Vấn đề sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX qua nghiên cứu tư liệu địa bạ năm minh mạng thứ 17 (1836)

Tài liệu Vấn đề sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX qua nghiên cứu tư liệu địa bạ năm minh mạng thứ 17 (1836): An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 23 VẤN ĐỀ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở HUYỆN HÀ CHÂU, TỈNH HÀ TIÊN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX QUA NGHIÊN CỨU TƯ LIỆU ĐỊA BẠ NĂM MINH MẠNG THỨ 17 (1836) Bùi Hoàng Tân1 1Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận bài: 06/02/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 08/05/2018 Ngày chấp nhận đăng: 06/2018 Title: Towards the land ownership in Ha Chau district, Ha Tien province in the first half of the nineteenth century through cadastral registers of Minh Mang dynasty 17 (1836) Keywords: Ha Chau district, Ha Tien province, the land ownership, cadastral register, Minh Mang dynasty Từ khóa: Huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên, sở hữu ruộng đất, địa bạ, Minh Mạng ABSTRACT Ha Chau district, Ha Tien province in the first half of the 19th century was one of the new lands to be explored. Although the land area is quite large, but not much for the cultivation. Basically, the ownership of land ...

pdf14 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 161 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX qua nghiên cứu tư liệu địa bạ năm minh mạng thứ 17 (1836), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 23 VẤN ĐỀ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở HUYỆN HÀ CHÂU, TỈNH HÀ TIÊN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX QUA NGHIÊN CỨU TƯ LIỆU ĐỊA BẠ NĂM MINH MẠNG THỨ 17 (1836) Bùi Hoàng Tân1 1Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận bài: 06/02/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 08/05/2018 Ngày chấp nhận đăng: 06/2018 Title: Towards the land ownership in Ha Chau district, Ha Tien province in the first half of the nineteenth century through cadastral registers of Minh Mang dynasty 17 (1836) Keywords: Ha Chau district, Ha Tien province, the land ownership, cadastral register, Minh Mang dynasty Từ khóa: Huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên, sở hữu ruộng đất, địa bạ, Minh Mạng ABSTRACT Ha Chau district, Ha Tien province in the first half of the 19th century was one of the new lands to be explored. Although the land area is quite large, but not much for the cultivation. Basically, the ownership of land in Ha Chau district is small and fragmented, not similar to other areas in the South of Vietnam. Basing on the data shown in the cadastral register of Ha Chau district, the author has analyzed and highlighted some basic issues of land ownership in Ha Chau. In addition, this paper would give a recommendation for further studying on the national sovereignty in the Southwest frontier in the relationship between Dai Nam and Chan Lap in the nineteenth century TÓM TẮT Huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên ở nửa đầu thế kỉ XIX là một trong những vùng đất mới được khai phá, tuy có diện tích lãnh thổ tương đối lớn nhưng diện tích canh tác thực sự chưa nhiều. Về cơ bản, sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu với quy mô nhỏ lẻ và manh mún, chưa đạt mức độ cực đại về tập trung ruộng đất như các khu vực khác ở Nam bộ. Thông qua khai thác và nghiên cứu nguồn tư liệu địa bạ huyện Hà Châu, tác giả đã phân tích và làm nổi bật một số vấn đề cơ bản về sở hữu ruộng đất nơi đây. Ngoài ra, bài viết còn có ý nghĩa trong việc gợi mở nghiên cứu mới về xác lập chủ quyền lãnh thổ ở vùng biên giới Tây Nam trong mối quan hệ giữa Đại Nam và Chân Lạp ở thế kỉ XIX. 1. GIỚI THIỆU Sở hữu ruộng đất là một trong những nội dung quan trọng của nghiên cứu lịch sử Việt Nam, bởi nó chứa đựng những biến động to lớn và sâu sắc về sự phát triển lãnh thổ và văn hóa dân tộc. Đối với huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên ở nửa đầu thế kỷ XIX có nhiều điểm khác biệt trong sở hữu ruộng đất do những đặc trưng về điều kiện tự nhiên và tình hình chính trị - xã hội. Do vậy, nghiên cứu về vấn đề sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX không chỉ nhằm làm rõ những đặc điểm trong sở hữu ruộng đất ở một địa phương Nam bộ mà còn góp phần làm sáng tỏ những điểm nổi bật của quá trình quản lý và thực thi chủ quyền lãnh thổ của triều Nguyễn ở vùng đất biên giới trọng yếu này. An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 24 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử kết hợp phương pháp logic, tác giả đã tiếp cận, đối chiếu và phân tích nguồn sử liệu triều Nguyễn và tư liệu địa bạ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I – Hà Nội, đặc biệt là 44 đơn vị địa bạ huyện Hà Châu[1] được lập vào năm Minh Mạng thứ 17. Thông qua đó, từng bước cung cấp các luận cứ khoa học để đem lại kết quả nghiên cứu học thuật mang tính khách quan nhất. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Khái quát về huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX Trước thế kỷ XIX, vùng đất Hà Châu thuộc địa phận của vương quốc Phù Nam, sau khi vương quốc Phù Nam sụp đổ đã bị người Chân Lạp tiếp quản. Song, họ chưa thực sự làm chủ và tổ chức hoạt động canh tác ở nơi này và cơ bản đây vẫn là vùng đất hoang. Đến khoảng đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu và dòng họ Mạc đến định cư và mở mang đất Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau và Phú Quốc, bao gồm cả phần đất đai thuộc Hà Châu sau này. Năm 1708, Mạc Cửu đã quy phục chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ đây toàn bộ đất đai ở trấn Hà Tiên, bao gồm cả phần đất Hà Châu chính thức thuộc chủ quyền của Việt Nam dưới thời chúa Nguyễn. Cuối thế kỷ XVIII, dưới sự tác động từ tình hình bất ổn về chính trị trong nước, đặc biệt là cuộc nội chiến Tây Sơn với chính quyền chúa Nguyễn thì Hà Châu thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Tây Sơn. Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh đã khôi phục lại triều Nguyễn, khi đó đã “lấy Mạc Tử Thiêm làm cai Cai cơ trấn thủ trấn Hà Tiên, lại ở trấn ấy. Sai gọi nhân dân về ở, tha bớt cho thuế đinh điền” (Trịnh Hoài Đức, 1998, tr. 135). Như vậy, dưới thời vua Gia Long, đất Hà Châu vẫn thuộc quyền quản lý của trấn Hà Tiên. Năm 1825, vua Minh Mạng cho bỏ cấp đạo và đặt đơn vị hành chính huyện Hà Tiên quản lý hai tổng Hà Thanh và tổng Hà Nhuận “bắt đầu đặt huyện Hà Tiên, lĩnh 2 tổng (Hà Thanh và Hà Nhuận)” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, Đại Nam thực lục [ĐNTL], t. 2, tr. 462). Năm 1826 cho sáp nhập huyện Hà Tiên vào phủ An Biên. Năm 1832, đổi tên phủ An Biên thành phủ Khai Biên đồng thời đổi tên huyện Hà Tiên thành huyện Hà Châu và giao cho phủ Khai Biên quản lý “tỉnh Hà Tiên: thống trị phủ Khai Biên và 3 huyện Hà Châu, Long Xuyên, Kiên Giang. Phủ Khai Biên nguyên là phủ An Biên đổi ra; huyện Hà Châu nguyên là huyện Hà Tiên đổi ra” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNTL, t. 3, tr. 394). Địa danh Hà Châu được ghi nhận lầu đầu tiên trong sử sách triều Nguyễn năm 1832. Căn cứ vào ghi chép của Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC), địa giới của huyện Hà Châu ở nửa đầu thế kỷ XIX “huyện Hà Châu: đông tây cách nhau 27 dặm, nam bắc cách nhau 42 dặm, phía đông đến địa giới huyện Hà Âm tỉnh An Giang 25 dặm, phía tây giáp biển 2 dặm, phía nam giáp địa giới huyện Kiên Giang 22 dặm, phía bắc đến địa giới Cao Miên 20 dặm” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNNTC, t. 5, tr. 8). Kết hợp với ghi chép trong 44 tập địa bạ huyện Hà Châu, có thể xác định địa hạt quản lý của huyện Hà Châu gồm 5 tổng: Hà Nhuận, Hà Thanh, Nhuận Đức, Thanh Di và Phú Quốc, trong đó Phú Quốc là tổng hải đảo duy nhất. Năm 1867, khi Pháp chiếm 3 tỉnh Nam Kỳ, đồng nghĩa đất đai ở Hà Châu nằm trong tay thực dân Pháp. Căn cứ vào cách xác định “tứ cận giáp giới” kết hợp với bản đồ [2], địa phận huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX về cơ bản tương ứng với địa giới của thị xã Hà Tiên, huyện Kiên Lương và huyện đảo Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang ngày nay; phần đất các tổng Hà Nhuận và Nhuận Đức tương ứng với địa giới các huyện Banteay Meas, Kampong Trach của tỉnh Kampot, huyện Kiri Vong của tỉnh Takéo và thành phố Keb thuộc lãnh thổ Campuchia hiện nay. 3.2 Sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX 3.2.1 Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước * Về phân loại An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 25 Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước ở huyện Hà Châu bao gồm quan điền, quan thổ và công điền, công thổ. Trong đó: Quan điền, quan thổ là loại ruộng đất thuộc sở hữu công do nhà nước trực tiếp quản lý. Quan điền do các cơ binh đồn trú khai khẩn, chủ yếu là quan sơn điền. Quan thổ chủ yếu là đất trồng tiêu của tư nhân bị bỏ hoang. Công điền, công thổ là ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước được phân giao cho xã, thôn canh tác và nộp thuế theo hạng ruộng đất công đã quy định. Công điền được ghi trong địa bạ là bản thôn đồng canh, bản xã đồng canh. Công thổ chủ yếu là đất dân cư “những dân cư, chỗ nào là đất hoang và gò đống, trong sổ không ghi người nào trước đã nộp thuế thì liệt làm hạng đất dân cư, miễn thuế; nếu có chủ khai nhận, thì cho dân đánh giá, nộp thuế theo hạng đất công” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNTL, t. 4, tr. 983). * Về diện tích Qua thống kê 44 địa bạ huyện Hà Châu cho thấy, diện tích ruộng đất công ở huyện Hà Châu là 158 mẫu chiếm 21,48% tổng diện tích ruộng đất của huyện. Bảng 1. Thống kê diện tích ruộng đất công Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc [3] TT Tổng Tổng diện tích Ruộng đất công Tỉ lệ % 1 Hà Nhuận 48.7. 2.6 2.7. 1.5 5,56 2 Hà Thanh 255.2. 0.1 109.5. 7.1 42,93 3 Nhuận Đức 88.3.14.0 15.2. 2.7 17,22 4 Phú Quốc 17.3.11.3 11.3. 4.5 65,21 5 Thanh Di 329.0. 1.4 19.8. 9.5 6,04 Tổng cộng 738.6.14.4 158.6.10.3 21,48 Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Theo đó, tổng Hà Thanh có diện tích ruộng đất công nhiều nhất huyện với hơn 109 mẫu. Tổng Hà Thanh có vị trí tiếp giáp với sông Giang Thành nối liền đầm Đông Hồ và nhiều kênh rạch thông ra biển nên việc khai khẩn đất đai của quân đồn trú dễ dàng hơn. Mặt khác, đây còn nơi đặt lỵ sở của tỉnh Hà Tiên “trước kia tỉnh lỵ Hà Tiên ở xã Mỹ Đức huyện Hà Châu, năm Minh Mệnh thứ 9 dời đến thủ sở Giang Thành, năm thứ 14 lại dời về chỗ cũ” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNNTC, t. 5, tr. 12). Do vậy, dân cư tập trung sinh sống đông đúc ở khu vực trung tâm, căn cứ theo nguyên tắc lập công thổ thì đất dân cư ở huyện Hà Châu được xác định là công thổ. Vì thế, tổng Hà Thanh có diện tích ruộng đất công lớn hơn so với các tổng còn lại của huyện Hà Châu. Trong khi đó, tổng Hà Nhuận có diện tích ruộng đất công nhỏ nhất huyện Hà Châu với khoảng 2 mẫu. Địa phận của tổng Hà Nhuận ở nửa đầu thế kỷ XIX tương ứng với các phần đất thuộc lãnh thổ Campuchia tiếp giáp với biên giới Việt Nam tại thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang ngày nay, do điều kiện tự nhiên ở khu vực này còn nhiều khó khăn nên việc thực hiện chính sách khai hoang của nhà nước còn nhiều hạn chế. Mặt khác, tình hình xã hội nơi đây luôn xáo trộn, mãi đến năm 1836 phần lớn các xã thôn mới được tái lập và đo đạc ruộng đất. Vì thế, quá trình khai hoang cũng gần như phải thực hiện lại từ đầu. Riêng tổng Phú Quốc, diện tích ruộng đất công, chủ yếu là công thổ chiếm tỉ lệ lớn so với tổng diện tích ruộng đất của tổng. Phú Quốc là hải đảo nên thuận lợi cho đánh bắt thủy hải sản và là nơi diễn ra các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa. Chính vì thế, phần lớn đất đai của tổng Phú Quốc là đất dân cư được xếp vào hạng công thổ. Cơ cấu diện tích giữa quan điền, quan thổ và công điền, công thổ, như sau: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 26 Bảng 2. So sánh diện tích quan điền, quan thổ và công điền, công thổ ở huyện Hà Châu Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc TT Tổng Quan điền, quan thổ Tỉ lệ % Công điền, công thổ Tỉ lệ % 1 Hà Nhuận - 0 2.7. 1.5 5,56 2 Hà Thanh 74.9. 6.9 29,37 34.6. 0.2 13,56 3 Nhuận Đức 15.2. 2.7 17,22 - 0 4 Phú Quốc - 0 11.3. 4.5 65,21 5 Thanh Di 18.0. 1.9 5,48 1.8. 