Kạn 183 
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên 
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189 
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản 
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195 
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại 
học Thái Nguyên 201 
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ 
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207 
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213 
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219 
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may 
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227 
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên 
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233 
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả 
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239 
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 
 117
VẬN DỤNG PHONG CÁCH NÊU GƯƠNG THEO TƯ TƯỞNG 
HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC 
ĐỐI VỚI CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 
 Phạm Thị Huyền*, Vũ Thị Thủy 
 Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa tư tưởng đạo đức với những 
trải nghiệm thực tiễn trong suốt hành trình cứu nước, đọng lại ở lối sống, hành vi ứng xử của 
Người. Nội dung phong cách làm việc Hồ Chí Minh mang tính dân chủ, quần chúng, khoa học, 
nêu gương, nói đi đôi với làm. Trong đó, phong cách nêu gương được Hồ Chí Minh quán triệt 
trong ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối với công việc; quan trọng hơn, muốn nêu 
gương được nói phải đi đối với làm. Do đó, nghiên cứu, học tập và làm theo phong cách làm việc 
Hồ Chí Minh để xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt nhằm đáp 
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, là việc làm cần thiết, cấp bách, có ý nghĩa to lớn đối với sự 
nghiệp cách mạng của nước ta trong giai đoạn hiện nay. 
Từ khóa: Phong cách Hồ Chí Minh, phong cách làm việc, phong cách nêu gương, cán bộ, cán bộ 
chủ chốt cấp tỉnh. 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành về đạo đức 
còn nhiều hơn những điều Người nói và viết ra. 
Chính bản thân Người là một tấm gương về 
phong cách nêu gương, một hình ảnh mẫu mực 
về “người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung 
thành của nhân dân”. Tấm gương đạo đức của 
Hồ Chí Minh không chỉ có sức lôi cuốn, cảm 
hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc Việt Nam 
mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. 
Do đó, học tập và làm theo phong cách nêu 
gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô 
cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở 
nước ta hiện nay. Hơn nữa, chính điều này sẽ 
đặt ra yêu cầu đối với mỗi cán bộ, đảng viên 
phải luôn luôn tự tu dưỡng, rèn luyện để trở 
thành những người có phẩm chất chính trị, đạo 
đức, lối sống giản dị, trong sáng, luôn gắn bó 
mật thiết với nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân 
làm mục đích hoạt động của mình. 
NỘI DUNG 
Phong cách làm việc nêu gương theo tư 
tưởng Hồ Chí Minh 
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phương 
pháp nêu gương đạo đức, lấy gương người 
tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau là 
một trong những cách tốt nhất để xây dựng 
* Tel: 0982033005; Email: 
[email protected] 
Đảng, xây dựng con người mới xã hội chủ 
nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, để nêu gương, 
trước hết bản thân phải làm gương trong mọi 
công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường 
xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, 
chính, chí công, vô tư, nói đi đôi với làm. 
Trong đó, mỗi đảng viên, cán bộ cũng như 
mỗi người cần nắm vững và giải quyết tốt 
trên ba mối quan hệ chủ yếu: đối với mình, 
đối với người, đối với việc. Đối với mình 
phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo 
mà luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm 
điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở 
của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa 
mặt hằng ngày; đối với người, luôn giữ thái 
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, 
không dối trá, lừa lọc với thái độ khoan 
dung, độ lượng, trên tinh thần thương yêu 
đồng chí, đồng bào; đối với việc, dù trong 
hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ 
công vi thượng” (để việc công lên trước việc 
tư), đã phụ trách việc gì thì phải tận tâm, tận 
lực làm cho kỳ được, không sợ khó khăn, 
gian khổ, việc gì có lợi cho dân thì phải hết 
sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết 
sức tránh. 
Triết lý sâu xa trong suy nghĩ của Hồ Chí 
Minh là cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc 
đều là do công sức của nhân dân, nên cán bộ 
phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Khi cán 
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 
 118
bộ, nhất là cán bộ đứng đầu gương mẫu trong 
cuộc sống, có tinh thần trách nhiệm cao trong 
công việc, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy 
sinh để phục vụ cho nhân dân, vì sự ấm no, 
hạnh phúc của dân đó là cơ sở dẫn đến sự 
thành công. Ngược lại, nếu cán bộ quan liêu, 
coi thường nhân dân, xa nhân dân thì tất yếu 
dẫn đến thất bại. Người khẳng định: “Nhân 
dân ta rất tốt. Nếu chúng ta gương mẫu và 
biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn 
đến đâu cũng nhất định làm được” [1, tr.223]. 
