Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 56
TỶ LỆ THIẾU MÁU THIẾU SẮT Ở PHỤ NỮ MANG THAI 3 THÁNG ĐẦU 
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH BÌNH THUẬN 
Trần Văn Vũ*, Võ Minh Tuấn** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thiếu máu thiếu sắt trong thai kì có thể làm gia tăng nguy cơ sẩy thai, sanh non, thai suy dinh 
dưỡng, băng huyết sau sanh, nhiễm trùng hậu sản hay hậu phẫu. Cần nghiên cứu xác định tỉ lệ thiếu máu thiếu 
sắt, yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang kết hợp giả thực nghiệm được thực hiện từ tháng 
10/2017 đến tháng 03/2018. Đối tượng nghiên cứu là tất cả phụ nữ mang thai 3 tháng đầu đến khám thai tại 
khoa sản bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận. Thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ được định nghĩa là nồng độ 
Hemoglobin máu < 11g/dl và Ferritin huyết thanh < 12 ng/ml. Sau khi tư vấn, sản phụ đồng thuận được hướng 
dẫn đến phòng xét nghiệm lấy máu làm huyết đồ và định lượng Ferritin. Thông tin khác được thu thập qua 
phỏng vấn trực tiếp thai phụ bằng bảng câu hỏi soạn sẵn. 
Kết quả: Khảo sát 388 mẫu, tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt là 24%. Các yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu sắt 
có ý nghĩa thống kê như: Nhóm lao động chân tay (PR=2,72), nhóm có tiền căn mắc bệnh tiêu hóa (PR=1,9), 
nhóm có hai con (PR=2,45). Sau một tháng điều trị 48,4% trường hợp đạt Hb ≥ 11g/dl. 
Kết luận: Nên đưa xét nghiệm Hemoglobin và định lượng Ferritin thường qui cho thai phụ mang thai 3 
tháng đầu để tầm soát thiếu máu thiếu sắt. Phát hiện và điều trị sớm nhằm giảm nguy cơ cho thai phụ và thai 
nhi. 
Từ khóa: thai phụ, thiếu máu thiếu sắt 
ABSTRACT 
THE PREVALENCE OF IRON-DEFICIENCY ANEMIA IN THE FIRST THREE MONTHS OF 
PREGNANT WOMEN AT BINH THUAN GENERAL HOSPITAL 
Tran Van Vu, Vo Minh Tuan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 56 - 62 
Objectives: Iron-deficiency anemia during pregnancy may increase the risk of miscarriage, preterm labor, 
malnutrition, postpartum haemorrhage, postpartum or postoperative infection. We are in need of a study to 
determine the prevalence and related factors of iron deficiency anemia among first- trimester pregnancies. 
Methodology: A cross-sectional study was conducted from October 2017 to March 2018. The study 
subjects were all pregnant women at the first 3 months of pregnancy who visited the obstetrical department of 
Binh thuan General Hospital. Iron-deficiency anemia during pregnancy is defined as Hemoglobin<11g/dl and 
Ferritin serum concentration<12ng/ml. After counseling, the subjects were tested for blood chart and quantitative 
ferritin. Other information was collected through face-to-face interviews using the prepared questionnaire. 
Result: Survey 388 samples, the rate of iron deficiency anemia is 24%. Factors related to iron deficiency 
anemia were statistically significant such as: Group of blue labor (PR = 2.72), group with history of 
gastrointestinal disease (PR = 1.9), group with two children (PR = 2.45). After one month of treatment, 48.4% of 
the cases had Hb ≥ 11g / dl. 
*Bệnh viện đa khoa Bình Thuận, **BM Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS TS BS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 57
Conclusion: Hemoglobin and ferritin testing should be routinely administered to pregnant women in the 
first trimester for screening of iron deficiency anemia. Early detection and treat for iron deficiency anemia could 
reduce the risks for pregnant women and fetus. 