7.6 0,56 Tổng cộng 108.1.11.5 14,64 50.4.13.8 6,84 Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Theo đó, huyện Hà Châu chỉ có 3 tổng Hà Thanh, Nhuận Đức và Thanh Di có diện tích quan điền, quan thổ nhưng chiếm tỉ lệ nhỏ so với tổng diện tích các loại ruộng đất của huyện. Trong đó, tổng Hà Thanh có diện tích quan điền, quan thổ khá lớn và chiếm tỉ lệ cao (69,28%) so với tổng diện tích quan điền, quan thổ ở huyện Hà Châu. Mặc dù tổng Thanh Di có diện tích quan điền, quan thổ rất nhỏ và chỉ chiếm tỉ lệ 5,48% so với tổng diện tích ruộng đất của tổng (329.0.1.4/18.0.1.9) nhưng nhìn tổng thể thì tổng Nhuận Đức mới thực sự có diện tích quan điền, quan thổ nhỏ nhất và chỉ chiếm tỉ lệ 14,07% trong tổng diện tích quan điền, quan thổ ở huyện Hà Châu. So sánh với các loại ruộng đất khác ở huyện Hà Châu thì quan điền, quan thổ có diện tích là 108.1.11.5, chỉ hơn 1/10 tổng diện tích ruộng đất ở huyện. Qua đó phản ánh tình hình khai khẩn ruộng đất ở huyện Hà Châu do các cơ binh thực hiện chưa đạt tỉ lệ cao do điều kiện tự nhiên nơi đây còn nhiều khó khăn và hạn chế về nguồn nhân lực. Chủ yếu là khai phá đất đai xung quanh lỵ sở Hà Tiên và khu vực đóng quân “Trần Trấn chọn được vùng thôn Bình An, xã Mỹ Đức (thuộc huyện Hà Châu, gần đồn Chu Nham), đều có đất bỏ không, có thể xây cất được, bèn liệu địa thế rộng, hẹp, xin vát lính cơ Hà Tiên (nguyên là dân Phiên vốn quen thủy thổ) 50 người giữ đồn Chu Nham, 100 người đến chỗ gần đó cày cấy ở đồn điền Bình An: hễ khi việc làm ruộng đã rồi, thì lại luyện tập thao diễn. Lại chiêu mộ dân nghèo ở hai huyện Kiên Giang, Hà Châu, cấp cho trâu cày, đồ làm ruộng và thóc giống để khai khẩn. Vua y cho” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNTL, t. 4, tr. 562). Do vậy, diện tích ruộng đất thuộc loại quan điền, quan thổ ghi nhận trong địa bạ huyện Hà Châu là khá ít so với các loại ruộng đất khác. Về cơ bản, quan điền có diện tích và tỉ lệ lớn hơn so với quan thổ, tỉ lệ phân phối giữa quan điền và quan thổ không đều ở các tổng và các xã, thôn. Trong đó, diện tích quan điền chỉ có ở 2 tổng Hà Thanh và Thanh Di, diện tích quan thổ tuy nhỏ hơn nhưng được phân phối ở 3 tổng Hà Thanh, Nhuận Đức và Thanh Di. Diện tích quan điền giữa 2 tổng Hà Thanh và Thanh Di chênh lệch hơn 51 mẫu, trong khi đó diện tích quan thổ ở các tổng không vượt quá 10 mẫu. Tuy nhiên trong phân phối diện tích quan thổ ở các xã, thôn có sự chênh lệch khá lớn. Ví dụ, quan thổ ở thôn Tư Nghĩa thuộc tổng Thanh Di chỉ có 2 sào, trong khi đó thôn Hòa Luật thuộc tổng Nhuận Đức có đến 15 mẫu quan thổ. Sự chênh lệch về diện tích phụ thuộc vào vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ở các khu vực đất đai và sự tác động bởi các điều kiện xã hội ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX. Xét về diện tích công điền và công thổ thì diện tích công thổ tuy có lớn hơn so với công điền nhưng vẫn chiếm tỉ lệ rất nhỏ (6,84%) so với tổng diện tích ruộng đất huyện Hà Châu. Trong đó, tổng Hà Thanh là nơi có diện tích công thổ nhiều nhất huyện, do tổng này có vị trí tiếp giáp với sông Giang Thành nối liền đầm Đông Hồ và nhiều kênh rạch thông ra biển nên việc khai khẩn đất đai dễ dàng hơn. Và đây còn là nơi đặt lỵ sở của tỉnh An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 27 Hà Tiên “trước kia tỉnh lỵ Hà Tiên ở xã Mỹ Đức huyện Hà Châu, năm Minh Mệnh thứ 9 dời đến thủ sở Giang Thành, năm thứ 14 lại dời về chỗ cũ, năm thứ 15 xây bảo Trấn Biên, nhân lấy làm tỉnh lỵ. Lỵ sở phủ An Biên ở địa phận thôn Mỹ Đức huyện Hà Châu, là huyện kiêm lý của phủ, dựng từ năm Minh Mệnh thứ 15” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNNTC, t. 5, tr. 12). Do vậy, dân cư tập trung sinh sống ở khu vực trung tâm khá đông đúc nhằm thuận tiện cho hoạt động kinh tế. Căn cứ vào nguyên tắc lập công thổ thì tổng Hà Thanh có diện tích và tỉ lệ diện tích công thổ cao hơn so với các tổng còn lại. Tổng Thanh Di có diện tích ruộng đất lớn nhưng diện tích công thổ ít nhất huyện. Do dân cư còn thưa thớt và nơi đây không thuận tiện cho dân cư tập trung buôn bán, phần lớn đất đai chủ yếu để canh tác nông nghiệp. Riêng tổng Phú Quốc, do điều kiện địa hình hải đảo thuận lợi cho đánh bắt thủy hải sản và là nơi diễn ra các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa nên phần lớn đất đai thuộc hạng công thổ. Công điền, công thổ có diện tích ít nhất trong tổng diện tích ruộng đất canh tác ở huyện Hà Châu. Qua đó cho thấy, việc thực hiện chính sách công điền ở huyện Hà Châu còn gặp nhiều trở ngại vì: - Phần lớn ruộng đất ở Hà Châu đã được khai khẩn và canh tác từ đầu thế kỷ XVIII dưới thời Mạc Cửu và dân cư nơi đây chủ yếu là các nhóm nhập cư người Hoa từ Trung Hoa, nhóm người Việt từ miền Trung, nhóm người Khmer từ Chân Lạp, thông thường họ di cư theo hộ gia đình. Do vậy, họ chỉ khai hoang đất đai sẵn có và mặc nhiên thuộc quyền sở hữu của họ. Do vậy, khi triều Nguyễn đo đạc lại ruộng đất đã gặp khó khăn trong việc thực hiện chính sách công điền, công thổ ở Hà Châu. - Đất đai ở huyện Hà Châu nhiều nhưng dân cư còn thưa thớt và không ổn định bởi đây là “một địa phương bị khói lửa tàn hại, dân chúng điêu đứng quá nhiều từ năm 1771” (Phạm Văn Sơn, 1961, q. IV, tr. 255) và đặc biệt là sự quấy nhiễu thường xuyên của quân Xiêm “năm 1833, thủy quân Xiêm La với 100 chiến thuyền từ biển xông vào Hà Tiên” (Phạm Văn Sơn, 1961, q. IV, tr. 365). Vì thế, tình hình xã hội luôn xáo trộn, mãi đến năm 1836 thì phần lớn là các xã thôn mới được tái lập. - Xã hội ở Hà Châu với thành phần chủ yếu là thương nhân và tạo nên xã hội mang tính chất không điển hình. Do vậy, nông nghiệp không phải là kinh tế trọng tâm thay vào đó là kinh tế thương nghiệp mang tính chủ đạo, đặc biệt thương mại biển. Trải qua nhiều biến động chính trị nên thương nghiệp ở đây đã bị suy tàn nhưng về cơ bản nơi đây vẫn có ưu thế mạnh so với nông nghiệp. Vì thế, so với tình hình chung ở Nam Kỳ thì công điền, công thổ tỉnh Hà Tiên có tỉ lệ cao 77,10% (Nguyễn Đình Đầu, 1992, tr. 150). Tỉ lệ này do chịu ảnh hưởng bởi diện tích công điền ở huyện Kiên Giang và Long Xuyên (Nguyễn Đình Đầu, 1994, tr. 228, 257). Vì đây là những vùng đất chưa được khai phá nhiều và đất đai tương đối màu mỡ hơn so với huyện Hà Châu nên nhà nước đã hỗ trợ nhân dân cùng khai phá nên chính sách công điền ở hai huyện này dễ dàng thực hiện hơn. Trong khi đó, ở huyện Hà Châu vốn có nền tảng phát triển kinh tế hàng hóa nên đã kích thích năng suất lao động, tính năng động của con người và xã hội vùng đất này. Việc thực hiện chính sách công điền, công thổ đối với ruộng đất ở huyện Hà Châu xuất phát ý muốn chủ quan của nhà nước. Điều này rất khó để thích ứng với tình hình địa phương và trở