Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 50
VAI TRÒ CỦA NỒNG ĐỘ β-HCG SAU HÚT NẠO 2 TUẦN 
TRONG TIÊN ĐOÁN TÂN SINH NGUYÊN BÀO NUÔI HẬU THAI TRỨNG 
Lê Xuân Tiên*, Lê Tự Phương Chi**, Võ Minh Tuấn* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bệnh viện Từ Dũ có khoảng 900 ca hút nạo thai trứng mỗi năm. Mục tiêu nghiên cứu nhằm 
xác định giá trị tiên đoán tân sinh nguyên bào nuôi hậu thai trứng của nồng độ βhCG sau hút nạo 2 tuần và tỷ 
số nồng độ βhCG trước-sau hút nạo 2 tuần. 
Phương pháp: Nghiên cứu bệnh chứng lồng trên bệnh nhân thai trứng nhập bệnh viện Từ Dũ từ tháng 7 
năm 2016 đến tháng 12 năm 2017. Bệnh nhân được phân làm 2 nhóm từ việc lấy toàn bộ 123 ca tân sinh nguyên 
bào nuôi (TSNBN)(nhóm bệnh) và ngẫu nhiên 247 ca thai trứng lui bệnh tự nhiên (nhóm chứng). Đường cong 
ROC được sử dụng để tìm yếu tố có giá trị tiên đoán tốt nhất. 
Kết quả: Thời gian trung bình chẩn đoán TSNBN theo FIGO 2002 là 6,2 tuần. Điểm cắt lí tưởng của 
β-hCG sau hút nạo 2 tuần và 4 tuần tiên đoán TSNBN tương ứng là 700 mIU/mL (độ nhạy: 79%; độ 
chuyên: 69%) và 148 mIU/mL (độ nhạy: 83%; độ chuyên: 84%). Điểm cắt lí tưởng của tỷ số βhCG trước-
sau hút nạo 2 tuần và 4 tuần tiên đoán TSNBN tương ứng là 340 (độ nhạy: 77%; độ chuyên: 64%) và 1345 
(độ nhạy: 79%; độ chuyên: 84%). 
Kết luận: Nồng độ β-hCG sau hút nạo 2 tuần là yếu tố có giá trị tiên đoán sớm tốt cho nguy cơ chuyển qua 
TSNBN của bệnh nhân thai trứng. 
Từ khóa: thai trứng lui bệnh tự nhiên, tân sinh nguyên bào nuôi hậu thai trứng 
ABSTRACT 
THE ROLE OF βHCG IN TWO WEEK AFTER EVACUATION PREDICT THE PERSISTEN 
GESTATIONAL TROPHOPLASTIC NEOPLASIA 
Le Xuan Tien, Le Tu Phuong Chi, Vo Minh Tuan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 50 - 55 
Objective: To determine the trophoblastic neoplasia anticipating value of β-hCG concentration two weeks 
after molar suction curettage and its concentration ratio at pre-removal versus two-week post-removal. 
Methodology: Case control study nested in hydatidiform mole patients admitted into Tu Du Hospital from 
July 2016 to December 2017. Patients were divided into two groups with all 123 cases of trophoblastic neoplasia 
(case group) and 247 random cases of spontaneously remitting hydatidiform mole (control group). ROC curve 
was applied to find the factors of the most predictive value. 
Results: The average length of time for trophoblastic neoplasia diagnosis was 6.2 weeks as per FIGO 2002. 
The ideal cut-off points of β-hCG concentration two weeks and four weeks after molar suction curettage for 
anticipating trophoblastic neoplasia were 700 mIU/mL (sensitivity: 79%; specificity: 69%) and 148 mIU/mL 
(sensitivity: 83%; specificity: 84%) respectively. The ideal cut-off points of β-hCG ratio at pre-removal versus 
two-week and four-week post-removal for anticipating trophoblastic neoplasia were 340 (sensitivity: 77%; 
specificity: 64%) and 1345 (sensitivity: 79%; specificity: 84%) respectively. 
Conclusions: β-hCG concentration two weeks after molar removal is a good factor to early anticipate the risk 
*BM Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, **Khoa Ung bướu Phụ khoa BV Từ Dũ 
Tác giả liên lạc: PGS TS BS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 51
of trophoblastic neoplasia switch in hydatidiform mole patients. 