Keywords: pregnant women, iron deficiency anemia 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thiếu máu là tình trạng giảm lượng huyết 
sắc tố và số lượng hồng cầu trong máu ngoại vi 
dẫn đến thiếu oxy cung cấp cho các mô tế bào 
trong cơ thể. Thiếu máu do thiếu sắt là tình trạng 
xảy ra khi hồng cầu bị giảm cả về số lượng và 
chất lượng do thiếu sắt(19). 
Thiếu máu do thiếu sắt là một bệnh rất phổ 
biến tác động đến hàng tỷ người trên thế giới, 
đặc biệt là phụ nữ tuổi sinh đẻ, phụ nữ mang 
thai và trẻ nhỏ. Thiếu máu thiếu sắt trong thai kì 
có thể làm gia tăng nguy cơ sẩy thai, sanh non(7), 
thai suy dinh dưỡng(14), băng huyết sau sanh, 
nhiễm trùng hậu sản hay hậu phẫu(8,9), nhiều 
trường hợp nguy kịch dẫn đến tử vong cho mẹ 
và thai nhi(13). Ngoài ra, trẻ sơ sinh ở mẹ bị thiếu 
máu cũng có nguy cơ bị thiếu máu nhất là trong 
năm đầu tiên của cuộc sống(6,12). Nghiên cứu 
của Black và cộng sự năm 2008 cũng cảnh báo 
rằng trước khi tình trạng thiếu máu xảy ra, thiếu 
sắt có thể đã làm ảnh hưởng đến các chức năng 
khác như hệ thống miễn dịch, hệ thống thần 
kinh, làm giảm khả năng miễn dịch, giảm hoạt 
động thể chất và suy giảm nhận thức(1,2,11). 
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ 
lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai rất cao, và 
thường là thiếu máu mức độ nặng, trong đó 
thiếu máu do thiếu sắt chiếm đa số, theo thống 
kê của Tổ Chức Y Tế Thế Giới đã cho biết tỷ lệ 
thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ tại Việt Nam 
trong năm 2002 là 45 – 47%(20). Mặc dù từ những 
năm 1995 đã thực hiện chương trình bổ sung 
viên sắt trong thai kì trên toàn lãnh thổ, tuy 
nhiên theo thống kê của Viện dinh dưỡng năm 
2008, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang 
thai vẫn còn cao, chiếm 31,4%, tập trung các 
vùng núi phía Bắc, phía Tây Bắc và vùng Bắc 
ven biển Miền Trung nơi có tỷ lệ thiếu máu ở 
phụ nữ mang thai ở mức nặng (lần lượt là 45,7% 
và 44,1%) và thấp nhất là khu vực Đông Nam Bộ 
(24%)(17). Tại Thành phố Hồ Chí Minh trong 
nghiên cứu năm 2000 được tiến hành trên 2084 
thai phụ cho biết tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có 
thai khoảng 38%(15). Gần đây là các báo cáo tỷ lệ 
thiếu máu thiếu sắt tại tỉnh Bạc Liêu(10) và Mỹ 
Tho – Tiền Giang(4) lần lượt là 23,75% (2010) và 
17,36% (2011). 
Bình Thuận là một tỉnh duyên hải cực Nam 
Trung Bộ Việt Nam, với khí hậu nhiều nắng, 
nhiều gió, nằm trong vùng khô cằn nhất cả 
nước, dân cư tỉnh phân bố không đồng đều giữa 
các huyện, thị xã, thành phố đã tạo nên sự phân 
hóa rõ rệt về kinh tế trong vùng, từ đó phân hóa 
chế độ ăn uống dinh dưỡng khác nhau ở các 
tầng lớp dân cư khác nhau cũng như sự đa dạng 
về các dân tộc trong tỉnh. Tuy đã có chương 
trình bổ sung viên sắt trong thai kì theo khuyến 
nghị của Bộ Y Tế, nhưng không phải thai phụ 
nào cũng có điều kiện thực hiện. Cho tới nay, tại 
Bình Thuận vẫn chưa có nghiên cứu về vấn đề 
thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ. Vì vậy, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu “Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt 
ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại Bệnh viện đa 
khoa tỉnh Bình Thuận” với câu hỏi nghiên cứu: Tỷ 
lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai phụ trong 3 tháng 
đầu ở tỉnh Bình Thuận là bao nhiêu? 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu chính: Xác định tỷ lệ thiếu máu do 
thiếu sắt ở thai phụ 3 tháng đầu thai kì đến 
khám ở BV Đa Khoa Bình Thuận từ tháng 
10/2017 đến tháng 3/2018. 
