Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 154
TỶ LỆ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TRÁNH THAI Ở PHỤ NỮ SAU SINH 
TỪ 01 THÁNG ĐẾN 04 THÁNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
TẠI THỊ XÃ CAI LẬY 
Mai Toàn Nghĩa*, Vũ Thị Nhung** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Áp dụng biện pháp tránh thai (BPTT) trong thời gian hậu sản sớm là rất cần thiết để ngăn ngừa 
các thai kỳ không mong muốn. Nghiên cứu về tình hình phụ nữ sau sinh có áp dụng BPTT là cần thiết cho việc 
cung cấp thông tin về công tác tư vấn kế hoạch hóa gia đình tại thị xã Cai Lậy trong thời gian sắp tới. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ phụ nữ sau sinh từ 01 tháng đến 04 tháng có áp dụng biện pháp tránh thai tại thị 
xã Cai Lậy. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện tại 16 trạm y tế của thị xã Cai Lậy trên 466 phụ nữ sau sinh 
từ 01 tháng đến 04 tháng đưa con đi chích ngừa tại trạm trong thời gian từ 09/2016 đến 01/2017. 
Kết quả: Tỷ lệ áp dụng biện pháp tránh thai sau sinh là 29% [KTC 95% (0,24-0,33)], có sự tăng dần tỷ lệ 
ngừa thai theo thời gian: 1 - 2 tháng: 15% [KTC 95% (0,09 - 0,20)], 2 - 3 tháng: 25,8% [KTC 95% (0,19 - 0,32)], 
3 - 4 tháng: 47,4% [KTC 95% (0,39 - 0,56)]. Sự khác biệt tỷ lệ áp dụng BPTT có ý nghĩa thống kê (χ2=37,6 
p=0,000). Ba phương pháp ngừa thai sau sinh được chọn nhiều là: thuốc uống 11,6%, bao cao su 9,2%, xuất tinh 
ngoài âm đạo 3,6%. Có hai yếu tố liên quan đến tỷ lệ áp dụng BPTT là: thời gian hậu sản (p = 0,000) và nhóm 
tuổi trên 35 áp dụng BPTT ít hơn 63% so với nhóm dưới 35 tuổi (p = 0,012). 
Kết luận: Cần nâng cao kiến thức về BPTT để phụ nữ sau sinh áp dụng tránh thai kỳ không mong muốn. 
Từ khóa: Tránh thai sau sinh. 
ABSTRACT 
THE RATE OF WOMEN USING CONTRACEPTIVE DEVICES DURING ONE-MONTH TO FOUR-
MONTH POSTPARTUM PERIOD AND ASSOCIATED FACTORS IN APPLYING CONTRACEPTIVE 
METHODS IN CAI LAY TOWN 
Mai Toan Nghia, Vu Thi Nhung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 154 - 159 
Background: Applying contraceptive methods during postpartum period is very crucial to prevent unwanted 
pregnancy. Studying on the situation of postpartum contraception is very necessary to provide information about 
family planning consultation at Cai Lay Town in the future. 
Objectives: Determining the rate of women using contraceptive devices during one-month to four-month 
postpartum period and associated factors in applying contraceptive methods in Cai Lay Town. 
Methods: Cross-sectional study was conducted at 16 commune health stations of Cai Lay Town, where 466 
women during their one-month to four-month postpartum period were recruited when they brought their babies to 
the stations for vaccination. The study time was from September 2016 to January 2017. 
Results: The rate of contraceptive use after birth was at 29% [95% CI (0.24-0.33)], with a gradual increase 
in contraceptive prevalence: 1 - 2 months: 15% [95% CI (0.19 - 0.20)], and 3 - 4 months: 47.4% [95% CI (0.39 - 
0.56)]. The difference in the rate of contraceptive use was statistically significant (χ2 = 37.6, p = 0.000). The three 
* Bệnh viện Đa khoa Khu Vực Cai Lậy Tiền Giang ** Hội Phụ sản TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Mai Toàn Nghĩa ĐT: 0908953289 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 155
commonly selected methods of postnatal contraception included pills (11.6%), condoms (9.2%), and withdrawal 
method (3.6%). Two factors associated with contraceptive prevalence were postpartum duration (p = 0.000) and 
age, with the group over 35 years of age using the contraceptive methods less than the group under 35 (p = 0.012). 
Conclusion: Postnatal women’s knowledge about contraceptive methods should be improved so that they can 
avoid unwanted pregnancy. 