Keywords: hydatidiform mole with spontaneous remission, gestational trophoblastic neoplasia 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thai trứng (TT) là một dạng bệnh lí 
nguyên bào nuôi liên quan đến thai kì(4). Tần 
suất thay đổi tùy thuộc từng vùng lãnh thổ, 
tập quán ăn uống, điều kiện kinh tế xã hội(5), 
thấp ở vùng châu Âu và Bắc Mỹ (1,2/1000 thai 
kì)(3), cao ở khu vực châu Á (VN: 1,52/500 thai 
kì(6)). Điều trị thai trứng chủ yếu là hút nạo 
(HN) buồng tử cung, sau đó là theo dõi diễn 
tiến βhCG và các triệu chứng bất thường đi 
kèm. Trong quá trình theo dõi biến chứng 
đáng quan tâm nhất là tân sinh nguyên bào 
nuôi (TSNBN), với một tỷ lệ xuất hiện đáng kể: 
15-28%(7) đối với thai trứng toàn phần và 1-5% 
đối với thai trứng bán phần(8). Đây là biến 
chứng ác tính, nguy hiểm, có thể di căn, điều 
trị lâu dài và tốn kém. Một số nghiên cứu (NC) 
cố gắng tìm ra những yếu tố giúp tiên đoán 
TSNBN hậu thai trứng hay bệnh thoái lui để tư 
vấn bệnh nhân tốt hơn và giúp các nhà lâm 
sàng lưu ý đến những nguy cơ này để rút ngắn 
khoảng thời gian từ lúc chẩn đoán thai trứng 
đến TSNBN(9). Kết quả các yếu tố như tuổi mẹ, 
kích thước nang hoàng thể > 6cm, tiền sử thai 
trứng trước đó có giá trị tiên đoán “yếu” 
TSNBN hậu thai trứng. Gần đây, bắt đầu có 
những nghiên cứu nước ngoài về khả năng 
pháthiện TSNBN dựa vào nồng độ βhCG sau 
hút nạo và thấy rằng kiểu thay đổi nồng độ β-
hCG của TSNBN khác với của bệnh thai trứng 
thoái lui(10,11). 
Tại Bệnh viện Từ Dũ, năm 2016 có 1100 ca 
thai trứng, trong đó có 228 ca chuyển sang 
TSNBN. Chúng ta đang quản lí một lượng 
bệnh nhân thai trứng khá lớn nhưng vẫn chưa 
có nghiên cứu nào về tiên đoán sớm TSNBN. 
Từ những nghiên cứu dẫn đường trên thế giới 
cùng tình hình thực tế tại bệnh viện Từ Dũ 
chúng tôi quyết định thực hiện đề tài: Vai trò 
của nồng độ βhCG sau hút nạo 2 tuần tiên 
đoán tân sinh nguyên bào nuôi hậu thai trứng. 
Với câu hỏi nghiên cứu: Nồng độ βhCG sau 
hút nạo 2 tuần có giá trị tiên đoán TSNBN hậu 
thai trứng không? 
Mục tiêu 
Xác định giá trị tiên đoán tân sinh nguyên 
bào nuôi hậu thai trứng của nồng độ nồng độ 
βhCG sau hút nạo 2 tuần và tỷ số β-hCG trước-
sau hút nạo 2 tuần. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Bệnh chứng lồng (Nested case control). 
Dân số mục tiêu 
Bệnh nhân thai trứng không hóa dự phòng 
sau hút nạo. 
Dân số nghiên cứu 
Bệnh nhân thai trứng không hóa dự phòng 
sau hút nạo theo dõi tại Khoa Ung Bướu Phụ 
Khoa Bệnh viện Từ Dũ. 
Dân số chọn mẫu 
Bệnh nhân thai trứng không hóa dự phòng 
sau hút nạo theo dõi tại Khoa Ung Bướu Phụ 
Khoa Bệnh viện Từ Dũ từ tháng 7/2016-12/2017. 
Tiêu chuẩn nhận vào 
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định thai 
trứng dựa vào giải phẫu bệnh. 
Bệnh nhân tái khám đúng lịch hẹn. 