Mục tiêu phụ: Khảo sát các yếu tố liên quan 
đến tình trạng thiếu máu thiếu sắt và đánh giá 
hiệu quả điều trị thiếu máu do thiếu sắt sau một 
tháng điều trị. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Phần 1: Nghiên cứu cắt ngang. 
Phần 2: Nghiên cứu giả thực nghiệm (Quasi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 58
Experimental Study). 
Dân số nghiên cứu 
Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu. 
Tất cả các thai phụ đến khám thai tam cá 
nguyệt đầu ở bệnh viện đa khoa Bình Thuận. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tất cả các thai phụ đến khám thai tam cá 
nguyệt đầu ở bệnh viện đa khoa Bình Thuận 
khoảng thời gian từ tháng 10/2017 đến tháng 
3/2018, đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân đang điều trị các bệnh lý mạn 
tính khác, đang mắc các bệnh: nhiễm trùng cấp, 
sốt rét, bệnh tim, gan, thận, ung thư, lao, viêm 
loét dạ dày - thực quản, thiếu máu tán huyết di 
truyền (Thalassemia) hoặc bị hạn chế về sức 
khỏe và tâm lý (câm điếc, không hiểu ngôn ngữ, 
tâm thần). 
Cỡ mẫu 
Phần 1 
Ước tính cỡ mẫu theo công thức tỷ lệ trong 
quần thể với độ chính xác tuyệt đối: 
N = Z2(1-α
2
)
p (1-p)
d2
Z = 1,96, p = 0,5 để cỡ mẫu lớn nhất, d=0,05 => n = 384. 
Phần 2 
Công thức tính cỡ mẫu là công thức so sánh 
2 trung bình của một nhóm đối tượng trước và 
sau điều trị: 
n = 2 x (1-r) x C/(ES)2 
r = 0,6; C = 7,85; E/s = 1/3 => n = 70. Dự kiến mất dấu 
15% nên cần 80 trường hợp. 
Phương pháp nhận bệnh và thu thập số liệu 
Tất cả các thai phụ đến khám tại phòng 
khám sản phụ khoa của Bệnh viện đa khoa tỉnh 
Bình Thuận từ 07g00 đến 16g00 hàng ngày (từ 
thứ 2 đến thứ 6) trong khoảng thời gian từ tháng 
10/2017 đến tháng 3/2018 và thỏa tiêu chuẩn 
chọn mẫu cũng như loại ra những đối tượng 
nằm trong các tiêu chuẩn loại trừ để chúng tôi 
chọn ra được các đối tượng phù hợp để mời 
tham gia nghiên cứu. Nếu thai phụ đồng ý tham 
gia nghiên cứu thì chúng tôi sẽ đưa thai phụ ký 
bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu, phát tờ 
rơi về thiếu máu thiếu sắt và tiến hành phỏng 
vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi soạn sẵn. Sau 
đó, nhóm nghiên cứu hướng dẫn thai phụ đến 
phòng xét nghiệm để được kỹ thuật viên của 
bệnh viện lấy máu làm xét nghiệm. 
Các thai phụ không bị thiếu máu thiếu sắt sẽ 
được uống bổ sung ngày 1 viên chứa 60mg sắt 
và 400µg acid folic trong suốt thời gian có thai 
đến hết 3 tháng sau sanh đối với phụ nữ cho con 
bú. Chúng tôi ghi nhận kết quả vào bảng thu 
thập số liệu và hoàn thành giai đoạn 1 của 
nghiên cứu xác định tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt. 