Theo đó, trong gia đình, ông bà cha mẹ là tấm 
gương cho các con cháu, anh chị là tấm 
gương đối với các em; trong nhà trường các 
thầy, cô giáo, cán bộ nhân viên là tấm gương 
cho học trò; trong cơ quan và các tổ chức 
đoàn thể thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho 
cấp dưới, người này có thể nêu gương cho 
người khác. Trong cuộc sống hằng ngày, 
người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có 
trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con 
người có đời tư trong sáng mà còn phải là tấm 
gương để nhân dân nhìn vào đó làm những 
điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật 
xấu. Trong phong trào xây dựng đời sống 
mới, xã hội mới. 
Để phát huy vai trò của phương pháp nêu 
gương về đạo đức trong giáo dục đạo đức 
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát 
động phong trào “Người tốt, việc tốt” nhằm 
giúp cho mỗi người tự nhận thấy mình có thể 
noi theo gương người tốt và làm được việc tốt 
để trở thành người có ích cho cộng đồng và 
qua đó, tạo ra một phong trào thi đua sôi nổi, 
rộng khắp trong toàn xã hội. Người chỉ ra 
rằng, mỗi người tốt là một bông hoa đẹp thì 
cả dân tộc ta sẽ là một vườn hoa đẹp. 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng 
việc xây dựng làng, xã, huyện, tỉnh kiểu mẫu; 
tấm gương “người tốt, việc tốt”. Từ những 
nhân tố mới làm gương mẫu nhân rộng ra, 
dấy lên phong trào thi đua học tập và làm theo, 
tạo nên khí thế cách mạng hào hùng trong sản 
xuất, công tác rộng khắp trong cả nước. Ngay 
từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Chủ 
tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm rèn luyện cho 
cán bộ, đảng viên không những về mặt phẩm 
chất, đạo đức mà còn rèn luyện về phong cách 
làm việc. Trong tác phẩm “Đường Kách 
mệnh” (năm 1927) và “Sửa đổi lối làm việc” 
(tháng 10/1947), Người đã yêu cầu cán bộ, 
đảng viên phải là người có phẩm chất đạo đức 
cách mạng, vừa phải có năng lực mới đáp ứng 
được yêu cầu, nhiệm vụ; trong đó phong cách 
làm việc nêu gương là một nhân tố quan trọng 
cấu thành nên phẩm chất và năng lực của cán 
bộ, đảng viên. Với quan điểm, “xây phải đi đôi 
với chống”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi 
xướng và kiên trì cuộc đấu tranh chống chủ 
nghĩa cá nhân trong mọi thời điểm cách mạng. 
Người chỉ rõ: “muốn xây dựng thắng lợi chủ 
nghĩa xã hội, thì trước hết phải chiến thắng kẻ 
thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá 
nhân” [1, tr.468]. Thực tế chủ nghĩa cá nhân là 
căn bệnh chính, đẻ ra trăm thứ bệnh và nhiều 
thói hư tật xấu trong cán bộ, đảng viên. Nguy 
hiểm hơn, những người mắc căn bệnh này luôn 
đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, 
của dân tộc, từ đó mà sinh ra “tự tư, tự lợi”, 
dùng của công làm việc tư. Do đó, mỗi cán bộ 
phải thực hành tốt phương pháp nêu gương, 
luôn học tập để nâng cao đạo đức cách mạng, 
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, 
trình độ lý luận để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ 
mới đặt ra. 
Như vậy, học tập và làm theo phong cách nêu 
gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa 
vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách 
mạng ở nước ta hiện nay. Điều này giúp cán 
bộ, đảng viên phải luôn luôn tự tu dưỡng, rèn 
luyện để trở thành những người có phẩm chất 
chính trị, đạo đức, lối sống giản dị, trong sáng, 
luôn gắn bó mặt thiết với nhân dân, lấy lợi ích 
của nhân dân làm mục đích hoạt động của 
mình. Học tập và làm theo phong cách nêu 
gương của Người để không ngừng củng cố 
lòng tin của nhân dân với cán bộ, đảng viên, 
cũng như củng cố mối quan hệ giữa Đảng với 
nhân dân. Đây thực sự là nhiệm vụ trước mắt 
và lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng ở 
nước ta hiện nay. 