thành chính sách lạc hậu trong quản lý ruộng đất của triều Nguyễn trong bối cảnh mới. Những yếu tố trên đã góp phần lý giải vì sao diện tích công điền, công thổ ở huyện Hà Châu rất nhỏ so với diện tích ruộng đất canh tác của huyện. Về cơ bản, diện tích ruộng đất công ở huyện Hà Châu được ghi nhận trong địa bạ là số liệu cuộc tổng kiểm kê ruộng đất năm 1836. Công cuộc khai phá đất hoang đối với nơi đây vẫn tiếp diễn trong những năm sau đó. Do vậy, diện tích ruộng đất công sẽ có sự gia tăng, đặc biệt từ năm 1850 đến năm 1866, triều đình đã có nhiều biện pháp tích cực thúc đẩy quá trình khai phá và định cư ở vùng này “năm 1866, nha Đinh điền An Giang, An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 28 Hà Tiên cho biết đã chiêu mộ được 1646 người, khai khẩn được 8333 mẫu đất và thành lập được 149 thôn ấp” (Lê Văn Năm, 2000, tr. 56). * Về quy mô sở hữu Quy mô sở hữu ruộng đất công được xem xét ở từng loại hình ruộng đất. Trong đó: Quan điền là 75 mẫu chia làm 3 sở giao cho các cơ binh canh tác ở 2 thôn Bình An thuộc tổng Hà Thanh và thôn Sa Kỳ thuộc tổng Thanh Di, nộp kho hằng năm khoảng 1725 thăng thóc tương đương 4657,5 kg thóc[4], bình quân khoảng 62,1 kg thóc/mẫu. Mức thuế đó phản ánh quy mô nhỏ về sở hữu diện tích quan điền. Quan thổ có tổng cộng 34 sở trồng tiêu vốn thuộc sở hữu của 30 chủ, bình quân khoảng 0,94 mẫu/người. Qua đó, thể hiện quy mô sở hữu quan thổ là nhỏ lẻ, đồng thời phản ánh quan thổ chủ yếu là chuyển đổi hình thức sở hữu đối với các sở đất vườn tiêu đã bị bỏ hoang. Theo đó, huyện Hà Châu có 3 sở công điền tập trung ở tổng Hà Thanh với diện tích là 15.3.11.4 mẫu, bình quân diện tích sở hữu là 5 mẫu/sở. Kết quả thống kê phản ánh sự chênh lệch giữa các xã, thôn sở hữu công thổ. Trong đó: Tổng Hà Nhuận có 3/5 thôn có công thổ chiếm 60% tổng số thôn của tổng. Bình quân diện tích công thổ là 0.9 mẫu/thôn. Tổng Hà Thanh có 10/11 thôn có công thổ chiếm 90,91% số xã, thôn của tổng. Bình quân diện tích công thổ là 1.9 mẫu/thôn. Tổng Phú Quốc có 9/10 thôn có diện tích công thổ chiếm 90% số thôn của tổng. Bình quân diện tích công thổ là 1.2 mẫu/thôn. Tổng Thanh Di có 1/11 thôn có diện tích công thổ chiếm 9,09% số thôn của tổng. Bình quân diện tích công thổ là 1.8 mẫu/thôn. Theo đó, mức bình quân sở hữu công thổ ở huyện Hà Châu là 1.5mẫu/thôn. 3.2.2 Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân * Khát quát về ruộng đất tư hữu Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu và sử dụng đối với ruộng đất canh tác thuộc về tư nhân được ghi nhận trong số địa bạ của xã, thôn với tên gọi là tư điền, tư thổ để phân biệt với công điền, công thổ. Dưới triều Nguyễn, ruộng đất tư chiếm số lượng lớn trong các loại ruộng đất ở Nam Kỳ, loại ruộng đất này được đo đạc và ghi chép khá kỹ trong địa bạ theo cấp hành chính tỉnh, huyện, tổng, xã thôn. Đối với địa bạ Hà Châu thì không ghi cụ thể là tư điền, tư thổ mà chỉ ghi nhận là một sở ruộng hoặc sở đất có diện tích là bao nhiêu mẫu. sào. thước. tấc, giáp giới theo tứ cận đông – tây – nam – bắc những đâu, do người bản thôn hoặc bản xã tên họ là gì được phân canh hoặc người địa phương khác phụ canh. * Diện tích sở hữu Qua khảo sát 44 đơn vị địa bạ huyện Hà Châu, tổng số diện tích ruộng đất tư và tỉ lệ so sánh được thống kê ở Bảng 3: Bảng 3. Thống kê diện tích các loại ruộng đất ở huyện Hà Châu Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc TT Tổng Tổng diện tích Tỉ lệ % Tư điền, tư thổ Tỉ lệ % 1 Hà Nhuận 48.7. 2.6 100 46.0. 1.1 94,44 2 Hà Thanh 255.2. 0.1 100 145.6. 8.0 57,07 3 Nhuận Đức 88.3.14.0 100 73.1.11.3 82,78 4 Phú Quốc 17.3.11.3 100 6.0. 6.8 34,79 5 Thanh Di 329.0. 1.4 100 309.1. 6.9 93,96 Tổng cộng 738.6.14.4 100 580.0. 4.1 78,52 Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836) An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 29 Kết quả thống kê cho thấy, diện tích ruộng đất tư hữu ở huyện Hà Châu là 580.0.4.1 chiếm tỉ lệ 78,52% tổng diện tích ruộng đất. So sánh với diện tích hiện nay chỉ chiếm 0,18% tổng diện tích vùng Hà Tiên, Kiên Lương và Phú Quốc. Nếu so sánh với diện tích ruộng đất tư ở Nam Kỳ thì ruộng đất tư ở huyện Hà Châu rất nhỏ, ví dụ như: tổng Lợi Trinh (Định Tường) là 17442.1 mẫu, tổng Hòa Lạc (Gia Định) là 23402.5 mẫu, tổng Bảo Ngãi (Vĩnh Long) là 1164.4 mẫu, tổng An Thạnh (An Giang) là 642.9 mẫu (Trần Thị Thu Lương, 1994, tr. 65). Có sự khác biệt khi Hà Tiên là tỉnh có diện tích ruộng đất tư thấp nhất ở Nam Kỳ với 22,90% (Nguyễn Đình Đầu, 1992, tr. 122), ngược lại huyện Hà Châu có tỉ lệ diện tích ruộng đất tư khá lớn với 78,52%. Điều này cho thấy, sự phát triển của ruộng đất tư hữu ở Hà Châu do được khai phá và canh tác lâu đời hơn so với các khu vực khác của tỉnh Hà Tiên như huyện Long Xuyên, Kiên Giang. Trong tổng diện tích ruộng đất tư thì diện tích ruộng tư là 271.6.4.1 chiếm 36,77% và diện tích đất tư là 308.4.0.0 chiếm 41,75% trong tổng diện tích ruộng đất ở huyện Hà Châu. Đất tư có diện tích lớn hơn so với ruộng tư do đặc điểm địa hình huyện Hà Châu là núi đồi tương đối cao và thổ nhưỡng nơi đây không đạt được phì nhiêu tốt nhất cho việc trồng lúa nước. Ngoại trừ một số khu vực trung tâm lỵ sở Hà Tiên và khu vực quanh sông Giang Thành vẫn có thể trồng lúa, chủ yếu là sơn điền nhờ vào nguồn nước lưu thông từ kênh Vĩnh Tế đến sông Giang Thành “những vùng thuận tiện giao thông, ngoại thương, gần nguồn nước ở thượng nguồn sông Hậu, hạ lưu sông Tiền, giáp vịnh Thái Lan và dọ sông Cửu Long (Hà Tiên – Kiên Giang), Định Tường (Tiền Giang), An Giang, Vĩnh Long (Cửu Long) là khu vực sầm uất nhất, lấy sản xuất lúa nước làm chính, vụ lúa nằm trọn trong mùa mưa, hoàn toàn nhờ nước trời” (Kim Khôi, 1981, tr. 26). Điều này đã ảnh hưởng đến việc mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp, đặc biệt là diện tích trồng lúa ở vùng này. Xem xét cụ thể diện tích từng loại sở hữu ruộng và đất, nhận thấy có sự chênh lệch về tỉ lệ diện tích ruộng tư và đất tư giữa các tổng ở huyện Hà Châu (Bảng 4): Bảng 4. Thống kê diện tích ruộng đất tư ở huyện Hà Châu Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc TT Tổng Ruộng tư Tỉ lệ % Đất tư Tỉ lệ % 1 Hà Nhuận 8.9. 5.0 3,29 37.0.11.1 12,02 2 Hà Thanh 10.6. 1.5 3,90 135.0. 6.5 43,79 3 Nhuận Đức 56.4. 1.3 20,77 16.7.10.0 5,44 4 Phú Quốc - 0 6.0. 6.8 1,96 5 Thanh Di 195.6.11.3 72,04 113.4.10.6 36,79 Tổng cộng 271.6. 4.1 100 308.4. 