Nếu sản phụ bị thiếu máu thiếu sắt sẽ được tư 
vấn tham gia giai đoạn hai của nghiên cứu nhằm 
đánh giá hiệu quả điều trị thiếu máu thiếu sắt. 
Chúng tôi phát phiếu nhật ký sử dụng thuốc 
để theo dõi việc sử dung thuốc và ghi nhận các 
tác dụng phụ nếu có như dị ứng thuốc, buồn 
nôn, nôn, táo bón, tiêu chảy có thể xảy ra sẽ 
được tư vấn cho thai phụ khi được cấp phát 
thuốc. Đồng thời chúng tôi sẽ hẹn thai phụ đến 
tái khám là 1 tháng sau. Tất cả thai phụ khi đến 
tái khám được lấy máu làm lại xét nghiệm công 
thức máu để đánh giá hiệu quả điều trị thông 
qua sự gia tăng nồng độ Hemoglobin. 
Sau khi đã thu thập đủ số liệu, chúng tôi tiến 
hành tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu và viết 
báo cáo. Các số liệu thô ban đầu sẽ được lọc cho 
phù hợp với việc phân tích sau đó nhập và xử lý 
số liệu bằng phần mềm Sata 10. Phân tích gồm 2 
bước: bước 1 mô tả và phân tích đơn biến; bước 
2 dùng mô hình hồi quy đa biến nhằm kiểm soát 
yếu tố gây nhiễu để tính PR hiệu chỉnh (PR*) cho 
các biến số. Các phép kiểm đều thực hiện với độ 
tin cậy 95%. 
KẾT QUẢ 
Tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt thai kỳ 
Trong tổng số 388 sản phụ tham gia nghiên 
cứu có 93 sản phụ bị thiếu máu thiếu sắt chiếm 
tỷ lệ 24% [19,7 – 28,2]. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 59
Phân tích yếu tố liên quan 
Nhằm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu, chúng 
tôi đưa các yếu tố có P <0,25 trong phân tích đơn 
biến vào hồi qui đa biến.Tổng cộng 6 biến độc 
lập được sử dụng, trong đó có 3 yếu tố liên quan 
có ý nghĩa thống kê với tình trạng thiếu máu 
thiếu sắt trong thai kỳ như trình bày ở trên. 
Bảng 2. Phân tích hồi quy đa biến mối liên quan giữa thiếu máu thiếu sắt và các biến số 
Đặc điểm Không thiếu máu n = 295 (%) Thiếu máu n = 93 (%) PR KTC 95% P* 
Nghề nghiệp: 
Nội trợ 
LĐ trí óc 
LĐ chân tay 
135 (83,9) 
57 (76,0) 
295 (36,0) 
26 (16,1) 
18 (24,0) 
49 (32,3) 
1 
1,80 
2,72 
0,61 – 5,35 
1,09 – 6,77 
0,285 
0,031 
Học vấn: 
Câp I 
Cấp II –III 
ĐH, sau ĐH 
13 (68,4) 
140 (71,8) 
142 (81,6) 
6 (31,6) 
55 (28,2) 
32 (18,4) 
1 
0,75 
0,98 
0,25 – 2,21 
0,25 – 3,80 
0,606 
0,987 
Bệnh tiêu hóa: 
Không 
Có 
251 (78,7) 
44 (63,8) 
68 (21,3) 
25 (36,2) 
1 
1,90 
1,05 – 3,46 
0,034 
Số con: 
Chưa con 
1 con 
≥ 2 con 
153 (78,9) 
114 (77,6) 
28 (59,6) 
41 (21,1) 
33 (22,4) 
19 (40,4) 
1 
1,15 
2,45 
0,66 – 1,98 
1,17 – 5,13 
0,136 
0,017 
Ăn uống đầy đủ: Không 
 Có 
12 (91,7) 
284 (75,5) 
1 (8,3) 
92 (24,5) 
1 
5,94 
0,67 – 52,2 
0,108 
Thay đổi cân nặng: 
Không thay đổi 
Giảm cân 
Tăng cân 
152 (75,6) 
73 (70,9) 
70 (83,3) 
49 (24,4) 
30 (29,1) 
14 (16,7) 
1 
1,41 
0,64 
0,83 – 2,61 
0,32 – 1,28 
0,176 
0,211 
(*) Poisson đa biến 
Hiệu quả điều trị thiếu máu thiếu sắt 
Sau điều trị 1 tháng, tỉ lệ sản phụ đạt nồng 
độ Hb ≥ 11g/dl là 48,4%. 