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của 
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm 
gương sáng ngời về phong cách nêu gương. 
Người kêu gọi toàn dân tiết kiệm, bản thân 
Người nghiêm túc thực hiện, từ việc ăn, mặc 
đến sinh hoạt, làm việc hằng ngày Người đều 
gương mẫu. Khi nước nhà vừa giành được 
độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói đang 
hoành hành, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân 
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 
 119
diệt “giặc đói” bằng hành động cụ thể, mỗi 
bữa bớt một nắm gạo, mười ngày nhịn ăn một 
bữa để lấy số gạo tiết kiệm đó cứu những 
người bị đói và chính Người đã làm gương, 
nghiêm túc thực hiện một cách triệt để mặc 
dù phải làm việc nhiều, sức khỏe giảm sút vì 
vừa trải qua một trận ốm nặng Bộ đội, cán 
bộ ăn cơm độn ngô, khoai sắn, Người cũng 
yêu cầu nấu cơm độn đúng như mọi người. 
Đồ dùng sinh hoạt cá nhân cũng rất giản dị và 
rất tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường 
căn dặn mọi người phải thực hành tiết kiệm, 
tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền bạc; phải 
tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không xa xỉ, 
hoang phí, không bừa bãi, phô trương hình 
thức. Trên thực tế, Người đã sống cả cuộc đời 
thanh bạch từ ăn, ở đến phương tiện sử dụng 
phục vụ công việc hằng ngày. 
Là Chủ tịch nước nhưng Hồ Chí Minh cũng 
chỉ có vài bộ quần áo đơn sơ, giản dị, bữa ăn 
của vị nguyên thủ quốc gia như bữa ăn của 
mọi nhà: Bát canh, quả cà, con cá hoặc vài lát 
thịt kho. Phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh 
có nhiều nét đã trở thành huyền thoại không 
những đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối 
với cả thế giới. Đó là sự giản dị, thanh cao 
trong sinh hoạt hằng ngày; là cách sống 
chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, 
rất quý trọng thời gian, không có ham muốn 
danh lợi riêng cho mình; đó là tình thương 
yêu con người hòa quyện với tình yêu thiên 
nhiên tạo nên tinh thần lạc quan của người 
chiến sĩ cách mạng. Lối sống đó của Người 
xuất phát từ một triết lý nhân sinh: Lấy khiêm 
tốn, giản dị làm nền; lấy chừng mực đức độ 
làm chuẩn mực; lấy trong sạch thanh cao làm 
nguồn vui; lấy gắn bó con người, thiên nhiên 
làm niềm say mê vô tận; lấy hạnh phúc của 
nhân dân làm mục tiêu phấn đấu và là hạnh 
phúc của mình. Tư tưởng và tấm gương đạo 
đức, phong cách nêu gương của Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đã làm cho Người trở thành một 
con người toàn vẹn với một cuộc sống mẫu 
mực tự nhiên trong suốt cả cuộc đời. Chính vì 
vậy, tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong 
cách và sự nghiệp của Người đã trở thành bất 
tử trong lòng dân tộc, mãi mãi là tấm gương 
cho mọi người chúng ta học tập và phấn đấu 
làm theo. 
Vận dụng phong cách nêu gương Hồ Chí 
Minh trong xây dựng phong cách làm việc 
đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 
Những vấn đề đặt ra trong xây dựng phong 
cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở 
nước ta hiện nay 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định 
nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và 
dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là những người 
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải 
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng 
thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho 
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính 
sách cho đúng" [2, tr.269]. 
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "chủ 
chốt" được hiểu là "quan trọng nhất, có tác 
dụng làm nòng cốt" [3, tr.168]. 
Từ những quan điểm nêu trên, có thể hiểu cán 
bộ chủ chốt được hiểu là người có chức vụ, 
nắm giữ các vị trí quan trọng, có ảnh hưởng 
lớn đến hoạt động của tổ chức bộ máy, làm 
nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ 
máy của một cấp nhất định; người được giao 
đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh 
đạo, quản lý, điều hành bộ máy, có vai trò 
định hướng, điều khiển hoạt động của bộ máy 
thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; 
chịu trách nhiệm trước tập thể, trước cấp trên 
về lĩnh vực công tác được giao. 
