Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844” đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người

Tài liệu Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844” đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 46 Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844” đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người From C.Mac and Ph.Angghen’s thought of human philosophy in “The Economic Philosophic manucripts of 1844” to the Vietnamese community’s view on human development TS. Vũ Công Thương, Trường Đại học Sài Gòn Vu Cong Thuong, Ph.D., Saigon University TS. Phan Thị Hồng Duyên, Trường Đại học Hoa Lư – Ninh Bình Phan Thi Hong Duyen, Ph.D., Hoa Lu University – Ninh Binh Province Tóm tắt Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 là bản sơ thảo đầu tiên cuốn sách của C.Mác và Ph.Ăngghen “Phê phán chính trị và khoa kinh tế chính trị”. Nội dung cơ bản trong tác phẩm này chủ yếu C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày những vấn đề về kinh tế, chính trị; tuy nhiên, vấn đề con người đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập qua đối thoại với các...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 415 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844” đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 46 Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844” đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người From C.Mac and Ph.Angghen’s thought of human philosophy in “The Economic Philosophic manucripts of 1844” to the Vietnamese community’s view on human development TS. Vũ Công Thương, Trường Đại học Sài Gòn Vu Cong Thuong, Ph.D., Saigon University TS. Phan Thị Hồng Duyên, Trường Đại học Hoa Lư – Ninh Bình Phan Thi Hong Duyen, Ph.D., Hoa Lu University – Ninh Binh Province Tóm tắt Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 là bản sơ thảo đầu tiên cuốn sách của C.Mác và Ph.Ăngghen “Phê phán chính trị và khoa kinh tế chính trị”. Nội dung cơ bản trong tác phẩm này chủ yếu C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày những vấn đề về kinh tế, chính trị; tuy nhiên, vấn đề con người đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập qua đối thoại với các học giả đương thời và qua phê phán Phoiơbắc và Hêghen. Bài viết này trình bày một số vấn đề về tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, qua đó liên hệ với việc phát triển bền vững con người ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: nguồn gốc con người, bản chất con người, tha hóa lao động, giải phóng con người, phát triển con người. Abstract The philosophic economic manuscripts of 1844 was C.Mac and Ph.Angghen’s first draft of the book "Political Criticism and Political Economy". The basic content of this work is their interpretation of economic and political issues. However, the human problems have been solved by C.Mac and Ph.Angghen in dialogue with contemporary scholars and through critique of Phoiobac và Heghen. This article presents some issues of human philosophical thought of C.Mac and Ph.Angghen in “The philosophic economic manuscripts of 1844” in relation with the human sustainable development in Vietnam today. Keywords: human origin, human nature, labor alienation, liberating people, human development. 1. Mở đầu Bản thảo Kinh tế - triết học năm 1844 là tác phẩm nhằm phê phán lý luận đương thời về kinh tế, chính trị, pháp quyền và một phần phê phán quan niệm của Phoiơbắc và Hêghen. Ở đây C.Mác và Ph.Ăngghen không có ý định bàn về chủ đề con người. Tuy nhiên, những tư tưởng về VŨ CÔNG THƯƠNG – PHAN THỊ HỒNG DUYÊN 47 con người trong tác phẩm này nảy sinh qua đối thoại với các học giả đương thời và qua phê phán Phoiơbắc và Hêghen lại rất phong phú. Nghiên cứu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người trong tác phẩm này, cần quan tâm tư tưởng về con người như: nguồn gốc và bản chất con người; sự tha hóa lao động và về giải phóng con người 2. Nội dung 2.1. Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” Thứ nhất, về nguồn gốc và bản chất con người. Trong tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày quan điểm về con người hiện thực là một sinh vật có tính loài, là thực thể tự nhiên có tính chất người, tức là có hai mặt: Tự nhiên và xã hội. Mặt tự nhiên là thể xác, là cơ thể sinh vật của con người và mối liên hệ hữu cơ của nó với giới tự nhiên ở bên ngoài cơ thể ấy. Còn mặt xã hội chính là hoạt động lao động, mối liên hệ giữa con người với nhau, là tất cả những gì hình thành trên cơ sở hoạt động và liên hệ ấy như nhà nước, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá cao cách tiếp cận giá trị về con người ở Phoiơbắc, và thừa nhận nguyên tắc “con người là một bộ phận của giới tự nhiên”1, song vì cách tiếp cận đó chỉ đề cập đến con người nói chung, con người như kết quả của tiến hóa tự nhiên, nên theo C.Mác và Ph.