Kết quả cho thấy cả hai nhóm đều có nồng 
độ Hemoglobin tăng lên sau điều trị có ý nghĩa 
thống kê so với trước điều trị, p < 0,05. 
Bảng 3. Nồng độ Hemoglobin trung bình trước và 
sau điều trị một tháng 
Mức độ 
TM 
Trước điều trị Sau điều trị KTC 95% P* 
Nhẹ 10,48 ± 0,28 11,37 ± 0,58 0,75 – 1,01 0,001 
Trung 
bình 
8,68 ± 0,98 9,45 ± 1,26 0,53 – 1,00 0,001 
Tổng 9,98 ± 0,99 10,83 ± 1,19 0,74 – 0,96 0,001 
(*) Paired-Samples T-test 
Biểu đồ 2. Tỷ lệ điều trị hết thiếu máu sau một tháng 
hết thiếu máu còn thiếu máu 
45/93 
48,4% [38,1 - 58,7] 
48/93 
51,6% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 60
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, với tổng số 
388 sản phụ tham gia, có 93 sản phụ bị thiếu 
máu thiếu sắt chiếm tỷ lệ 24%. Kết quả này cũng 
khá phù hợp so với một số nghiên cứu trong 
nước: Tác giả Vương Thị Ngọc Lan thực hiện 
nghiên cứu tại 6 quận nội thành và 3 quận ngoại 
thành tại TP. Hồ Chí Minh ghi nhận tỷ lệ thiếu 
máu thiếu sắt là 20,1%. Năm 2010 tác giả Phạm 
Thị Đan Thanh về tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai 
phụ 3 tháng đầu thai kỳ và các yếu tố liên quan 
tại tỉnh Bạc Liêu tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 
23,75%(10). 
Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt của nghiên cứu 
chúng tôi thấp hơn so với một số tác giả nghiên 
cứu trong khoảng những năm 1996 – 2003: 
Dương Thị Nhan, Đặng Thị Hà, Trương Thị 
Phương, Ritsuko Aikawa. Có lẽ có sự khác nhau 
này là do cách chọn mẫu và thời điểm nghiên 
cứu. Tại thời điểm 1996 – 2003 chương trình bổ 
sung sắt thai kỳ mới chỉ bắt đầu chưa thật sự 
phát triển mạnh và đồng bộ như hiện nay, thêm 
vào đó do điều kiện kinh tế vẫn hạn hẹp nên 
những bà mẹ vẫn chưa thật sự quan tâm tới dinh 
dưỡng và bổ sung sắt khi mang thai. 
Bảng 1. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ tại Việt Nam 
Tác giả Năm Các vùng Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt (%) 
WHO
(20)
 1995 Việt Nam 45-47 
Vương Thị Ngọc Lan
(18)
 1995 TP. Hồ Chí Minh 20,1 
Dương Thị Nhan
(5)
 1996 An Giang 30,3 
Đặng Thị Hà
(3)
 2000 TP. Hồ Chí Minh 31,53 
Trương Thị Phương
(16)
 2001 Tiền Giang 37,8 
Đoàn Thị Nga
(4)
 2009 Tiền Giang 17,36 
Phạm Thị Đan Thanh
(10)
 2010 Bạc Liêu 23,75 
Chúng tôi 2018 Bình Thuận 24 
Nhìn chung nghiên cứu của chúng tôi 
không có thiếu máu nặng và tỷ lệ thiếu máu 
thiếu sắt đã có giảm hơn so với khoảng 10 năm 
trước đây, nhưng so với một số nghiên cứu 
gần đây thì vẫn còn cao. Điều này cho thấy 
việc tăng cường chương trình chăm sóc sức 
khỏe dinh dưỡng bà mẹ khi mang thai để làm 
giảm tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt thai kỳ tại tỉnh 
Bình Thuận vẫn đang còn là một vấn đề hết 
sức cần thiết và quan trọng. 