Trong công cuộc đổi mới đất nước, phong 
cách làm việc đội ngũ cán bộ chủ chốt đã góp 
phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế - 
xã hội, văn hóa và sự ổn định chính trị của đất 
nước. Tuy nhiên, trong quá trình công tác, đội 
ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta còn bộc lộ 
những hạn chế, yếu kém cần khắc phục. 
Thứ nhất, phong cách làm việc của một bộ phận 
cán bộ chủ chốt còn thiếu dân chủ, áp đặt ý kiến 
chủ quan đối với tập thể 
Trong quá trình làm việc, có một số ít cán bộ 
chủ chốt còn tồn tại biểu hiện dân chủ hình 
thức, không tôn trọng tính đảng, tính nguyên 
tắc trong công việc. Ngụy biện cho sự sai trái 
của mình bằng các nguyên tắc sinh hoạt đảng. 
Một số cán bộ chủ chốt đã biến nguyên tắc 
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách thành “cá 
nhân phụ trách, tập thể chịu trách nhiệm”, khi 
có công thì nhận về cá nhân, khi có lỗi lại đổ 
cho tập thể. Thậm chí, có những kế hoạch, 
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 
 120
chương trình, quyết định đưa ra chưa phù hợp 
với điều kiện đặc thù của ngành, địa phương 
nên khó triển khai, thực hiện. Công tác tổ 
chức học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ 
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của 
Đảng và Nhà nước còn đơn điệu nên hiệu 
quả, chất lượng học tập nghị quyết không cao. 
Ở một số địa phương, có những vấn đề bức 
xúc, nổi cộm của người dân mà chưa được 
xem xét, giải quyết thấu đáo. Đó là nguyên 
nhân dẫn đến tình trạng khiếu kiện vượt cấp, 
khiếu kiện kéo dài, trong đó chủ yếu là những 
vấn đề liên quan đến đất đai. Điều đó, không 
chỉ ảnh hưởng đến cá nhân cán bộ chủ chốt 
mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển 
của từng đơn vị, ngành, địa phương, vùng nói 
riêng và đất nước nói chung. Vì vậy, Hội nghị 
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng 
đã thừa nhận: “Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, 
người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm 
chính trị cao; việc cụ thể hóa các nghị quyết, 
chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung 
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành chương 
trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa 
phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo 
thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên; 
một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong 
đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, 
gương mẫu” [4, tr.22]. 
Thứ hai, cán bộ chủ chốt còn tồn tại tình 
trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch 
Có thế nhận định rằng tệ quan liêu ở nước 
ta đang diễn ra rất phức tạp, nghiêm trọng 
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 
Bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức 
chính trị - xã hội còn cồng kềnh, nhiều tầng 
nấc, đầu mối, hoạt động thiếu hiệu quả; 
bệnh hội họp, giấy tờ văn bản, thủ tục hành 
chính còn rườm rà; thái độ, phong cách làm 
việc của đội ngũ cán bộ, công chức còn có 
biểu hiện hách dịch, sách nhiễu nhân dân, 
v.v.. Đi liền với đó là nạn cửa quyền, mệnh 
lệnh, tham ô, lãng phí vẫn còn tồn tại ở một 
bộ phận cán bộ. Tác hại của tệ quan liêu là 
rất lớn; nó làm cho tổ chức đảng và cơ quan 
nhà nước không nắm được tình hình thực tế, 
không hiểu được tâm tư, nguyện vọng, đời 
sống của nhân dân, không phát huy được trí 
tuệ, năng lực của nhân dân, dẫn đến những 
chủ trương, chính sách không phù hợp, 
thậm chí sai lầm, làm tổn thương nghiêm 
trọng đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, 
Nhà nước và nhân dân. Trên thực tế, vẫn 
còn một bộ phận cán bộ chủ chốt nặng tư 
tưởng cá nhân chủ nghĩa, thiếu tinh thần 
trách nhiệm, trình độ tổ chức, quản lý hạn 
chế. Một số cán bộ khi có chức, có quyền 
coi thường nhân dân, cho mình là người 
“đứng trên”, “ban ơn”, chứ không phải là 
những công bộc của nhân dân. Họ ngại khó 
khăn, gian khổ, thích ngồi bàn giấy hơn là 
đi sâu sát cơ sở, sát thực tiễn sản xuất và 
đời sống của nhân dân; thích thổi phồng 
thành tích, “lừa trên, dối dưới”, vi phạm 
quyền làm chủ của nhân dân. Đúng như 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì những 
người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp 
trên đến cấp dưới không sát công việc thực 
tế... Đối với công việc thì trọng hình thức 
mà không xem xét khắp mọi mặt, không 
vào sâu vấn đề “Thế là bệnh quan liêu đã 
ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, 
lãng phí” [5, tr.357]. 