Bệnh nhân được xét nghiệm đầy đủ β-hCG 
trước và sau hút nạo. 
Có đầy đủ các thông tin. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân hút nạo thai trứng ở tuyến trước. 
Bệnh nhân được hóa dự phòng sau hút nạo. 
Bệnh nhân bỏ theo dõi. 
Cách tiến hành và thu thập số liệu 
Bước 1 
Sàng lọc đối tượng dựa vào phần mềm quản 
lí bệnh nhân theo dõi thai trứng tại khoa. Chọn 
khoảng thời gian từ tháng 7/2016 đến tháng 
12/2017, chẩn đoán vào viện là thai trứng, chẩn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 52
đoán xuất viện có thể là thai trứng hoặc các dạng 
TSNBN. Kết quả thu được 180 ca TSNBN hậu 
thai trứng và 930 ca thai trứng không chuyển 
qua TSNBN. 
Bước 2 
Phân nhóm và truy lục hồ sơ: Sắp xếp danh 
sách ban đầu cho 2 nhóm theo năm và theo số 
nhập viện từ nhỏ đến lớn. Bắt đầu truy lục từ hồ 
sơ nhóm bệnh (TSNBN) có SNV lớn nhất, đi 
ngược theo thời gian đến hồ sơ thứ 123 (cỡ mẫu 
nhóm bệnh). Cứ mỗi tháng dừng lại, có bao 
nhiêu ca bệnh thì có gấp đôi số ca chứng được 
lấy ngẫu nhiên, cách lấy ngẫu nhiên được thực 
hiện trên nguyên tắc lấy hồ sơ nhóm chứng có 
SNV gần nhất với SNV của các ca nhóm bệnh 
cùng tháng đó. Các hồ sơ được chọn phải đảm 
bảo đã đủ thời gian theo dõi, không có bất kì ca 
nhóm chứng nào sau đó chuyển qua TSNBN. 
Bước 3 
Ghi nhận dữ liệu về chuỗi kết quả βhCG: tất 
cả các kết quả βhCG được kiểm chứng lại về thời 
điểm thực hiện có đúng theo lịch tái khám mỗi 2 
tuần không, nếu chênh lệch quá 3 ngày ở bất kì 
thời điểm hẹn tái khám nào thì không thu thập 
hồ sơ đó. Khi nồng độ β-hCG ≥1500000 mIU/mL 
hay <5 mIU/mL thì lấy giá trị tại ngưỡng đó. 
Bước 4 
Thu thập số liệu: Các số liệu được thu nhận 
từ hồ sơ đảm bảo hoàn tất 28 biến số của nghiên 
cứu. 
Xử lí và phân tích số liệu 
Sử dụng phép kiểm Student để so sánh 
trung bình các biến định lượng của 2 nhóm. 
Nồng độ βhCG sau hút nạo 2 tuần và 4 tuần 
cũng như tỷ số của nó so với trước hút nạo được 
sử dụng để vẽ đường cong ROC, diện tích dưới 
đường cong (AUC) sẽ thể hiện giá trị của phép 
tiên đoán TSNBN. Điểm cắt lí tưởng được xây 
dựng dựa theo chỉ số Youden, từ đó xác định 
được các chỉ số của một phép tiên đoán hoàn 
chỉnh gồm: điểm cắt, độ nhạy, độ chuyên, giá trị 
tiên đoán dương-âm, tỷ số khả dĩ dương-âm. 
Phân tích đa biến cũng được sử dụng để đánh 
giá mối liên quan thật sự của β-hCG sau hút nạo 
2 tuần với TSNBN sau khi đã khử nhiễu. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Trong thời gian từ tháng 7/2016 đến tháng 
12/2017 có 1100 bệnh nhân thai trứng được nhập 
viên, trong đó có 180 ca TSNBN. Chúng tôi lấy 
toàn bộ 123 ca TSNBN và ngẫu nhiên 247 ca thai 
trứng lui bệnh tự nhiên thỏa tiêu chuẩn chọn 
mẫu vào nghiên cứu. 
Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Đặc điểm Nhóm bệnh 
(N=123) 
Nhóm chứng 
(N=247) 
Chung 
(N=370) 
Tuổi: 
≤ 20 
20 - < 40 
≥ 40 
11 (8,9) 
84 (68,3) 
28 (22,8) 
24 (9,7) 
203 (82,3) 
20 (8,1) 
35 (9,4) 
287 (77,6) 
48 (13,0) 
Địa chỉ: 
Tỉnh khác 
Tp.HCM 
118 (95,9) 
5 (4,1) 
243 (98,4) 
4 (1,6) 
361 (97,6) 
9 (2,4) 
Nghề nghiệp: 
Nội trợ 
Nông dân 
Công nhân 
Công nhân viên 
Buôn bán 
Khác 
36 (29,3) 
19 (15,4) 
32 (26) 
14 (11,4) 
12 (9,8) 
10 (8,1) 
65 (26,3) 
27 (10,9) 
77 (31,2) 
40 (16,2) 
19 (7,7) 
19 (7,7) 
101 (27,3) 
46 (12,5) 
109 (29,4) 
54 (14,6) 
31 (8,4) 
29 (7,8) 
Số lần sinh: 
Chưa lần nào 
1 lần 
≥ 2 lần 
47 (38,2) 
35 (28,5) 
41(33,3) 
120 (48,6) 
72(29,1) 
55(22,3) 
167(45,1) 
107(28,9) 
96(26) 
Bệnh nhân trong nghiên cứu tập trung chủ 
yếu ơ các tỉnh thành ngoài Tp. Hồ Chí Minh 
(97,6%), trong độ tuôi sinh sản (29,3±8), nghề 
nghiệp chủ yếu là công nhân (29,5%) và nội trợ 
(27,4%). Về tiền căn, có 45,1% bệnh nhân chưa 
sanh lần nào, 26% bệnh nhân sanh từ 2 lần trơ 
lên, không có ca nào có tiền căn bệnh nguyên 
bào nuôi. Về lâm sàng, không có bệnh nhân nào 
trong nghiên cứu bị tiền sản giât, cường giáp, 
thuyên tắc tế bào nuôi, 1 ca có nang hoàng tuyến 
≥6cm; có 10,8% bệnh nhân có kích thước tử cung 
trước hút nạo lớn hơn tuổi thai. Nồng độ β hCG 
trước hút khá dao động, giá trị lớn nhất là 
1500000mIU/mL, giá trị nhỏ nhất 2647 mIU/mL. 
Nồng độ β hCG trung bình trước hút nạo ở 2 
nhóm chênh lệch khá nhiều (nhóm bệnh: 403678 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 53
mIU/mL, nhóm chứng: 239999 mIU/mL), nhóm 
bệnh gấp 1,68 lần nhóm chứng. Thời gian trung 
bình để chẩn đoán TSNBN là 6,2 tuần, sớm nhất 
là 1 tuần, muộn nhất là 14 tuần, hơn 50% trường 
hợp phát hiện TSNBN sau 6 tuần. 
Nồng độ -hCG sau hút nạo 
Bảng 2. So sánh nồng độ -hCG sau hút nạo 2 tuần - 
4 tuần ở 2 nhóm 
 Kết quả N Trung 
bình 
 P(*) 
Nồng độ β-hCG 
sau hút HN 2 tuần 
Nhóm chứng 247 1153,91 P=0.000 
Nhóm TSNBN 123 12619,15 
Tỷ số β-hCG 
trước-sau HN 2 
tuần 
Nhóm chứng 247 175 P=0.000 
Nhóm TSNBN 123 34 
Nồng độ β-hCG 
sau HN 4 tuần 
Nhóm chứng 247 213,7 P=0,000 
Nhóm TSNBN 123 6554 
Tỷ số β-hCG 
trước-sau HN 4 
tuần 
Nhóm chứng 247 629 P=0,000 
Nhóm TSNBN 123 46 
(*): phép kiểm Student so sánh 2 trung bình 
Vì thời gian trung bình để chẩn đoán 
TSNBN là 6,2 tuần, nên khảo sát -hCG ở thời 
điểm 2 tuần và 4 tuần để tiên đoán TSNBN là 
thích hợp nhất. Nồng độ hCG sau hút nạo 2 
tuần (4 tuần) và tỷ số -hCG trước-sau HN 2 
tuần (4 tuần) ở 2 nhóm có sự khác biệt có ý 
nghĩa (P=0,000). Đường cong ROC được xây 
dựng để xác định giá trị tiên đoán TSNBN của 
hCG sau HN. 