Trong nghiên cứu, nghề nghiệp nội trợ và 
lao động chân tay chiếm đa số với tỷ lệ lần lượt 
là 41,5% và 39,2%, thấp nhất là lao động trí óc 
19,3%. Trong 93 trường hợp thiếu máu thiếu sắt 
có tới 31 trường hợp thuốc nhóm lao động chân 
tay chiếm tỷ cao nhất 33,3%. Sau khi tiến hành 
phân tích hồi quy đơn biến và đa biến thì chúng 
tôi nhận thấy có mối liên quan giữa nghề nghiệp 
và tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Nhóm lao 
động chân tay làm tăng nguy cơ thiếu máu thiếu 
sắt lên gấp 2,7 lần so với nhóm nội trợ, sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 2,72; KTC: 1,09 – 
6,77; P = 0,031). Điều này có thể giải thích có thể 
do nhóm nội trợ và lao động trí óc có thời gian 
và có điều kiện hơn trong việc tiếp xúc với 
những thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe, 
từ đó nhận thức tốt vấn đề dinh dưỡng khám 
thai và bổ sung viên sắt nên tỷ lệ thiếu máu 
thiếu sắt ít hơn. Trong khi đó nhóm lao động 
chân tay thì ít có điều kiện tiếp xúc với các dịch 
vụ chăm sóc sức khỏe cho ba mẹ lúc mang thai 
hơn nên nguy cơ thiếu máu thiếu sắt trong thai 
kỳ tăng lên. Một lý do khác có thể nhóm lao 
động chân tay thì thường có thu nhập thấp hơn. 
Thu nhập thấp hàng tháng làm ảnh hưởng đến 
chất lượng bữa ăn, ảnh hưởng đến đời sống kinh 
tế và tinh thần cho sản phụ, phải lao động nhiều 
hơn trong khi chế độ ăn không tương xứng, lâu 
dài là yếu tố thuận lợi dẫn đến tình trạng thiểu 
dưỡng và đặc biệt dễ gây thiếu máu thiếu sắt 
trong thai kỳ. 
Nghiên cứu của chúng tôi phân biến số con 
hiện có làm 4 nhóm: nhóm con so, nhóm đã có 
một con, nhóm đã có hai con và nhóm có từ ba 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 61
con trở lên. Trong bốn nhóm thì nhóm đã có hai 
con có tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt cao nhất 40,9%, 
và thấp nhất là nhóm con so 21,1%. Sau khi tiến 
hành phân tích và đưa vào phương trình hồi quy 
đa biến khử nhiễu chúng tôi nhận thấy số con 
hiện có là một yếu tố ảnh hường tới tỷ lệ thiếu 
máu thiếu sắt. Nhóm sản phụ có hai người con 
tăng nguy cơ thiếu máu thiếu sắt gấp 2,45 lần so 
với nhóm chưa có con. Sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (PR = 2,45; KTC: 1,17 – 5,13; P = 
0,006). Nhu cầu sắt khi có thai tăng gấp 6 lần so 
với khi không mang thai. Mỗi lần mang thai 
người mẹ mất khoảng 1000 mg sắt cho sự phát 
triển sinh lý thai và mất trung bình 500 – 1000 ml 
máu cho mỗi lần sanh. Nếu cung cấp chất sắt 
không đầy đủ, dự trữ sắt ở người mẹ sẽ giảm 
dần và đến thai kỳ sau nguy cơ thiếu máu thiếu 
sắt sẽ tăng lên. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 69 sản 
phụ có tiền căn hoặc đang mắc các bệnh về 
đường tiêu hóa. Sau khi phân tích đa biến chúng 