Key word: Postpartum contraception. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Áp dụng biện pháp tránh thai (BPTT) trong 
thời gian hậu sản sớm là rất cần thiết vì rụng 
trứng có thể xảy ra trong 3 - 6 tuần sau sinh ở 
phụ nữ không cho con bú(6,9,14), tránh thai hiệu 
quả nên bắt đầu vào ngày 21 sau sinh(10). Việc sử 
dụng BPTT ở phụ nữ sau sinh là rất quan trọng 
để ngăn ngừa các thai kỳ không mong muốn và 
khoảng cách giữa các lần mang thai không quá 
dày. Đối với người sinh con lần đầu, nếu muốn 
sinh thêm thì khoảng cách sinh không nên quá 
ngắn vì khoảng cách này dưới 18-23 tháng sẽ 
ảnh hưởng đến sự phục hồi sức khỏe của mẹ và 
có nhiều rủi ro cho thai nhi như sinh non, thai 
nhi nhẹ cân(15). Nếu đối tượng đã đủ 2 con, có 
thai ngoài ý muốn sẽ dẫn đến tình trạng hoặc 
sinh thêm con thứ 3 hoặc bỏ thai thì lại đối đầu 
với nguy cơ tai biến do nạo hút thai. Khoảng 
cách sinh con ngắn làm tăng tỷ lệ bệnh suất, tử 
suất cho mẹ và con. Áp dụng BPTT sẽ tránh 
được hậu quả bất lợi này(12). 
Tiền Giang là một tỉnh thuộc Đồng bằng 
sông Cửu Long, dân số năm 2016 ước tính là 
1.740.138 người, tăng 0,7% so với năm 2015. Một 
trong những nguyên nhân của việc tăng dân số 
là do tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn 
trong suy nghĩ nhiều người, họ muốn có con trai 
để nối dõi tông đường. Đây thực sự là một thách 
thức đối với công tác dân số trong việc thực hiện 
mục tiêu giảm tỷ lệ sinh con thứ ba. 
Trong hai năm 2014 – 2015, Bệnh viện Đa 
khoa Khu vực Cai Lậy ghi nhận tỷ lệ sinh con 
thứ 3 cao gấp đôi tỷ lệ sinh con thứ 3 chung của 
tỉnh Tiền Giang và có gần 1 nghìn lượt bỏ thai 
ngoài ý muốn. 
Nghiên cứu về tình hình phụ nữ sau sinh có 
áp dụng BPTT là cần thiết cho việc cung cấp 
thông tin về công tác tư vấn KHHGĐ tại thị xã 
Cai Lậy trong thời gian sắp tới. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỷ lệ áp dụng từng loại biện pháp 
tránh thai của phụ nữ sau sinh từ 01 tháng đến 
04 tháng. 
Xác định tỷ lệ dự định áp dụng từng loại 
biện pháp tránh thai của phụ nữ sau sinh từ 01 
tháng đến 04 tháng. 
Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp 
dụng biện pháp tránh thai của phụ nữ sau sinh 
từ 01 tháng đến 04 tháng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang 
Dân số nghiên cứu 
Tất cả phụ nữ trong độ tuổi 15 đến 49 sống 
tại thị xã Cai Lậy. 
Dân số chọn mẫu 
Tất cả phụ nữ trong độ tuổi 15 đến 49 mới 
sinh, sống tại thị xã Cai Lậy đem con đi chích 
ngừa tại một trong 16 trạm Y tế xã thuộc thị xã 
Cai Lậy. 
Tiêu chí nhận vào 
Tất cả phụ nữ trong độ tuổi 15 đến 49 sau 
sinh con từ 1 tháng đến 4 tháng sống tại thị xã 
Cai Lậy, đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chí loại trừ 
Không trả lời được bảng phỏng vấn vì các 
tật: câm, điếc, tâm thần. 
Phụ nữ không cần áp dụng BPTT: thụ tinh 
trong ống nghiệm, cắt tử cung trong lúc mổ sinh, 
ly hôn, chồng chết. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 156
Cỡ mẫu 
2
2
)2/1(
d
)P1(PZ
n
α là sai lầm loại I (α = 0,05). 
P là tỷ lệ mong muốn các ĐTNC áp dụng 
BPTT sớm trong thời gian hậu sản , chọn p=0,5 
(vì muốn có cỡ mẫu lớn nhất). 
d là độ chính xác hay sai số cho phép, chọn 
d=0,05 → n=384. 