0.0 100 Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Về cơ bản, giữa các tổng thuộc huyện Hà Châu có sự khác nhau trong cơ cấu diện tích ruộng tư và đất tư đã tạo ra sự chênh lệch trong tỉ lệ diện tích ruộng tư và tỉ lệ diện tích đất tư. Diện tích ruộng đất tư ở huyện Hà Châu có 271.6.4.1 mẫu ruộng tư và 308.4.0.0 mẫu đất tư. Việc phân bố diện tích ruộng tư giữa các tổng có sự chênh lệch nhất định tùy thuộc vào điều kiện đất đai. Trong 5 tổng, chỉ duy nhất tổng Phú Quốc không có diện tích ruộng tư và diện tích đất tư nhỏ do đặc điểm địa hình hải đảo. Tổng Thanh Di là tổng có diện tích ruộng tư nhiều nhất và chiếm tỉ lệ An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 30 diện tích ruộng tư lớn nhất huyện Hà Châu. Bởi tổng Thanh Di thuộc khu vực tương ứng với phần lớn đất liền có địa hình tương đối bằng phẳng nằm trong nội địa của huyện Kiên Lương ngày nay, với điều thuận lợi về nguồn nước đặc biệt là tiếp giáp với sông Giang Thành và kênh Vĩnh Tế. Tổng Hà Nhuận tương ứng với phần đất nhỏ hẹp nằm giáp biên giới giữa Việt Nam và Campuchia ngày nay, do địa hình bị chia cắt với nhiều núi đồi nên đất đai không thuận lợi cho canh tác nông nghiệp. Vì thế, tổng Hà Nhuận có diện tích ruộng tư ít nhất huyện Hà Châu. Trong khi đó, diện tích đất tư được phân bố hầu khắp 5 tổng thuộc huyện Hà Châu, riêng tổng Hà Thanh có diện tích đất tư với tỉ lệ lớn nhất. Tổng Hà Thanh tương ứng với khu vực đất đai nằm rìa Tây Bắc huyện Kiên Lương tiếp giáp với biên giới Camphuchia ngày nay và phía Tây Nam của tổng Hà Thanh tiếp giáp với vịnh Thuận Yên nằm trong vùng biển Tây Nam Việt Nam ngày nay. Địa hình nơi đây tuy không bằng phẳng, đất đai chưa đủ màu mỡ để trồng lúa nhưng có điều kiện thuận lợi để trồng các loại cây nông nghiệp khác. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên ở huyện Hà Châu còn nhiều khó khăn cho canh tác nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước nhưng phần lớn diện tích đất đai đã khai khẩn ở huyện Hà Châu đều được trồng trọt một số loại cây nông sản nhất định. Đặc biệt, nông sản ở huyện Hà Châu nổi tiếng với một số sản phẩm như hồ tiêu, dâu, cau, trầu và làm muối, nhất là hồ tiêu chỉ trồng ở Hà Châu đã tạo nên đặc trưng riêng biệt của nông sản vùng này. * Cách thức sở hữu Cách thức sở hữu ruộng đất tư ở Nam Kỳ bao gồm sở hữu đơn chủ và sở hữu đa chủ. Theo đó, sở hữu đơn chủ là hình thức sở hữu do một cá nhân đứng tên trên một hoặc nhiều diện tích ruộng đất khác nhau; sở hữu đa chủ hay đồng sở hữu là hình thức có ít nhất hai hay nhiều người cùng đứng tên sở hữu trên một diện tích ruộng đất. Khảo sát địa bạ huyện Hà Châu cho thấy, sở hữu đơn chủ là phổ biến nơi đây và không có hiện tượng đồng sở hữu như các vùng khác ở Nam Kỳ là vì: - Hà Châu là vùng đất biên giới, chịu nhiều biến động xã hội trong nước và sự tranh chấp của các nước trong khu vực. Do vậy, tình hình dân cư có sự biến động thường xuyên và đời sống xã hội không ổn định. - Hà Châu có địa hình chịu sự chia cắt khá mạnh bởi núi đồi và thiếu nguồn nước ngọt nên tình hình khai khẩn và canh tác ruộng đất gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, dân số quá ít không đủ lực lượng khai khẩn đất hoang nên chưa thể tạo ra cách thức sở hữu đa chủ như các khu vực khác ở trung tâm đồng bằng Nam bộ, mà chủ yếu là sở hữu đơn chủ nhỏ lẻ đối với những nơi có điều kiện thuận lợi trong khẩn hoang và canh tác. * Quy mô sở hữu Sở hữu ruộng đất theo số lượng chủ sở hữu: Ruộng đất tư ở huyện Hà Châu thuộc về 184 chủ sở hữu ruộng tư và 214 chủ sở hữu đất tư. Bảng 5. Phân loại số lượng chủ sở hữu ruộng tư và đất tư ở huyện Hà Châu Đơn vị tính: người TT Tổng Ruộng tư Đất tư Số lượng chủ sở hữu Số lượng chủ sở hữu < 1 mẫu 1 – 5 mẫu 5 – 10 mẫu 10 – 15 mẫu < 1 mẫu 1 – 5 mẫu 5 – 10 mẫu 10 – 15 mẫu 1 Hà Nhuận 5 5 - - 32 11 - - 2 Hà Thanh 4 1 1 - 37 40 3 - An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 31 TT Tổng Ruộng tư Đất tư Số lượng chủ sở hữu Số lượng chủ sở hữu < 1 mẫu 1 – 5 mẫu 5 – 10 mẫu 10 – 15 mẫu < 1 mẫu 1 – 5 mẫu 5 – 10 mẫu 10 – 15 mẫu 3 Nhuận Đức 32 18 1 - 10 4 1 - 4 Phú Quốc - - - - 4 3 - - 5 Thanh Di 58 53 4 2 38 26 4 1 Tổng cộng 99 77 6 2 121 84 8 1 Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Theo đó, mức sở hữu dưới 1 mẫu có 99 chủ sở hữu ruộng tư và 121 chủ sở hữu đất tư; mức sở hữu từ 1 mẫu đến 5 mẫu có 77 chủ sở hữu ruộng tư và 84 chủ sở hữu đất tư; mức sở hữu từ 5 mẫu đến 10 mẫu có 6 chủ sở hữu ruộng tư và 8 chủ sở hữu đất tư; mức sở hữu từ 10 mẫu đến 15 mẫu có 2 chủ sở hữu ruộng tư và 1 chủ sở hữu đất tư. Sở hữu bình quân ruộng đất tư ở huyện Hà Châu khoảng 1,45 mẫu/chủ và mỗi chủ sở hữu 1,2 sở ruộng đất tư. Bình quân sở hữu ruộng tư là 1,47 mẫu/chủ, bình quân sở hữu đất tư là 1,44 mẫu/chủ. Trong đó: - Tổng Hà Nhuận: bình quân sở hữu ruộng đất tư là 0,87 mẫu/chủ, trong đó bình quân sở hữu ruộng tư là 0,89 mẫu/chủ, bình quân sở hữu đất tư là 0,86 mẫu/chủ. - Tổng Hà Thanh: bình quân sở hữu ruộng đất tư là 1,7 mẫu/chủ, trong đó bình quân sở hữu ruộng tư là 1,77 mẫu/chủ, bình quân sở hữu đất tư là 1,69 mẫu/chủ. - Tổng Hà Nhuận: bình quân sở hữu ruộng đất tư là 1,1 mẫu/chủ, trong đó bình quân sở hữu ruộng tư là 1,1 mẫu/chủ, bình quân sở hữu đất tư là 1,1 mẫu/chủ. - Tổng Phú Quốc: bình quân sở hữu đất tư là 0,85 mẫu/chủ. - Tổng Thanh Di: bình quân sở hữu ruộng đất tư là 1,66 mẫu/chủ, trong đó bình quân sở hữu ruộng tư là 1,67 mẫu/chủ, bình quân sở hữu đất tư là 1,64 mẫu/chủ. Huyện Hà Châu có khoảng 220 chủ sở hữu ruộng đất dưới 1 mẫu và chỉ số ít chủ sở hữu ruộng đất với quy mô từ 5 mẫu trở lên và hầu như không có cá nhân nào sở hữu trên 15 mẫu ruộng đất. Mức bình quân sở hữu ruộng đất tư ở Hà Châu tuy có sự khác biệt giữa các tổng nhưng điểm chung là sở hữu dưới 2 mẫu, trong đó mức bình quân cao nhất là tổng Hà Thanh và nhỏ nhất là tổng Phú Quốc. Sở hữu ruộng đất tư ở huyện Hà Châu không lớn như các khu vực khác ở Nam Kỳ lục tỉnh do “điều kiện đất đai không thuận lợi cho nông nghiệp nên diện tích khai phá vùng Hà Tiên thật sự không nhiều. Đến đầu thế kỷ XIX, có thể người dân chỉ mới khai phá trồng trọt được ở quanh thị trấn Hà Tiên và dọc rạch Giang Thành” (Lê Văn Năm, 2000, tr. 52). Nhìn chung, quy mô sở hữu ruộng đất của tư nhân còn nhỏ lẻ và xu hướng tập trung ruộng đất vào tay các chủ sở hữu ở huyện Hà Châu chưa đạt mức độ cao như các khu vực khác ở Nam Kỳ. Điều đó phản ánh thực trạng xã hội ở Hà Châu chưa có sự phân cực giàu nghèo quá lớn như khu vực đồng bằng trung tâm. Trường hợp ở tổng Hòa Lạc, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định là một ví dụ điển hình về sự chênh lệch trong tư hữu ruộng đất: có đến 98,8% diện tích ruộng đất nằm trong tay người khá giả, những người sở hữu nhỏ chỉ còn 1,1% diện tích ruộng đất tư (Trần Thị Thu Lương, 1994, tr. 139). Sở hữu ruộng đất theo giới tính: Toàn huyện Hà Châu có 10 chủ tư hữu ruộng đất là nữ giới, tập trung ở 2 tổng Hà Thanh và Nhuận Đức. An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 32 Bảng 6. Bình quân sở hữu ruộng đất theo giới tính nữ Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc TT Tổng Tổng diện tích Số chủ Diện tích sở hữu Tỉ lệ % Bình quân diện tích 1 Hà Nhuận 46.0. 