Trong việc thực hiện nhiệm vụ, một số cán 
bộ chủ chốt ở một số nơi còn tỏ thái độ 
hách dịch, nhũng nhiễu, vòi vĩnh. Hiện 
tượng đùn đẩy trách nhiệm, né tránh công 
việc, năng lực công tác hạn chế vẫn còn 
hiện diện trên thực tế. Thậm chí, ở một số 
đơn vị, có biểu hiện của mất đoàn kết nội 
bộ, kèn cựa địa vị, ganh tị, bè phái, lợi ích 
nhóm dẫn đến hiệu quả làm việc không cao. 
Ở một khía cạnh khác, vẫn còn một số ít 
cán bộ chủ chốt chưa sâu sát, chưa thấu 
hiểu, chưa thật sự quan tâm đến đời sống 
vật chất và tinh thần của quần chúng. 
Thứ ba, phong cách làm việc của cán bộ 
chủ chốt còn hiện tượng nói không đi đôi 
với làm, ý thức chấp hành kỷ luật chưa cao 
Một bộ phận cán bộ chủ chốt chưa thật sự 
mẫu mực trong lối sống, phong cách làm 
việc còn hạn chế. Cá biệt còn có một bộ 
phận nhỏ cán bộ chủ chốt còn thiếu tính tiên 
phong, gương mẫu trong việc chấp hành 
chủ trương, đường lối của Đảng, chính 
sách, pháp luật của Nhà nước, quy định, nội 
quy, quy chế của cơ quan, đơn vị; chưa 
gương mẫu trong đấu tranh tự phê bình và 
phê bình. Công tác đấu tranh, phòng chống 
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong Đảng, 
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 
 121
chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị 
- xã hội hiệu quả chưa cao, chưa chủ động 
phát hiện vi phạm, tiêu cực. 
Trước sự giao thoa cơ chế của kinh tế thị 
trường, tác động từ sự khủng hoảng của chủ 
nghĩa xã hội trên thế giới và các mặt tiêu cực 
của quá trình toàn cầu hóa, dẫn đến sự phai 
nhạt, dao động lý tưởng đã xuất hiện không 
ít trong đội ngũ cán bộ công quyền, tư tưởng 
trọng tiền đã làm xuống cấp đạo đức xã hội, 
coi tiền là thước đo giá trị nhân phẩm con 
người, chạy theo các giá trị vật chất tầm 
thường, đồng tiền trở thành quan hệ ứng xử 
phổ biến trong xã hội, từ đó thỏa mãn với 
những nhận thức giản đơn, dễ dàng thỏa 
hiệp, không kiên quyết phê phán, đấu tranh 
với những quan điểm sai trái, lơ là, mất cảnh 
giác trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa 
bình”. Vì vậy, có những đồng chí bằng lòng, 
tự mãn với mình, không tích cực học tập 
vươn lên, không có ý thức khắc phục khó 
khăn trong học tập, trong công tác. Năng lực 
hoạt động thực tiễn, khả năng dự báo tình 
hình và khả năng thích ứng, chủ động xử lý 
tình huống từ một số ít cán bộ chủ chốt còn 
hạn chế. Có những cán bộ nói rất hay nhưng 
việc tổ chức thực hiện chưa đạt hiệu quả, lý 
luận rất giỏi nhưng khi triển khai công việc 
trên thực tế lại lúng túng, bị động, có khi còn 
trông chờ vào sự giúp đỡ của cấp trên. 