Phương pháp chọn mẫu 
Lấy mẫu toàn bộ trong thời gian nghiên cứu 
Nhân sự tham gia nghiên cứu 
Ngoài tác giả còn có 16 cộng tác viên dân số 
là nhân viên của 16 trạm y tế tại thị xã Cai Lậy. 
Quy trình thực hiện nghiên cứu 
Bước 1: Sàng lọc đối tượng nghiên cứu 
Các bà mẹ đem con đến trạm y tế tiêm ngừa 
sẽ được cộng tác viên dân số đón tiếp, hỏi các 
thông tin về hành chính và hướng dẫn làm thủ 
tục tiêm ngừa cho bé. Các bà mẹ thỏa điều kiện 
chọn mẫu sẽ được ghi nhận vào danh sách và 
mời tham gia nghiên cứu. 
Bước 2: Mời bà mẹ tham gia nghiên cứu, nếu 
bà mẹ đồng ý sẽ được ký bảng đồng thuận và 
bắt đầu được phỏng vấn. 
Bước 3: Phỏng vấn và thu thập số liệu. 
Địa điểm phỏng vấn tại phòng theo dõi sau 
tiêm ngừa của trạm y tế. 
Thời gian phỏng vấn: dự kiến 10-15 phút đối 
với mỗi bà mẹ. 
Bảng thu thập số liệu được soạn sẵn dưới 
dạng đóng, một lựa chọn, người phỏng vấn đặt 
câu hỏi, đối tượng nghiên cứu trả lời sẽ được 
người phỏng vấn điền vào bảng thu thập số liệu. 
Đối với những bà mẹ không đồng ý tham 
gia nghiên cứu vẫn được theo dõi phản ứng 
thuốc sau tiêm ngừa theo quy trình tiêm 
chủng của trạm y tế và hướng dẫn các biện 
pháp tránh thai sau sinh nếu họ có yêu cầu. 
Xử lý số liệu 
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm 
thống kê SPSS 16.0. 
Phân tích số liệu gồm 2 bước. 
Bước 1: Mô tả và phân tích đơn biến. 
Bước 2: Phân tích đa biến bằng hồi quy 
logistic nhằm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu. 
Sử dụng khoảng tin cậy 95%. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ 25/09/2016 đến 25/01/2017 
có 466 bà mẹ đem con đi tiêm ngừa thỏa tiêu 
chuẩn chọn mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tỷ lệ áp dụng biện pháp tránh thai sau sinh. 
Bảng 1. Tỷ lệ áp dụng biện pháp tránh thai sau sinh. 
Thời gian hậu sản 
Áp dụng BPTT sau sinh 
Có Không 
Từ 1 tháng đến 2 tháng 21 (15,0%) 119 (85%) 
Từ 2 tháng đến 3 tháng 49 (25,8%) 141 (74,2%) 
Từ 3 tháng đến 4 tháng 65 (47,8%) 71 (52,2%) 
Chung 135 (29%) 331 (71%) 
Tỷ lệ áp dụng từng loại biện pháp tránh thai 
sau sinh 
Bảng 2. Tỷ lệ áp dụng từng loại biện pháp tránh thai 
sau sinh. 
BPTT áp dụng N (%) 
Thuốc uống 54 (40,0%) 
Bao cao su 43 (31,9%) 
Xuất tinh ngoài âm đạo 17 (12,6%) 
Dụng cụ tử cung 13 (9,6%) 
Tính theo chu kỳ kinh 7 (5,2%) 
Thuốc tiêm 1 (0,7%) 
Tổng 135 (100%) 
Áp dụng BPTT hiện đại chiếm 82,2%, truyền 
thống 27,8%, nhiều nhất là thuốc uống và BCS, 
không có đối tượng nghiên cứu nào áp dụng que 
cấy hay đình sản. 
Phụ nữ từ 35 tuổi trở lên áp dụng BPTT 
sau sinh thấp hơn 63% so với những người trẻ 
tuổi hơn. Người cư trú ở phường có khả năng 
tránh thai gấp 1,5 lần người sinh sống ở xã. 