BÀN LUẬN 
Nồng độ β-hCG sau HN 4 tuần có giá trị tiên 
đoán tốt nhất với AUC=0,89 (95% CI: 0,86-0,93), 
thứ hai là tỷ số nồng độ β-hCG trước-sau HN 4 
tuần (AUC=0,86 (95% CI: 0,82-0,90)). Nồng độ β-
hCG sau HN 2 tuần và tỷ số β-hCG trước-sau 
HN 2 tuần giá trị tiên đoán hơi thấp hơn với 
AUC lần lượt là 0,8 (95% CI: 0,75-0,84) và 0,75 
(95% CI: 0,69-0,80). Mặc dù thời điểm 4 tuần sau 
HN tiên đoán TSNBN tốt hơn so với 2 tuần, 
nhưng với mục tiêu tiên đoán sớm để sàng lọc 
BN nên chúng tôi ưu tiên sử dụng β-hCG ở 2 
tuần vì lí do: sớm hơn, giá trị sàng lọc khá tốt, 
phù hợp với thực trạng hiện tại của nơi theo dõi. 
Đồng thời với kết quả AUC tốt ở thời điểm 4 
tuần thì chúng tôi sẽ đưa nó làm giá trị tham 
khảo, phục vụ cho việc tiên đoán trong những 
trường hợp BN quên tái khám 2 tuần hay tái 
khám lệch hẹn 2 tuần quá nhiều ngày (>2 ngày). 
Diện tích dưới đường cong ROC là giá trị 
phản ánh tốt nhất mô hình tiên đoán bệnh. 
Trong phép tiên đoán dựa vào nồng độ βHCG 
sau 2 tuần hút nạo, NC của chúng tôi có giá trị 
AUC (AUC=0,80; 95% CI: 0,75-0,84) tương 
đương nghiên cứu của Mousavi(1) (AUC=0,80; 
95% CI: 0,77-0,83) và cao hơn NC Kang(2) 
(AUC=0,74; 95% CI: 0,68-0,80). Với AUC ở mức 
tốt, chúng tôi tin rằng nồng độ βhCG sau hút 
nạo 2 tuần thực sự có giá trị trong tiên đoán 
TSNBN hậu TT. Điểm cắt nồng độ β-hCG sau 
HN 2 tuần của chúng tôi thấp hơn so với điểm 
cắt của Mousavi(1) (700mIU/ml so với 801 
mIU/ml). So với nghiên cứu của Mousavi, NC 
của chúng tôi có độ nhạy tương đương (79% so 
với 79,82%), độ đặc hiệu thấp hơn (69%-71,64%). 
Từ đây đưa ra kết luận chúng ta có thể sử dụng 
nồng độ β-hCG từ thời điểm 2 tuần để tiên đoán 
sớm TSNBN hậu TT với mức β hCG để tiên 
đoán là 700mIU/ml, Sn=79%, Sp=69%, PPV=55%, 
NPV=87%. Chúng ta chấp nhận nguy cơ bỏ sót 
bệnh ở mức thấp, sàng lọc bệnh nhân tốt để theo 
dõi sát hơn nữa, rút ngắn khoảng thời gian theo 
dõi (1 tuần) hay có thể điều trị sớm những ca 
trong nhóm được tiên đoán TSNBN. 