Nội dung vận dụng phong cách nêu gương 
Hồ Chí Minh đối với cán bộ chủ chốt hiện nay 
Vấn đề học tập tác phong của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đã được đặt ra từ Đại hội II của Đảng Lao 
động Việt Nam. Với phương châm nhìn thẳng 
vào sự thật, nói rõ sự thật, không nể nang, 
không né tránh, Đại hội XI của Đảng đã 
nghiêm túc chỉ ra những hạn chế là: "Tình 
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo 
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ 
cán bộ, đảng viên, ... làm giảm lòng tin của 
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự 
ổn định, phát triển của đất nước" [6, tr.173]. 
Trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn, Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng 
một lần nữa thẳng thắn nhìn nhận những khuyết 
điểm còn tồn tại: "Đời sống của một bộ phận 
nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều 
khó khăn Tình trạng suy thoái về tư tưởng 
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận 
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, 
tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi" [7, 
tr.15]. Trong tình hình mới, Đảng Cộng sản 
Việt Nam chính thức nêu ra trong Chỉ thị 05-
CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 là “Đẩy 
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, 
phong cách Hồ Chí Minh” [8], và từ đó đến 
nay, công tác xây dựng phong cách, trong đó có 
phong cách làm việc cho cán bộ chủ chốt. Qua 
nghiên cứu phong cách làm việc nêu gương Hồ 
Chí Minh và thực trạng phong cách làm việc 
của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay, 
việc xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ 
cán bộ này đứng trước những vấn đề cấp bách, 
cần sớm được giải quyết. Thông qua đó, phát 
huy những ưu điểm đã có, khắc phục những hạn 
chế đang tồn tại, từng bước xây dựng phong 
cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt theo 
phong cách làm việc của Hồ Chí Minh. Cụ thể: 
Thứ nhất, cần nâng cao trình độ nhận thức của 
mỗi tổ chức, cá nhân về phong cách làm việc 
của cán bộ chủ chốt; Thứ hai, khắc phục những 
rào cản trong tư duy, chính sách, biện pháp và 
điều kiện đảm bảo của các cấp ủy đảng, chính 
quyền, đoàn thể trong xây dựng phong cách làm 
việc cho cán bộ chủ chốt; Thứ ba, thúc đẩy sự 
nỗ lực phấn đấu rèn luyện của bản thân cán bộ 
chủ chốt trong xây dựng phong cách làm việc; 
Thứ tư, hoàn thiện chính sách đãi ngộ, cơ chế 
kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cấp ủy 
đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân trong 
xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ chủ 
chốt. Theo đó, cần thiết phải: Xây dựng phong 
cách làm việc cho đội ngũ cán bộ chủ chốt gắn 
với việc thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05 
của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm 
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí 
Minh”; xây dựng phong cách làm việc cho đội 
ngũ cán bộ chủ chốt phải đặt dưới sự lãnh đạo 
của Đảng Cộng sản, sự tham gia tích cực, chủ 
động của các tổ chức, đoàn thể và ý thức tự 
giác của mỗi cán bộ chủ chốt; gắn với nâng 
cao chất lượng công tác cán bộ và gắn với đổi 
mới về cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá cán 
bộ, đặc biệt chú trọng phát huy vai trò của 
nhân dân. Với ý nghĩa và yêu cầu đó, mỗi cán 
bộ chủ chốt cần: Nhận thức được sự cần thiết 
phải tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo 
đức, phong cách Hồ Chí Minh; vận dụng linh 
hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp 
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 
 122
trong thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo 
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; 
mỗi cán bộ chủ chốt phải tích cực, tự giác học 
tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nâng cao 
năng lực tư duy theo tư tưởng, đạo đức, phong 
cách Hồ Chí Minh; thực hiện tốt công tác tự 
phê bình và phê bình về quá trình tu dưỡng, 
rèn luyện và thực hành phong cách làm việc 
Hồ Chí Minh. 
KẾT LUẬN 
Phương pháp, phong cách làm việc của cán bộ 
chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến tác phong công 
tác của đồng nghiệp, cấp dưới và nhân dân. 
Người cán bộ chủ chốt có phong cách làm việc 
tốt sẽ tạo nên một “phong trào” mang tính xã 
hội cao, một “điểm tựa”, một “đầu tàu”, một 
tấm gương để mọi người học tập và làm theo. 