Người học từ cấp 3 trở lên có khả năng thực 
hành tránh thai thấp hơn 35% so với những 
người học vấn kém hơn. Người đã sinh con 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 157
được từ 2 đến 3 tháng có khả năng thực hành 
tránh thai cao hơn 1,93 lần so với những người 
mới sinh con từ 1 đến 2 tháng. Người đã sinh 
con được từ 3 đến 4 tháng có khả năng thực 
hành tránh thai cao hơn 5,25 lần so với những 
người mới sinh con từ 1 đến 2 tháng. 
 Bảng 3. Các yếu tố liên quan đến áp dụng biện pháp tránh thai sau sinh. 
 OR * KTC 95% P* OR** KTC 95% P** 
Nhóm tuổi ≥35 0,47 0,23 - 0,96 0,039 0,37 0,17 - 0,80 0,012 
Địa chỉ ại phường 1,45 0,96 - 2,20 0,08 1,5 0,97 - 2,34 0,07 
Học vấn trên cấp 3 0,81 0,54 - 1,20 0,29 0,65 0,42 - 1,01 0,059 
Thời gian hậu sản 
2 đến 3 tháng 1,97 1,11 - 3,47 0,019 1,93 1,09 - 3,42 0,024 
3 đến 4 tháng 5,18 2,92 - 9,20 < 0,0001 5,25 2,94 - 9,38 <0,001 
*Phân tích đơn biến **Phân tích đa biến 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ áp dụng biện pháp tránh thai sau sinh 
Tỷ lệ áp dụng biện pháp tránh thai sau sinh 
trong nghiên cứu này là 29%, thấp so với nghiên 
cứu của Tống Kim Long (36%)(13), Đỗ Anh Thư 
(77,5%)(8) nhưng lại cao hơn rất nhiều so với 
nghiên cứu của Cao Thị Hạnh Nhân (1,3%)(4) dù 
thời điểm sau sinh với tuổi con trung bình là 5,3 
tháng. Sự khác nhau này có thể do khác biệt về 
đặc trưng đối tượng nghiên cứu. Đối tượng 
nghiên cứu của Đỗ Anh Thư là tất cả phụ nữ có 
chồng trong độ tuổi 15 - 49 còn nghiên cứu này 
đối tượng nghiên cứu là phụ nữ sau sinh từ 1 
đến 4 tháng. 
Các yếu tố liên quan đến áp dụng biện pháp 
tránh thai sau sinh. 
Trong nghiên cứu của Cao Thị Hạnh Nhân, 
đa số đối tượng nghiên cứu có tôn giáo (84,9%) 
trong khi nghiên cứu này thì tỷ lệ không tôn giáo 
chiếm 90,8%. Sự khác biệt về tôn giáo cũng có 
thể dẫn đến sự khác biệt về cách áp dụng 
phương pháp tránh thai sau sinh. 
Tỷ lệ phụ nữ sau sinh áp dụng BPTT trong 
nghiên cứu của Chhabra HK (2016, Ấn Độ) là 
36%, cao hơn nghiên cứu này(5). Sự khác biệt có 
thể do nghiên cứu của Chhabra HK khảo sát đối 
với những phụ nữ sau sinh ở độ tuổi 18-35 trong 
khi nghiên cứu này khảo sát phụ nữ sau sinh độ 
tuổi từ 15-49. 
Theo kết quả nghiên cứu của Dasgupta AN, 
tỷ lệ áp dụng BPTT ở phụ nữ sau sinh tại thời 
điểm 6 tháng ở miền bắc Malawi là 28,4%(7). Theo 
Rutaremwa G ở Uganda, tỷ lệ tránh thai trong 
thời kỳ hậu sản là 28%(11). Theo Abera, Y. tại 
Ethiopia thì tỷ lệ tránh thai trong thời kỳ hậu sản 
từ 6 tuần đến 3 tháng là 20,6%, tăng lên 43,1% 
vào khoảng thời gian 4 đến 6 tháng(1). Tỷ lệ áp 
dụng BPTT sau sinh tăng theo thời gian hậu sản 
tương tự như nghiên cứu này. 
Tỷ lệ dự định áp dụng BPTT sau sinh. 
Trong số 331 đối tượng nghiên cứu không áp 
dụng BPTT có 30,8% (102/331) trả lời lý do chưa 
áp dụng vì họ chưa quan hệ tình dục trở lại và 
đa số đều không thể xác định được thời gian khi 
nào quan hệ tình dục trở lại. Nghiên cứu của 
Anzaku thì thời gian trung bình sinh hoạt tình 
dục trở lại của phụ nữ Nigieria là 8 tuần, sớm 
nhất là trước 3 tuần và trễ nhất là 13 tuần(3). 