tôi nhận thấy rằng nhóm có tiền căn hoặc đang 
mắc các bệnh tiêu hóa tăng nguy cơ thiếu máu 
thiếu sắt gấp 1,9 lần so với nhóm không có tiền 
căn mắc bệnh tiêu hóa. Điều này có thể giải thích 
những sản phụ bị mắc bệnh đường tiêu hóa 
thường có cảm giác khó chịu đường ruột, buồn 
nôn, nôn ói, nên con đường cung cấp năng 
lượng đường ăn giảm, con đường cung cấp sắt 
từ thức ăn cũng giảm. Thêm vào đó kèm với 
triệu chứng nghén những sản phụ có tiền căn 
bệnh đường tiêu hóa thường có cảm giác chán 
ăn, sợ ăn nên ăn ít. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các sản phụ 
sau khi được chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt sẽ 
được tư vấn và điều trị bằng viên sắt uống theo 
phác đồ của bệnh viện. Sau một tháng điều trị tỷ 
lệ các sản phụ chuyển từ thiếu máu sang không 
thiếu máu là 48,4%. 
Sau quá trình điều trị nồng độ Hemoglobin 
cũng có sự thay đổi rõ rệt, nhóm thiếu máu nhẹ 
Hb trước điều trị là 10,48 ± 0,28, Hb sau điều trị 
là 11,37 ± 0,58; nhóm thiếu máu trung bình Hb 
trước điều trị là 8,68 ± 0,98, Hb sau điều trị là 
9,45 ± 1,26. Nếu xét tổng 93 trường hợp điều trị 
thì Hb có sự thay đổi theo chiều hướng tăng lên, 
Hb trước điều trị là 9,98 ± 0,99, Hb sau điều trị là 
10,83 ± 1,19. Tất cả sự thay đổi này đều có ý 
nghĩa thống kê (p< 0,05). 
Kết quả của chúng tôi khá tương đồng với 
nghiên cứu của Đặng Thị Hà(3). Tác giả cũng chia 
làm hai nhóm sản phụ thiếu máu, nhóm 1 sử 
dụng liều 100 mg ngày, nhóm 2 sử dụng liều 200 
mg ngày. Sau điều trị một tháng thu được kết 
quả như sau: Hb trước điều trị nhóm 1 là 9,81, 
Hb sau điều trị là 10,47; nhóm 2 Hb trước điều 
trị là 9,82, Hb sau điều trị là 10,2. 
KẾT LUẬN 
Qua thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2017 
đến 03/2018 trên 388 sản phụ tới khám thai tại 
bệnh viện Bình Thuận, chúng tôi đưa ra một số 
kết luận như sau: 
Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 
3 tháng đầu là 24% (KTC 95%: 19,6 – 28,6). 
Một số yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu 
sắt: Nhóm lao động chân tay làm so với nhóm 
nội trợ (PR = 2,72; KTC: 1,09 – 6,77; P = 0,031), 
nhóm có hai con so với nhóm chưa sinh (PR = 
2,45; KTC: 1,17 – 5,13; P = 0,006) và nhóm có tiền 
căn hoặc đang mắc bệnh đường tiêu hóa (PR = 
1,9; KTC: 1,05 – 3,46; P = 0,034). 
Tỷ lệ hết thiếu máu sau một tháng điều trị là 
48,4% (KTC 95%: 37,6 – 59,1). 
Nồng độ Hemoglobin thay đổi trước và 
sau điều trị có ý nghĩa thống kê (trước điều trị: 
9,98 ± 0,99; sau điều trị: 10,83 ± 1,19; KTC -0,96 
– -0,74; p = 0,001). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bhaskaram P (2002). "Micronutrient malnutrition, infection, and 
immunity: an overview". Nutr Rev, 60 (5 Pt 2): pp. S40-5. 