Ăngghen nó cần được phân tích sâu sắc hơn, cần đặt trong hoạt động, mà trước hết là hoạt động thực tiễn, vật chất. Cần nhấn mạnh rằng con người không chỉ là thực thể tự nhiên, mà còn là “thực thể tộc loại đối với mình2, “một sinh vật có tính loài”3. Tiếp thu quan điểm đề cao yếu tố tự nhiên trong sự tồn tại của con người của Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển hoàn chỉnh khái niệm con người theo quan điểm của mình. Các ông viết: “Nhưng con người không chỉ là thực thể tự nhiên, nó là thực thể tự nhiên có tính chất người, nghĩa là thực thể tồn tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài”4. Bởi lẽ, khác với các thực thể tự nhiên khác chỉ tồn tại một cách tự nó, con người một sinh vật có ý thức, tồn tại có mục đích - “tồn tại cho bản thân mình”, bằng cách lấy giới tự nhiên bên ngoài làm “đối tượng” của mình - cải biến giới tự nhiên. “Chính trong việc cải biến thế giới vật thể, con người lần đầu tiên thực sự khẳng định mình là một sinh vật có tính loài”5. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Con người có những hoạt động thực tiễn như lao động, chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học... Những hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động giúp con người dần dần trút bỏ đời sống thuần túy của một động vật để tiến tới đời sống văn minh của xã hội cho nên đây là hoạt động bản chất của con người. Các ông đã chỉ rõ rằng, “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”6. Trong quá trình đó, con người làm ra lịch sử - xã hội của chính mình. Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “Bản chất con người của tự nhiên chỉ tồn TỪ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN TRONG TÁC PHẨM 48 tại đối với con người xã hội; vì chỉ có trong xã hội, tự nhiên đối với con người mới là một cái khâu liên hệ con người với con người, mới là tồn tại của con người đối với người khác và đối với người đó, mới là nhân tố sinh hoạt của hiện thực con người; chỉ có trong xã hội, tự nhiên mới biểu hiện ra là cơ sở của sự tồn tại có tính chất người của bản thân con người. Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với con người và tự nhiên mới trở thành con người đối với con người. Như vậy, xã hội là sự thống nhất bản chất đã hoàn thành của con người với tự nhiên, sự phục sinh chân chính của tự nhiên, chủ nghĩa tự nhiên đã được thực hiện của con người và chủ nghĩa nhân đạo đã được thực hiện của tự nhiên”7. Đồng thời, các ông còn khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”8. Thứ hai, về sự tha hóa lao động. Trong tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung làm rõ nội dung và thực chất của các phạm trù “sự tha hóa của lao động”, “lao động bị tha hóa”, “sở hữu tư nhân” và mối quan hệ của chúng trên cơ sở lấy sự kiện kinh tế làm điểm xuất phát. Khác với Hêghen và Phoiơbắc, ngay từ đầu C.Mác và Ph.Ăngghen đã lý giải sự tha hóa của con người từ chính đời sống xã hội của con người, từ điều kiện sống và các quan hệ xã hội của họ, từ hoạt động thể hiện sức mạnh bản chất của con người đó là lao động. Các ông cho rằng, tha hóa trước hết là một dạng quan hệ xã hội, là hình thức giao tiếp xã hội của con người, mà trong đó những điều kiện sống và lao động của họ, kết quả hoạt động của họ thể hiện ra như là một lực lượng xa lạ và thù địch, là kết quả trực tiếp của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự tha hóa trong lĩnh vực kinh tế, theo C.Mác và Ph.Ăngghen là cơ sở của những hình thức tha hóa khác trong lĩnh vực vật chất và cuối cùng cả trong lĩnh vực tinh thần của các quan hệ xã hội của con người. Tập trung lý giải sự tha hóa của lao động với tư cách là một tất yếu lịch sử - sự tự tha hóa của lao động, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: sự tồn tại và phát triển của “lao động bị tha hóa” gắn liền với chế độ tư hữu. Nếu như các đại biểu của triết học cổ điển Đức đã coi sự xuất hiện của chế độ tư hữu là do bản tính tham lam, ích kỷ của con người, thì C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng chế độ tư hữu đó được sinh ra do “lao động bị tha hóa” và khi “lao động bị tha hóa” xuất hiện, đã làm nảy sinh sự tha hóa của lao động và dẫn đến “con người bị tha hóa”, “đời sống bị tha hóa”. Sự tha hóa này theo C.Mác và Ph.