Nghiên cứu của Alum AC nghiên cứu tại 
Uganda phụ nữ sau sinh có sinh hoạt tình dục 
trở lại sớm nhất 3 tuần, trễ nhất 24 tuần, tỷ lệ 
quan hệ tình dục trước 6 tuần là 21,9% sau 6 tuần 
là 78,1%(2). 
Có 23,8% ĐTNC (79/331) nghĩ rằng còn quá 
sớm để áp dụng BPTT vì con còn nhỏ hay là 
không thể có thai lại được trong khoảng thời 
gian 4 tháng sau sinh. Thực tế là họ có thể có thai 
trở lại vì rụng trứng ở phụ nữ không cho con bú 
liên tục là 3-6 tuần sau sinh, đang cho con bú 
tăng từ 33-45% trong 3 tháng đầu tỷ lệ này lên 
đến 64-71% từ tháng thứ 4 đến tháng 12. 
Đối với 11,8% ĐTNC (39/331) nghĩ rằng khi 
có kinh trở lại sẽ áp dụng BPTT, thực tế khó xác 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 158
định được thời điểm phóng noãn xảy ra, họ có 
thể có thai trước khi có kinh trở lại. Trong nghiên 
cứu của Tống Kim Long, 67,1% phụ nữ sau sinh 
cho rằng phải chờ có kinh trở lại mới đặt DCTC, 
cao hơn kết quả của nghiên cứu này (11,8%). 
Nghiên cứu Tống Kim Long ghi nhận do nhân 
viên y tế dặn dò các ĐTNC khi có kinh trở lại 
mới đi đặt DCTC. 
Tỷ lệ dự định áp dụng BPTT sau sinh rất cao 
86,7% [KTC 95% (83,8%-90,2%)]. Biện pháp tránh 
thai hiện đại dự định áp dụng gồm thuốc uống 
(44,1%), dụng cụ tử cung (36,1%), bao cao su 
(11,8%), thuốc tiêm (0,3%). Có lẽ vì ưu điểm của 
thuốc nội tiết tránh thai thuộc loại thuốc uống dễ 
sử dụng nên được chọn nhiều nhất. Các phương 
pháp truyền thống như xuất tinh ngoài âm đạo 
chiếm 6,3%, tính chu kỳ kinh chưa đến 1%. 
Không ghi nhận được trường hợp nào dự định 
áp dụng bú vô kinh vì hiệu quả tránh thai giảm 
dần về sau, không có đình sản có thể do tâm lý e 
ngại con còn nhỏ và vì đa số đối tượng nghiên 
cứu còn trẻ dưới 35 tuổi (86,7%). 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ áp dụng BPTT trong thời gian hậu sản 
từ 01 đến 04 tháng tại thị xã Cai Lậy là 29% [KTC 
95% (0,24 - 0,33)], có sự tăng dần tỷ lệ ngừa thai 
theo thời gian. 
- Từ 1 đến 2 tháng: 15% [KTC 95% (0,09 - 0,20)] 
- Từ 2 đến 3 tháng: 25,8% [KTC 95% (0,19 - 
0,32)] 
- Từ 3 đến 4 tháng: 47,8% [KTC 95% (0,39 - 
0,56)] 
Sự khác biệt tỷ lệ áp dụng BPTT có ý nghĩa 
thống kê (χ2=37,6 p=0,000). 
Ba phương pháp ngừa thai sau sinh được 
chọn nhiều là: thuốc uống 11,6%, bao cao su 
9,2%, xuất tinh ngoài âm đạo 3,6%. Ba phương 
pháp ngừa thai ít được chọn hơn là dụng cụ tử 
cung 2,8%, bú vô kinh 1,5%, thuốc tiêm 0,2%. 
Tỷ lệ dự định ngừa thai trong tương lai 
86,7% [KTC 95% (0,83 - 0,90)], ba phương pháp 
ngừa thai được chọn nhiều là thuốc uống 44,1%, 
dụng cụ tử cung 36,1%, bao cao su 11,8%. 
Có hai yếu tố liên quan đến tỷ lệ áp dụng 
BPTT của phụ nữ sau sinh từ 01 tháng đến 04 
tháng là: thời gian hậu sản (p = 0,000) và nhóm 
tuổi trên 35. 