1.1 - - - - 2 Hà Thanh 145.6. 8.0 6 20.0.14.4 13,80 3.3. 3.6 3 Nhuận Đức 73.1.11.3 4 1.3.12.8 1,89 0.3. 2.8 4 Phú Quốc 6.0. 6.8 - - - - 5 Thanh Di 309.1. 6.9 - - - - Tổng cộng 580.0. 4.1 10 21.4.12.2 3,70 2.1. 4.1 Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836) - Tổng Hà Thanh có 6 chủ sở hữu nữ chiếm 60% số chủ nữ của huyện, diện tích ruộng đất của chủ là nữ có 20.0.14.4 chiếm 13,80% diện tích ruộng đất tư, bình quân tư hữu ruộng đất là 3,3 mẫu/chủ. - Tổng Nhuận Đức có 4 chủ sở hữu nữ chiếm 40% số chủ nữ của huyện, diện tích ruộng đất của chủ là nữ có 1.3.12.8 chiếm 1,89% diện tích ruộng đất tư, bình quân tư hữu ruộng đất là 0.3 mẫu/chủ. Mức bình quân chung về sở hữu ruộng đất của các chủ nữ ở huyện Hà Châu là rất nhỏ và số chủ sở hữu là nữ chiếm số lượng rất ít so với số lượng chủ sở hữu là nam giới nhưng đã phản ánh một góc độ khác về sự bình đẳng giữa nam và nữ trong việc tư hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX. Sở hữu ruộng đất theo chức dịch: Chức dịch ở huyện Hà Châu bao gồm Cai tổng, Xã trưởng, Thôn trưởng, Dịch mục và Tả bạ. Huyện có 35/87 chức dịch có ruộng đất tư chiếm 40,23%. Bảng 7. Bình quân sở hữu ruộng đất của chủ sở hữu là chức dịch Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc TT Tổng Tổng diện tích Số chủ Diện tích sở hữu Tỉ lệ % Bình quân diện tích 1 Hà Nhuận 46.0. 1.1 2 3.1. 6.5 6,83 1.5. 8.2 2 Hà Thanh 145.6. 8.0 2 3.8.13.8 2,67 1.9. 0.7 3 Nhuận Đức 73.1.11.3 12 17.8. 1.8 24,34 1.4. 8.4 4 Phú Quốc 6.0. 6.8 0 - 0 - 5 Thanh Di 309.1. 6.9 19 30.9.11.8 10,02 1.6. 2.7 Tổng cộng 580.0. 4.1 35 55.8. 3.9 9,62 1.5. 9.5 Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Theo đó, chức dịch tổng Phú Quốc không có ruộng đất tư, tổng Hà Nhuận và tổng Hà Thanh có số lượng chức dịch ít nhất, tổng Thanh Di có số lượng chức dịch nhiều nhất trong tổng số chức dịch có ruộng đất tư. Tổng diện tích ruộng đất thuộc tư hữu của chức dịch là 55.8.3.9 chiếm 9,62% diện tích ruộng đất tư của huyện và mức bình quân sở hữu ruộng đất là 1.5.9.5. Trong đó: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 33 - Tổng Hà Nhuận: diện tích ruộng đất tư của chức dịch là 3.1.6.5 chiếm 6,83% diện tích ruộng đất tư của tổng, bình quân sở hữu ruộng đất của chức dịch là 1.5.8.2. - Tổng Hà Thanh: diện tích ruộng đất tư của chức dịch là 3.8.13.8 chiếm 2,67% diện tích ruộng đất tư của tổng, bình quân sở hữu ruộng đất của chức dịch là 1.9.0.7. - Tổng Nhuận Đức: diện tích ruộng đất tư của chức dịch là 17.8.1.8 chiếm 24,34% diện tích ruộng đất tư của tổng, bình quân sở hữu của chức dịch là 1.4.8.4. - Tổng Thanh Di: diện tích ruộng đất tư của chức dịch là 30.9.11.8 chiếm 10,02% diện tích ruộng đất tư của tổng, bình quân sở hữu của chức dịch là 1.6.2.7. Số chức dịch ở huyện Hà Châu không có ruộng đất là 52/87 người chiếm 59,77% số chức dịch của huyện. Số chức dịch sở hữu dưới 1 mẫu có 13 chủ chiếm 14,94% và có tổng diện tích là 6.1.14.1. Số chức dịch sở hữu từ 1 mẫu đến 3 mẫu có 19 chủ chiếm 21,84% và có tổng diện tích 31.3.11.8 chiếm 56,21%. Số chức dịch sở hữu từ 3 mẫu đến 5 mẫu có 1 chủ chiếm 2,30% với diện tích là 4.4.3.0 chiếm 7,92%. Số chức dịch sở hữu từ 5 mẫu đến 10 mẫu có 2 chủ chiếm 2,30% với tổng diện tích 13.8.5.0 chiếm 24,78% diện tích ruộng đất của chức dịch ở huyện. Qua đó cho thấy, quy mô sở hữu của các chức dịch khoảng 3 mẫu chiếm số lượng lớn 32/35 chủ; số chủ sở hữu diện tích ruộng đất từ 3 mẫu trở lên chiếm số lượng ít. Trong khi đó, số chức dịch không có ruộng đất là 52/87 chủ, chiếm hơn 50% số chức dịch của huyện Hà Châu, riêng tổng Phú Quốc có 20 chức dịch không có ruộng đất tư. Bình quân sở hữu ruộng đất của các chức dịch rất nhỏ, chỉ khoảng 1.5 mẫu/chủ tương đương với mức bình quân sở hữu ruộng đất chung ở huyện Hà Châu. Như vậy, quy mô sở hữu ruộng đất của bộ máy quản lý xã, thôn ở huyện Hà Châu có mức sở hữu nhỏ. Họ chỉ là những người canh tác ruộng, chưa thể là tầng lớp đại địa chủ kiêm tính ruộng đất như các khu vực khác ở Nam Kỳ. Vì thế đã tạo ra điểm khác biệt về tình hình sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX. 3.3 Một số nhận xét 3.3.1 Ruộng đất ở huyện Hà Châu có sự chênh lệch lớn trong phân phối Sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu có sự chênh lệch về diện tích và tỉ lệ diện tích giữa các tổng và giữa các xã, thôn trong cùng tổng. Tổng sở hữu chưa đầy 20 mẫu ruộng đất, điển hình là tổng Phú Quốc trong khi đó có tổng sở hữu hàng trăm mẫu ruộng đất như tổng Hà Thanh và tổng Thanh Di. Tình hình phân phối diện tích ruộng đất giữa các xã, thôn cũng tương tự khi có chủ sở hữu từ 10 đến 15 mẫu, ngược lại có chủ chỉ canh tác từ 1 đến 2 sào ruộng đất. Sự chênh lệch còn thể hiện ở cơ cấu diện tích giữa các loại hình ruộng đất: diện tích quan điền, quan thổ; diện tích ruộng đất công và diện tích ruộng đất tư. Vì thế đã phản ánh được xu thế phát triển mạnh của tình hình tư hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX. Sự chênh lệch còn được thể hiện trong phân phối ruộng đất theo chủ sở hữu. Ngoài số ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước được phân canh cho các xã dân canh tác theo quy định còn có ruộng đất tư của 398 chủ sở hữu. Trong đó, 184 chủ sở hữu ruộng với tổng diện tích hơn 271 mẫu, 214 chủ sở hữu đất với tổng diện tích hơn 308 mẫu và có sự chênh lệch về quy mô tư hữu ruộng và đất giữa các chủ sở hữu. Sự chênh lệch về sở hữu ruộng đất được thể hiện trong phân phối ruộng đất theo giới tính ở huyện Hà Châu. Số chủ sở hữu là nữ có 10/398 chủ sở hữu tổng diện tích ruộng đất là 