Chúng ta cũng cần quan tâm đến mức độ giảm 
của nồng độ β hCG sau HN giữa 2 nhóm 
TSNBN và nhóm lui bệnh tự nhiên, một số 
nghiên cứu của Kim(12), Lybol(8) tập trung quan 
tâm tốc độ giảm β hCG cho thấy đường cong 
giảm βhCG ở 2 nhóm là khác nhau. Riêng 
nghiên cứu chúng tôi cũng như của Kang, 
Mousavi thực hiện việc so sánh tỷ số nồng độ β-
hCG trước-sau HN 2 tuần ở 2 nhóm. Kết quả cho 
thấy: tỷ số nồng độ β-hCG trước-sau HN 2 tuần 
có giá trị tiên đoán TSNBN, với hiệu quả của 
phép tiên đoán ở mức khá (AUC1=0,75), so với 2 
nghiên cứu còn lại AUC= 0,78 (Mousavi), 
AUC=0,77 (Kang) thì gần tương đương. Điểm 
cắt tìm được trong NC chúng tôi là 340, cao hơn 
so với của Mousavi (250). Từ đây chúng tôi có 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 54
được mô hình tiên đoán cụ thể: Bệnh nhân sau 
hút nạo thai trứng có tỷ số nồng độ β-hCG trước-
sau HN 2 tuần ≤ 340 tiên đoán TSNBN, với độ 
nhạy = 77%, độ đặc hiệu = 64%, giá trị tiên đoán 
dương = 52%, giá trị tiên đoán âm =85% (Bảng 3). 
Bảng 3. Điêm cắt lí tưởng và các chỉ số của các phép tiên đoán 
Tiêu chuẩn Sn 
(95%CI) 
Sp 
(95% CI) 
PPV 
(95% CI) 
NPV 
(95% CI) 
-hCG sau HN 2 tuần (mIU/mL) 
≥ 700 so với < 700 
78,86 
(70,58-85,70) 
68,52 
(62,23-74,17) 
55,43 
(50,32-60,42) 
86,67 
(82,06-90,23) 
Tỷ số -hCG trước-sau HN 2 tuần 
 340 so với < 340 
77,24 
(68,81-86,39) 
63,97 
(57,64-69,96) 
51,63 
(65,98-77,91) 
84.95 
(86,99-93,62) 
-hCG sau HN 4 tuần (mIU/mL) 
≥ 148 so với < 148 
82,79 
(75,09-89,11) 
84,21 
(79,05-88,22) 
72,34 
(68,10-80,51) 
90,83 
(85,74-92,42) 
Tỷ số -hCG trước-sau HN 4 tuần 
 1345 so với < 1345 
78,69 
(70,58-85,70) 
83,81 
(78,61-88,17) 
70,80 
(64,28-76,57) 
88,84 
(85,34-92,34) 
Biểu đồ 1. Đường cong ROC biểu diễn mối liên quan giữa TSNBN và -hCG sau HN 
Bảng 4. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan TSNBN 
Đặc điểm TSNBN (N=123) Nhóm chứng (N=247) OR (*) P (**) 
Nguy cơ TT theo WHO 1983 
Cao 
Thấp 
63 (23%) 
60(62,5%) 
211 (77%) 
36(37,5%) 
1 
4,22 
0,002 
Nồng độ β-hCG sau HN 2 tuần 
≥ 700 mIU/mL 
<700 mIU/mL 
25 (13,5%) 
98 (53%) 
160 (86,5%) 
87 (47%) 
1 
3,95 
0,044 
Tỷ số β-hCG trước-sau 2 tuần 
 340 
> 340 
25 (15,9%) 
98 (46%) 
132 (84,1%) 
115 (54%) 
1 
5,1 
0,000 
Nghiên cứu chúng tôi có cùng xu hướng 
kết quả với những NC nước ngoài khi giá trị 
tuyệt đối nồng độ β-hCG sau HN 2 tuần có giá 
trị tiên đoán tốt hơn so với tỷ số nồng độ β 
hCG trước-sau hút nạo 2 tuần. Vì vậy nếu sử 
dụng mô hình tiên đoán để sàng lọc bệnh nhân 
đang theo dõi hậu TT tuần thứ 2 thì chúng tôi 
ưu tiên giá trị tuyệt đối hơn tỷ số. 
Để kiểm tra các yếu tố gây nhiễu và đồng 
tác, chúng tôi đưa 10 yếu tố có P<0,25 vào phân 
tích đa biến. Kết quả: sau khi kiểm soát các yếu 
tố khác thì với điểm cắt nồng độ β-hCG sau HN 
2 tuần ≥700 mIU/mL và tỷ số nồng độ β-hCG 
trước-sau HN 2 tuần ≤ 340 cho thấy: Bệnh nhân 
AUC1=0,75 
AUC2=0,80 
AUC3=0,86 
AUC4=0,89 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 55
hậu thai trứng có nồng độ β-hCG sau HN 2 tuần 
≥700mIU/mL có nguy cơ TSNBN gấp 3,95 lần 
bệnh nhân có β-hCG <700 mIU/mL. Bệnh nhân 
hậu thai trứng có tỷ số nồng độ β-hCG trước-sau 
HN 2 tuần 340 có nguy cơ TSNBN gấp 5,1 lần 
bệnh nhân có tỷ số >340 (Bảng 4). 