- Phụ nữ sau sinh con từ 2 tháng đến 3 tháng 
có khả năng thực hành tránh thai cao hơn 1,93 
lần so với những người sinh con từ 1 tháng đến 2 
tháng [KTC 95%: 1,09 - 3,42; p = 0,024]. Phụ nữ 
sau sinh con từ 3 tháng đến 4 tháng có khả năng 
thực hành tránh thai cao hơn 5,25 lần so với 
những người sinh con từ 1 tháng đến 2 tháng 
[KTC 95%: 2,94 - 9,38; p<0,001]. 
- Nhóm 35 tuổi trở lên áp dụng BPTT ít hơn 
63% so với nhóm dưới 35 tuổi [KTC 95%: 0,17 - 
0,80; p=0,012]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abera Y, Mengesha ZB, Tessema GA (2015). “Postpartum 
contraceptive use in Gondar town, Northwest Ethiopia: a 
community based cross-sectional study”, BMC Womens Health, 
15;pp.19. 
2. Alum AC, Kizza IB, Osingada CP, et al (2015). “Factors 
associated with early resumption of sexual intercourse among 
postnatal women in Uganda. Reprod Health, 12:pp.107. 
3. Anzaku A, Mikah S (2014). “Postpartum resumption of sexual 
activity, sexual morbidity and use of modern contraceptives 
among Nigerian women in Jos”. Annal Medical Health Sciences 
Research, 4(2);pp.210-216. 
4. Cao Thị Hạnh Nhân (2013). “Khuynh hướng lựa chọn biện 
pháp tránh thai ở phụ nữ sau sanh con thứ hai tại Bệnh viện 
tỉnh Khánh Hòa”. Luận văn thạc sỹ y khoa. Đại học Y Dược Tp. 
Hồ Chí Minh. 
5. Chhabra HK, Mohanty IR, Mohanty NC, et al (2016). “Impact 
of Structured Counseling on Choice of Contraceptive Method 
Among Postpartum Women”. J Obstet Gynaecol India, 
66(6):pp.471-479. 
6. Christine K (2016). "Normal and Abnormal Puerperium". URL: 
https://emedicine.medscape.com/article/260187-overview 
(Access 22/7/2016). 
7. Dasgupta AN, Zaba B, Crampin AC (2016). “Postpartum 
uptake of contraception in rural northern Malawi: A 
prospective study”. Contraception, 94(5):pp.499-504. 
8. Đỗ Anh Thư, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2009). “Khảo sát 
các yếu tố ảnh hưởng đến sự dụng biện pháp tránh thai hiên 
đại trên phụ nữ trong tuổi sinh sản tại huyện Ninh Hòa- 
Khánh Hòa”, Y Học Tp. Hồ Chí Minh, 13(1):pp.1-5. 
9. Jackson E, Glasier A (2011). “Return of ovulation and menses in 
postpartum nonlactating women: a systematic review”. Obstet 
Gynecol, 117(3):pp.657-62. 
10. Raccah-Tebeka B, Plu-Bureau G (2015). “Post-partum 
contraception: Guidelines for clinical practice”. J Gynecol Obstet 
Biol Reprod, 44(10):pp.1127-34. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 159
11. Rutaremwa G, Kabagenyi A, Wandera SO, et al (2015). 
“Predictors of modern contraceptive use during the 
postpartum period among women in Uganda: a population-
based cross sectional study”. BMC Public Health, 15:pp.262. 
12. Taub RL, Jensen JT (2017). “Advances in contraception: new 
options for postpartum women”. Expert Opin Pharmacother, 
18(7):pp.677-688 
13. Tống Kim Long (2011). “Kiến thức-Thái độ-Thực hành lựa 
chọn các biện pháp tránh thai ở phụ nữ cho con bú”. Y Học TP. 
Hồ Chí Minh, 15(4):pp.56-61. 
14. Trần Thị Lợi (2006). “Tránh thai trong thời kỳ hậu sản”. In: 
Trần Thị Lợi (ed), Hướng dẫn tránh thai, , pp.25-26. Nhà xuất 
bản Đại học sư phạm. 
15. Trần Thị Lợi, Nguyễn Thị Diễm Vân, Nguyễn Duy Tài, Lê 
Hồng Cẩm, et al (2017). “Ngừa thai ở thời kỳ hậu sản”. Hướng 
dẫn ngừa thai 2016, pp.28-29. Nhà xuất bản Phương Đông. 
Ngày nhận bài báo: 06/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/11/2017 
Ngày bài báo được đăng báo : 15/03/2018