2. Black RE, Allen LH, Bhutta ZA, Caulfield LE, de Onis M et al 
(2008). "Maternal and child undernutrition: global and regional 
exposures and health consequences". Lancet, 371 (9608): 
pp. 243-60. 
3. Đặng Thị Hà (2000). "Tầm soát thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ 
tại TP. Hồ Chí Minh". Luận văn tiến sĩ y học- ĐHYD TPHCM. 
4. Đoàn Thị Nga (2009). "Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt trong ba tháng 
giữa thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Mỹ Tho Tiền Giang". 
Luận văn thạc sĩ y học – ĐHYD TPHCM. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 62
5. Dương Thị Nhan (1996). "Tình hình thiếu máu ở phụ nữ mang 
thai tại bệnh viện Châu Đốc, An Giang". Luận văn tốt nghiệp 
chuyên khoa cấp I – ĐHYD TPHCM. 
6. Elhassan EM, Abbaker AO, Haggaz AD, Abubaker MS, Adam I 
(2010). "Anaemia and low birth weight in Medani, Hospital 
Sudan". BMC Res Notes, 3: pp. 181. 
7. Hallberg L (2002). "Advantages and disadvantages of an iron – 
rich diet". European Journal of Clinical Nutrition, 56(1):pp. 12 – 18. 
8. Isah HS, Fleming AF (1985). "Anemia and iron status of 
pregnant and non-pregnant women in the Guinea Savanna of 
Nigeria". Ann Trop Med Parasitol, 79 (5): pp. 485 – 493. 
9. Msolla JF, J O'Riordan, RJ Newcomebe, EC Coles, JF Pearson 
(1986). "Relation of hemoglobin levels in first and second 
trimesters to outcome of pregnancy". Lancet, 1: pp. 992-5. 
10. Phạm Thị Đan Thanh (2010). "Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai 
phụ 3 tháng đầu thai kỳ và các yếu tố liên quan tại tỉnh Bạc 
Liêu". Luận văn chuyên khoa II – ĐHYD - TPHCM. 
11. Pollitt E, Watkins WE, Husaini MA (1997). "Three-month 
nutritional supplementation in Indonesian infants and toddler’s 
benefits memory function 8 y later". Am J Clin Nutr, 66 (6): pp. 
1357-63. 
12. Rahmati S, Delpishe A, Azami M, Hafezi Ahmadi MR, 
Sayehmiri K (2017). "Maternal Anemia during pregnancy and 
infant low birth weight: A systematic review and Meta-
analysis". Int J Reprod Biomed (Yazd), 15 (3): pp. 125-134. 
13. Ross JS, Thomas EL (1996). "Iron deficiency anemia and 
maternal mortality". Washington; DC. Academy of education 
development. Profile 3 working note series no, 3. 
14. Singla PS, Tyagi M et al (1997). "Fetal growth in maternal 
anemia". Journal of tropical pediatrics, 43: pp. 89 – 92. 
15. Trần Thị Minh Hạnh, Phan Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Nhân 
Thành (2009). "Tình trạng thiếu máu, thiếu sắt ở phụ nữ mang 
thai tại thành phố Hồ Chí Minh". Tạp chí Dinh dưỡng và thực 
phẩm, 5 (1):pp. 14-23. 
16. Trương Thị Phương (2001). "Khảo sát tình hình thiếu máu trong 
thai kỳ tại thành phố Mỹ Tho". Luận văn chuyên khoa II – ĐHYD 
TPHCM. 
17. Viện Dinh Dưỡng (2011). Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 
2009 – 2010. Unicef – Hà Nội, tr.6. 
18. Vương Thị Ngọc Lan (1995). "Thiếu máu ở phụ nữ mang thai". 
Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa, trung tâm đào tạo và bồi dưỡng 
cán bộ y tế thành phố Hồ Chí Minh. 
19. WHO (2001). "Prevention strategies, Iron Deficiency Anemia 
Assessment, Prevention and Control", pp. 46-56. 
20. WHO (2002). "Women's health profie: Vietnam". Women Health 
Series, Manila, 8(24). 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019