21/580 mẫu ruộng đất, trong khi đó chủ sở hữu là nam sở hữu diện tích là 559/580 mẫu ruộng đất. Điều đó cho thấy, sự chênh lệch lớn về tình hình phân phối ruộng đất và quy mô sở hữu ruộng đất giữa nam và nữ ở huyện Hà Châu đồng thời phản ánh về vấn đề bình đẳng giữa nam và nữ trong sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX. Sở hữu ruộng đất của bộ máy quản lý xã, thôn ở huyện Hà Châu còn cho thấy sự chênh lệch về diện tích và tỉ lệ diện tích ruộng đất tư hữu. Toàn huyện có 87 chức dịch, trong đó 35/87 chức dịch sở hữu 55/580 mẫu ruộng đất tư và số còn lại An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 34 không có ruộng đất. Quy mô sở hữu của các chủ là chức dịch khoảng 1.5 mẫu/chủ. Qua đó đã phản ánh, quy mô sở hữu nhỏ lẻ và manh mún đối với ruộng đất của bộ máy quản lý xã, thôn ở huyện và họ chỉ là những người canh tác ruộng không hẳn đã là đại địa chủ hay thuộc loại “cường hào cậy mạnh, bá chiếm, người nghèo không đất cắm dùi” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNTL, t. 4, tr. 915) như báo cáo của Kinh Lược sứ Trương Đăng Quế. Nhìn chung, sự chênh lệch trong phân phối ruộng đất là điều tất yếu vì phụ thuộc vào các yếu tố như đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội và nguồn nhân lực ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX. 3.3.2 Ruộng đất tư hữu chiếm ưu thế so với các loại hình sở hữu ruộng đất công Nửa đầu thế kỷ XIX, phần lớn đất đai tỉnh Hà Tiên nói chung chưa được khai khẩn nhiều và dân cư hãy còn thưa thớt, đặc biệt là khu vực có địa hình thấp như huyện Kiên Giang và Long Xuyên. Nhờ vào sự hỗ trợ của nhà nước nên diện tích canh tác được mở rộng, đồng nghĩa với đó là ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước được xác lập. Vì thế đã làm tăng tỉ lệ diện tích ruộng đất thuộc sở hữu công ở tỉnh Hà Tiên cao nhất so với các tỉnh khác ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, có một thực tế trái ngược khi diện tích ruộng đất tư hữu ở huyện Hà Châu là 580/738 mẫu chiếm 78,52% và ruộng đất công chỉ có 50/738 mẫu chiếm 6,84%, riêng ruộng công chỉ có 15 mẫu (2,08%) và đất công là 35 mẫu (4,75%). Tỉ lệ này phù hợp với xu thế chung của tình hình sở hữu ruộng đất ở Nam Kỳ nhưng lại là nét đặc trưng riêng ở tỉnh Hà Tiên vào nửa đầu thế kỷ XIX. Điều này cho thấy, xu hướng phát triển mạnh mẽ của hình thức tư hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX, đồng thời phản ánh nhiều khó khăn của triều đình trong việc thực hiện chính sách công điền, công thổ đối với Nam Kỳ nói chung và huyện Hà Châu nói riêng. Có thể nói, tư hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu là sản phẩm khách quan của lịch sử. Mặc dù, khi lập địa bạ đã kết hợp với việc thực hiện chính sách công điền, công thổ đối với vùng đất này ở một mức độ nhất định, nhưng ruộng đất tư hữu ở huyện Hà Châu vẫn chiếm tỉ lệ cao hơn rất nhiều so với ruộng đất thuộc sở hữu công. 3.3.3 Hình thức sở hữu ruộng đất mang tính đặc trưng là sở hữu đơn chủ Ở Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XIX, hai hình thức sở hữu song song là sở hữu đơn chủ và sở hữu đa chủ đối với ruộng đất tư dần trở nên phổ biến, đặc biệt là sở hữu đa chủ - “sản phẩm của hoàn cảnh hình thành và phát triển ruộng đất tư ở Nam bộ” (Trần Thị Thu Lương, 1994, tr. 209). Tuy nhiên, ở huyện Hà Châu thì ngược lại, sở hữu đơn chủ là phổ biến và là sản phẩm của điều kiện tự nhiên ở vùng đất này. Huyện Hà Châu nằm trong khu vực thường xuyên xảy ra các tranh chấp giữa Xiêm, Chân Lạp và Đại Nam nên tình hình xã hội khá phức tạp. Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên chủ yếu là địa hình bị chia cắt mạnh bởi núi đồi và ít sông ngòi, lại có cả phần đất ở hải đảo. Những yếu tố ấy đã hạn chế rất lớn số lượng dân cư đến nơi đây khai khẩn trong bối cảnh đất hoang hóa và rừng rậm còn khá nhiều. Vì vậy, việc khai hoang và canh tác nơi đây cơ bản là vì sự tồn tại chứ không vì tham vọng làm giàu, do đó sở hữu đơn chủ đối với từng diện tích nhỏ là tất yếu. Điều này lý giải vì sao ở Hà Châu không tồn tại sở hữu đa chủ nhiều như các khu vực đất đai trung tâm đồng bằng Nam bộ. 3.3.4 Quy mô sở hữu ruộng đất tư còn nhỏ lẻ, mức độ tập trung về tư hữu ruộng đất chưa cao Huyện Hà Châu có nhiều khó khăn và cách xa trung tâm đồng bằng Nam bộ nên không là “vùng đất hứa” đối với những người có vật lực tìm đến sinh cơ lập nghiệp. Thành phần cư dân phần lớn là tù phạm, trốn tô thuế, dân phiêu tán số ít còn lại là những thương nhân Hoa kiều. Do vậy, quá trình khẩn hoang ở nơi đây diễn ra chậm chạp với diện tích nhỏ và thưa thớt. Qua phân tích địa bạ, huyện Hà Châu có 220 chủ sở hữu nhỏ hơn 1 mẫu và bình quân sở hữu không vượt quá 2 mẫu/người. Do vậy, có thể khẳng định tư hữu nhỏ về ruộng đất ở huyện Hà Châu chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên và xã hội nơi đây. An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 35 Điều đó phản ánh tình hình xã hội ở huyện Hà Châu vào nửa đầu thế kỷ XIX chưa bị phân hóa xã hội gay gắt như các khu vực khác ở Nam Kỳ vốn đã hình thành quan hệ địa chủ và tá điền. Trong đó có những địa chủ được biết đến là những chủ đất với diện tích sở hữu hàng nghìn mẫu như trường hợp địa chủ Mai Văn Lộc ở Tiền Giang có 1106 mẫu ở thôn Bình Ân, Lê Văn Hiệu có 2278 mẫu ở thôn Bình Xuân (Nguyễn Phúc Nghiệp, 2013, tr. 34). Quy mô sở hữu nhỏ và canh tác manh mún như vậy đã phản ánh mức độ tập trung ruộng đất rất thấp và chưa thể xảy ra tình trạng kiêm tính ruộng đất. 3.3.5 Tình hình sở hữu ruộng đất tư ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX phản ánh quá trình xác lập và thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh thổ Tây Nam Việt Nam dưới triều Nguyễn Nghiên cứu về tình hình ruộng đất ở huyện Hà Châu qua những ghi nhận trong địa bạ năm Minh Mạng thứ 17 (1836) không chỉ giúp hình dung rõ tình hình sở hữu đất đai, mà còn góp phần khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia cả trên đất liền lẫn hải đảo ở Tây Nam Việt Nam trong mối quan hệ với Chân Lạp ở nửa đầu thế kỷ XIX. Những ghi nhận về tình trạng sở hữu và canh tác ruộng đất ở huyện Hà Châu qua địa bạ đã góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia đối với các phần lãnh thổ biên giới, đất liền và hải đảo của Việt Nam dưới triều Nguyễn. Đồng thời, cho thấy tiến trình thực thi chủ quyền của dân tộc Việt Nam đối với