Do đó, sự gương mẫu, thống nhất giữa lý luận 
với thực tiễn, nói đi đôi với làm là một vấn đề 
quan trọng trong phong cách làm việc của cán 
bộ nói chung và cán bộ chủ chốt nói riêng. Do 
vậy, xây dựng phong cách làm việc của đội 
ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay là vấn 
đề có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu 
quả cải cách nền hành chính công. Phong cách 
làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt càng 
quan trọng bao nhiêu thì sự yếu kém, lạc hậu, 
bất cập của đội ngũ này càng gây hậu quả tiêu 
cực bấy nhiêu. Thực tế đã và đang khách quan 
hóa yêu cầu đổi mới, xây dựng phong cách làm 
việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt theo phong 
cách làm việc Hồ Chí Minh. Nó đòi hỏi phải 
đáp ứng được những yêu cầu mới mà thời đại, 
bối cảnh của đất nước trong xu thế toàn cầu 
hóa, cạnh tranh, hội nhập với những tác động 
đa chiều từ nền kinh tế thị trường. Đó là những 
yêu cầu mới về nhân cách, trí tuệ, đạo đức, 
phong cách làm việc dân chủ, khoa học, sáng 
tạo, hiện đại mà những cán bộ chủ chốt cấp 
tỉnh phải hướng đến để trở thành “người đày 
tớ” thật trung thành, tận tụy của nhân dân. Đây 
chính là sự cụ thể hóa phong cách làm việc nêu 
gương trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.14, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.5, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội 
3. Hoàng Phê (Chủ biên) (1997), Từ điển Tiếng Việt, 
Trung tâm từ điển học, Nxb Đà Nẵng. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Hội nghị lần thứ tư 
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung 
ương Đảng, Hà Nội. 
5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.7, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
8. 
ban/id/1734.html 
SUMMARY 
MANIPULATE EXEMPLARY STYLE ACCORDING TO THE PRESIDENT 
HO CHI MINH’S THOUGHT IN BUILDING WORK STYLE 
FOR KEY CADERS AT PRESENT PERIOD 
 Pham Thi Huyen*, Vu Thi Thuy 
 TNU - University of Education 
The Ho Chi Minh’s Style is a combination of a close, harmonious moral thinking with real 
experiences during the journey of salvation, living in his way of life, behavior. The content of Ho 
Chi Minh's style in working is democratic, popular, scientific, exemplary, speaking suitable with 
doing. In which, Ho Chi Minh’s exemplary style is thoroughly understood in three relationships 
for ourselves, for people, for work. More importantly, wanting to be exemplify, is that what you 
say must be suitable with what you do. Therefore, studying, following and working as Ho Chi 
Minh’s style to build the working style for cadres, especially the key ones to meet the requirements 
of innovation is a necessary and urgent task which has great significance for the revolutionary 
career of our country in the present period. 
Keywords: Ho Chi Minh’s style, working style, exemplary style, cadres, provincial key staff. 
Ngày nhận bài: 20/3/2018; Ngày phản biện: 03/4/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
* Tel: 0982033005; Email: 
[email protected] 
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ 
 SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS 
Content Page 
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3 
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9 
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal 
sentiments in the Vietnam medieval literature 15 
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional 
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21 
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27 
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33 
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39 
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45 
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period 
1954 – 1975 and some lessons learned 51 
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village 
convention in Thai Nguyen province 57 
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and 
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63 
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968 
general offensive 69 
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73 
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular 
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79 
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85 
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from 
2013 to 2017 91 
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics 
to high school 97 
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai 
district, Thai Nguyen province 105 
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in 
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of 
Medicine and Pharmacy 111 
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s 
thought in building work style for key caders at present period 117 
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123 
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai 
Nguyen Medical College and some solutions 129 
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135 
Journal of Science and Technology 
 183(07) 
 N¨m 2018 
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at 
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141 
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative 
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147 
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of 
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153 
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development 
for students at Thai Nguyen University of Technology 159 
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching 
and learning 165 
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education 
for students at the center for defense and security education in the current phase 171 
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors 
through intensive reading 177 
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac 
Kan province 183 
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on 
exploitative abuses 189 
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators 
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195 
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource 
Center of Thai Nguyen University 201 
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207 
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213 
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219 
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong 
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227 
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical 
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233 
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the 
business efficiency of Vietnam banks 239