KẾT LUẬN 
Số liệu nghiên cứu từ 123 ca TSNBN và 247 
ca lui bệnh tự nhiên được lấy từ tháng 7-2016 
đến 12-2017 chỉ ra rằng: Giá trị tiên lượng 
TSNBN của nồng độ β-hCG sau hút nạo tuần 
thứ 2 có AUC=0,8, với điểm cắt: 700 mIU/mL, độ 
nhạy=79%, độ chuyên=68%. Giá trị tiên lượng 
TSNBN của tỷ số nồng độ β-hCG trước-sau hút 
nạo tuần thứ 2 có AUC=0,75, với điêm cắt: 340, 
độ nhạy=77%, độ chuyên=64%. 
TAI LIỆU THAM KHẢO 
1. Barber EL, Soper JT (2017). “Gestational trophoblastic 
Disease”. Clinical Gynecologic Oncology, 9th ed, pp. 163-191, 
Philadelphia, PA. 
2. Berkowitz RS, Goldstein DP (2012). “Gestational 
trophoblastic Disease. In: Jonathan SB. Berek and Novak’s 
Gynecology”. Lippincott Williams & Wilkins, 15th ed, pp. 2537-
2570. 
3. Bracken MB, Brinton LA, Hayashi K (1984). "Epidemiology 
of hydatidiform mole and choriocarcinoma". Epidemiol Rev, 
6, pp. 52-75. 
4. Dương Thị Cương (1998). "Gestational trophoblastic disease 
in Vietnam prevalence, clinical features, management". Int J 
Gynecol Obstet, 60 (1): 129-136. 
5. Kang WD, Choi HS, Kim SM (2012). "Prediction of 
persistent gestational trophobalstic neoplasia: the role of 
hCG level and ratio in 2 weeks after evacuation of complete 
mole”. Gynecol Oncol, 124 (2), pp. 250-3. 
6. Kim BW, Cho H, Kim H, Nam EJ, Kim SW et al (2012). 
"Human chorionic gonadotrophin regression rate as a 
predictive factor of postmolar gestational trophoblastic 
neoplasm in high-risk hydatidiform mole: a case-control 
study”. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, 160 (1), pp. 100-5. 
7. Lurain JR (2010). “Gestational trophoblastic disease I: 
epidemiology, pathology, clinical presentation and 
diagnosis of gestational trophoblastic disease, and 
management of hydatidiform mole”. Am J Obstet Gynecol, 
203(6): 531 – 9. 
8. Lybol C, Sweep FC, Ottevanger PB, Massuger LF, Thomas 
CM (2013). "Linear regression of postevacuation serum 
human chorionic gonadotropin concentrations predict 
postmolar gestational trophoblastic neoplasia”. Int J Gynecol 
Cancer, 23(6), pp. 1150-6. 
9. Morrow CP, Kletzky OA, Disaia PJ, Townsend DE, Mishell 
DR, Nakamura RM (1977). “Clinical and laboratory 
correlates of molar pregnancy and trophoblastic disease”. 
Am J Obstet Gynecol; 128:424– 30. 
10. Mousavi AS, Karimi S, Modarres Gilani M, Akhavan S, 
Rezayof E (2014). "Does Postevacuation β-Human Chorionic 
Gonadotropin Level Predict the Persistent Gestational 
Trophoblastic Neoplasia?”. Obstet Gynecol, 2014. 
11. Palmer JR (1994). "Advances in the epidemiology of 
gestational trophoblastic disease". J Reprod Med, 39, pp. 155-
162. 
12. Smith EB, Szulman AE, Hinshaw W, Tyrey L, Surti U, 
Hammond CB (1984). Human chorionic gonadotropin 
levels in complete and partial hydatidiform moles and in 
nonmolar abortuses. Am J Obstet Gynecol, 149:129-32. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019