các phần lãnh thổ này đã diễn ra liên tục và thường xuyên, thể hiện ở việc khai hoang mở rộng diện tích canh tác, tổ chức các hoạt động kinh tế và việc nộp tô thuế hoa lợi cho triều đình nhà Nguyễn. Những thông tin giá trị được ghi chép trong địa bạ triều Nguyễn là căn cứ khoa học quan trọng nhằm bác bỏ những luận cứ bất hợp lý mà các học giả quốc tế đưa ra tranh luận về vấn đề phân định biên giới giữa Campuchia và Việt Nam hiện nay. 4. KẾT LUẬN Qua phân tích địa bạ huyện Hà Châu cho thấy, sự tồn tại hai hình thức sở hữu: ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước bao gồm quan điền, quan thổ và công điền, công thổ; ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Trong đó, ruộng đất tư của huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX có xu hướng phát triển mạnh. Về cách thức sở hữu, ruộng đất do nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quản lý đều được phân giao cho xã dân cày cấy và nộp thuế theo quy định. Ruộng đất tư chỉ tồn tại hình thức sở hữu đơn chủ đã tạo ra nét đặc trưng trong sở hữu ruộng đất ở đồng bằng Nam bộ nửa đầu thế kỷ XIX. Quy mô sở hữu ruộng đất nhỏ lẻ và chưa có sự tập trung cao để có thể tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ trong nông nghiệp. Và thực trạng sở hữu ruộng đất này ở huyện Hà Châu là sản phẩm của hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nơi đây. Thông qua nguồn tư liệu địa bạ, góp phần khái quát được tình hình sở hữu ruộng đất của vùng đất biên giới mang tính đặc thù này. Trải qua gần hai thế kỷ đến nay, tình hình ruộng đất ở các khu vực thuộc tỉnh Hà Tiên cũng đã có nhiều thay đổi lớn như: quyền sở hữu ruộng đất thuộc về nhà nước và nhân dân chỉ là chủ thể sử dụng ruộng đất; cách thức quản lý đất đai được quy định rõ ràng, chặt chẽ trên các văn bản pháp lý; ruộng đất được tập trung với quy mô lớn tuân theo các chính sách hoạch định sử dụng đất đai phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Song, việc nghiên cứu tình hình ruộng đất qua địa bạ ở huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên vẫn luôn có giá trị trong việc góp phần quan trọng vào việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia cả trên đất liền lẫn hải đảo ở vùng Tây Nam của Việt Nam trong mối quan hệ với Chân Lạp ở nửa đầu thế kỷ XIX. CHÚ THÍCH [1] Trung tâm lưu trữ quốc gia I. 44 địa bạ của các xã, thôn thuộc huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên năm 1836: Hoa Giáp thôn (kí hiệu 16527:6), Tiên Hưng thôn (16447:5), Tiên Hưng Tây thôn (16450:8), Tiên Long thôn (16443:9), Tiên Phước thôn (16449:4), Bình An thôn (16518:7), Hòa Mỹ Đông thôn (16529:4), Hòa Thuận thôn (16432:4), Mỹ Đức xã (16433:11), Tân Thạnh thôn (16442:7), Thạnh Long thôn (16452:5), Thuận An thôn (16453:17), Tiên Mỹ thôn (16444:4), Tiên Quán xã (16448:5), Tiên Thái thôn (16446:4), Vy Sơn thôn (16456:5), Cố Tham xã (16427:6), Đôn Hậu An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36 36 thôn (16429:5), Hòa Luật thôn (16528:9), Lộc Trĩ thôn (16532:8), Mụ Sơn thôn (16435:4), Nhượng Lộ thôn (16438:6), Tầm Lai thôn (16440:5), An Thái thôn (16516:4), Cẩm Sơn thôn (16426:4), Dương Đông thôn (16526:6), Hàm Ninh thôn (16431:5), Mỹ Thạnh thôn (16434:4), Tân Tập thôn (16441:4), Phú Đông thôn (16538:5), Phước Lộc thôn (16439:4), Thái Thạnh thôn (16451:5), Tiên Tỉnh thôn (16445:5), Cần Thu thôn (16523:5), Côn Văn thôn (16428:6), Dương Hòa thôn (16430:14), Mông Mậu xã (16436:13), Nam An thôn (16437:5), Nam Hoa thôn (16537:5), Sa Kỳ thôn (16543:11), Thuận Đức thôn (16454:9), Trà Câu thôn (16568:6), Trác Việt thôn (16565:6), Tư Nghĩa thôn (16455:7). Hà Nội. [2] Tham khảo và đối chiếu theo bản đồ của Philippe Langlet, Quach Thanh Tam. (2001). Atlas Historique Des Six Provinces Du Sud Du Vietnam du milieu du XIXe au début du XXe siècle, tr.145 – 181. [3] Theo Nguyễn Đình Đầu. (2016). Góp phần nghiên cứu vấn đề đo, đong, cân, đếm của Việt Nam xưa in trong Tạp ghi Việt Sử Địa. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, tr. 126: 1 tấc = 3,2639344m2; 1 thước = 32,639344m2; 1 sào = 489,44016m2; 1 mẫu = 4894,4016m2. [4] Theo Vũ Huy Phúc. (1979). Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. tr.28: định chuẩn mức thuế dưới triều Minh Mạng, sơn điền huyện Hà Châu là 23 thăng thóc/mẫu. Vậy, số lượng thóc quan điền phải nộp hằng năm là 75 mẫu x 23 thăng = 1725 thăng thóc. Quy đổi đơn vị, 1 thăng tương đương 20 lít hoặc 2,7kg, với 1725 thăng thóc tương ứng 4657,5 kg thóc. TÀI LIỆU THAM KHẢO Kim Khôi. (1981). Vài nét về quá trình khai thác nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 6(201), 25 – 35. Nguyễn Đình Đầu. (1992). Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ. Nguyễn Đình Đầu. (1994). Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Hà Tiên (Minh Hải, Kiên Giang). Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Trịnh Hoài Đức. (1998). Gia Định thành thông chí (Đỗ Mộng Khương – Nguyễn Ngọc Tĩnh biên dịch). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Trần Thị Thu Lương. (1994). Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam bộ nửa đầu thế kỉ XIX. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. Lê Văn Năm. (2000). Tình hình định cư, khai phá vùng Châu Đốc – Hà Tiên hồi thế kỷ XIX. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 2 (309), 51 – 58. Nguyễn Phúc Nghiệp. (2013). Một vài nhận xét về sở hữu tư điền, tư thổ ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX: trường hợp ở tỉnh Tiền Giang. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 8 (448), 31 – 36. Quốc sử quán triều Nguyễn. (2006). Đại Nam nhất thống chí (Viện Sử học biên dịch). Tập 5. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa. Quốc sử quán triều Nguyễn. (2006). Đại Nam thực lục, (Viện Sử học biên dịch). Tập 2. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Quốc sử quán triều Nguyễn. (2006). Đại Nam thực lục (Viện Sử học biên dịch). Tập 3. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Quốc sử quán triều Nguyễn. (2006). Đại Nam thực lục (Viện Sử học biên dịch). Tập 4. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Phạm Văn Sơn. (1961). Việt sử tân biên: từ Tây Sơn mạt điệp đến Nguyễn sơ. Quyển IV. Sài Gòn: Đại Nam xuất bản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1569815060_03_bui_hoang_tan_xpdf_9927_2189591.pdf
Tài liệu liên quan