Ăngghen đã đạt tới đỉnh điểm trong chủ nghĩa tư bản và được thể hiện ra bằng việc sức lao động bị biến thành hàng hóa, cũng như ở quá trình hoạt động sản xuất, ở sản phẩm của lao động và hậu quả tất yếu của nó là “sự tha hóa của con người với con người”. Khắc phục sự tha hóa này, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định chính là sự xóa bỏ chế độ tư hữu và việc giải phóng người công nhân khỏi “lao động bị tha hóa” dưới chủ nghĩa tư bản cũng chính là khắc phục lao động bị tha hóa nói chung, là sự giải phóng con người. Lý giải cụ thể hiện thực lịch sử này, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, hoạt động của con người và sự tự khẳng định của nó với tư cách một sinh vật có tính loài có ý thức biểu hiện ra trước hết là ở thực tiễn sáng tạo ra thế giới vật thể, ở VŨ CÔNG THƯƠNG – PHAN THỊ HỒNG DUYÊN 49 nền sản xuất xã hội. Các ông viết “Việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con người với tư cách là sinh vật có tính loài có ý thức, nghĩa là một sinh vật đối xử với loài như với bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản thân mình như với một sinh vật có tính loài”9. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, trong xã hội tư bản việc người công nhân sản xuất ra sản phẩm là việc vật thể hóa bản thân họ, còn việc mất sản phẩm đã sản xuất ra do sự thống trị của chế độ tư hữu là sự tha hóa của lao động, bởi vì vật phẩm đối diện với người công nhân như một thực thể xa lạ, như một lực lượng không phụ thuộc vào người sản xuất. Sản phẩm lao động không thuộc về người sản xuất đã sản xuất ra chúng, mà thuộc về người sở hữu tư bản. “Việc chiếm hữu vật phẩm biểu hiện ra là một sự tha hóa đến mức người công nhân sản xuất ra càng nhiều vật phẩm thì anh ta càng có thể chiếm hữu càng ít vật phẩm và anh ta bị sản phẩm của anh ta, tức tư bản thống trị càng mạnh”10. Sức mạnh của tư bản ngày càng tăng thì người công nhân lại càng trở nên nghèo khổ. “Lao động sản xuất ra những vật phẩm kỳ diệu cho những người giàu, nhưng chính nó lại sản xuất ra sự bần cùng hóa công nhân”11. Chính sự tha hóa của lao động đã tạo ra sự bất bình đẳng ngày càng tăng về tài sản và đào sâu thêm cái vực thẳm giữa lao động và tư bản. Có thể thấy, trong tác phẩm C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích chỉ rõ chế độ tư hữu là nguyên nhân làm cho con người bị tha hóa ở trên hai phương diện, một là, sự tha hóa của người công nhân trong sản phẩm lao động của anh ta. Biểu hiện của sự tha hóa là, “sản phẩm của anh ta không chỉ có ý nghĩa là lao động của anh ta t rở thành một vật phẩm, có được sự tồn tại bên ngoài, mà còn có ý nghĩa lao động của anh ta tồn tại ở bên ngoài anh ta, không phụ thuộc vào anh ta, xa lại với anh ta, và lao động ấy trở thành một lực lượng độc lập đối lập với anh ta anh ta tạ ra càng nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng bị mất giá trị, càng bị mất phẩm cách”12; hai là, sự tha hóa của người công nhân trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất. Sự tha hóa của công nhân trong sản phẩm của anh ta không chỉ có ý nghĩa là lao động của anh ta trở thành một vật phẩm, có được sự tồn tại bên ngoài, mà còn có ý nghĩa là lao động của anh ta tồn tại ở bên ngoài anh ta, không phụ thuộc vào anh ta, xa lạ với anh ta, và lao động ấy trở thành một lực lượng độc lập đối lập với anh ta, có nghĩa là đời sống mà anh ta truyền cho vật phẩm, chống lại anh ta như một đời sống đối địch và xa lạ. Như vậy, tha hóa ra đời từ sự phát triển của sản xuất dẫn đến sự phân công lao động, sự chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất và sự ra đời của tư bản. C.Mác không chỉ dùng khái niệm tha hóa để giải thích về sự đối tượng hóa (sự vật hóa) bản chất con người, mà còn dùng nó để chỉ rõ các quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như vạch trần sự bóc lột trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Cho nên sự giải phóng xã hội khỏi chế độ tư hữu, khỏi sự nô dịch cũng chính là giải phóng con người khỏi sự tha hóa của lao động. Thứ ba, về giải phóng con người. Trong tác phẩm, C.Mác đã phát hiện ra tính hai mặt của lao động, của sở hữu tư nhân và từ đó, khẳng định chính lao động bị tha hóa là nguồn gốc cơ bản trực tiếp và sở hữu tư nhân là nguồn gốc đã dẫn đến mọi nỗi khổ đau của nhân loại, của mỗi con người và làm cho con người bị tha hóa. Sở hữu tư nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản TỪ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN TRONG TÁC PHẨM 50 chủ nghĩa, với tư cách kết quả của quá trình lao động bị tha hóa đã trở thành nguyên nhân chủ yếu gây ra những tai họa khủng khiếp cho con người, làm tha hóa con người. Vì vậy, để giải phóng con người, cần phải xóa bỏ thứ sở hữu tư nhân đó. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ của các nhà triết học, xã hội học tiền bối và đương thời, C.Mác đã khẳng định chủ nghĩa cộng sản sẽ giải phóng triệt để mọi lực lượng bản chất của con người; biến mọi cảm giác, thuộc tính và nhu cầu của con người thành cảm giác, thuộc tính và nhu cầu xã hội; giải phóng con người khỏi cả tôn giáo - một biểu hiện cơ bản của sự tha hóa con người về ý thức, tinh thần và giải phóng con người khỏi cả chế độ tư hữu - nhân tố cơ bản làm con người tha hóa trong hiện thực. Nhưng xóa bỏ chế độ tư hữu một cách tích cực để xây dựng chủ nghĩa cộng sản và nhằm giải phóng con người là một bài toán vô cùng nan giải, mà muốn giải nó, cần phải trải qua một quá trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực. Bởi, theo C.Mác, “muốn xóa bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu, thì tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn đủ rồi. Còn muốn xóa bỏ chế độ tư hữu trong hiện thực thực tế thì phải có hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực”13. Có thể thấy, tư tưởng của C.Mác về sự xóa bỏ hiện tượng tha hóa không chỉ là sự phủ định quan hệ kinh tế mang tính chất đối kháng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà còn là lý tưởng cho sự giải phóng mọi tiềm năng của con người. Mặc dù bản chất con người được thể hiện thông qua sự tồn tại của đối tượng khách quan, song sự chiếm hữu và sở hữu đối tượng của thế giới tự nhiên ấy chưa thể làm con người trở thành con người toàn vẹn. Chỉ khi được giải phóng khỏi những trói buộc do sự phiến diện của chế độ chiếm hữu và của chế độ tư hữu, con người mới có thể là con người chiếm hữu bản chất toàn diện của mình một cách toàn diện, nghĩa là như một con người toàn vẹn. 2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người Thấm nhuần quan điểm của C.Mác về con người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ vai trò to lớn của con người Việt Nam - con người là chủ thể của xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, sự phát triển kinh tế - xã hội không có mục tiêu nào khác là vì con người, vì sự phát triển tự do, toàn diện cá nhân con người. Vì vậy, ngay từ Đại hội lần thứ VI cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm tới việc phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xây dựng môi trường văn hóa xã hội tốt đẹp cho sự phát triển con người, Đảng và Nhà nước ta đã đổi mới một cách sâu sắc quan niệm về chủ nghĩa xã hội, về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, về sự phát triển xã hội và về con người. Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Đại hội “khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”, “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Từ đó, xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng trong chặng đường trước mắt, đề ra chủ trương, chính sách phù hợp để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua khó khăn tiến lên phía trước. Bởi, “Chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa VŨ CÔNG THƯƠNG – PHAN THỊ HỒNG DUYÊN 51 chữa, nhằm vận dụng tốt chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta, phát huy truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, động viên tính năng động, sáng tạo và khả năng vô tận của nhân dân lao động làm chủ tập thể”14. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân tố con người, phát huy nhân tố con người, gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cao nhất của mọi hoạt động. Đó là một bước ngoặt về chất trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển con người, bằng cách mở rộng cơ hội phát triển cho các cá nhân và cộng đồng xã hội, tạo ra một môi trường thuận lợi nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của người lao động trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Đại hội VII (năm 1992) của Đảng tiếp tục phát triển đường lối đổi mới và khẳng định quan điểm lớn: “quan điểm coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội - tất cả vì con người. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội “do nhân dân lao động làm chủ”, “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”15. Vì vậy, phương hướng lớn của chính sách xã hội là “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”16. Đại hội VIII (1996) đã chủ trương: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân tiết kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư và phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Đại hội đã chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”17. Thực tế cho thấy, quyền lợi, lợi ích của con người là vấn đề thiết yếu nhất và rất nhạy cảm luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đề cập đến tất cả các mặt thiết yếu nhất của con người từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần; từ vấn đề kinh tế đến chính trị, xã hội, y tế, giáo dục, đào tạo; từ trung tâm đến vùng sâu, vùng xa; từ đồng bào có đạo đến đồng bào không có đạo... Tất cả các mặt trên đều dựa trên cơ sở công bằng, bình đẳng và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng tới mục đích: Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. “Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình TỪ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN TRONG TÁC PHẨM 52 trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư”18. Đồng thời, để đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi con người trong xã hội ở phương diện luật pháp, cần phải quan tâm đến vấn đề phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân bằng pháp luật xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Ngày nay, công nghiệp hóa luôn gắn liền với hiện đại hóa, với việc ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại. Khoa học và công nghệ giữ vai trò quan trọng và trở thành nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song, để phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, cần phải coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, Đại hội lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”19. Con người trở thành nguồn tài nguyên vô giá, tiềm năng to lớn, vô tận và là yếu tố chủ yếu quyết định đối với sự phát triển nhanh và bền vững ở nước ta. Vì vậy, cần phải “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân”20. Bên cạnh đó, Đại hội đã nhấn mạnh các nhiệm vụ tổng quát về phát triển kinh tế; tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; quản lý tốt sự phát triển xã hội, thực hiện chính sách lao động, việc làm, thu nhập; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh Điều đó, nhằm thực hiện tốt chiến lược về con người - coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển ở nước ta hiện nay. 3. Kết luận Tư tưởng về con người của C.Mác trong “Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844” là sự phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tích cực và khắc phục những điểm hạn chế về quan niệm con người trong lịch sử triết học. Vượt lên trên các học thuyết đã có trong lịch sử, triết học Mác đã xuất phát từ việc vạch ra bản chất con người hiện thực để giải quyết những vấn đề con người. Việc tiếp tục khai thác những giá trị khoa học, tính chất khai sáng và ý nghĩa cách mạng trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, làm rõ sự đúng đắn, tính sáng tạo trong các quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phát triển con người, để sử dụng chúng vì mục đích phát triển con người Việt Nam hiện đại, tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, đủ sức tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới là công việc có tầm quan trọng và cấp bách hiện nay. VŨ CÔNG THƯƠNG – PHAN THỊ HỒNG DUYÊN 53 Chú thích: 1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.135. 2. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.166. 3. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.134. 4. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.234. 5. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.137. 6. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 3. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2004, tr.29. 7. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 42. Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2004, tr.170. 8. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2004, tr.11. 9. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.136-137. 10. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.129. 11. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.131. 12. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.130 - 131. 13. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.194. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.7-8. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.9. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.13. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.113. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.79. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.126. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.295-296. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 7. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội. Ngày nhận bài: 27/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4_3162_2215056.pdf
Tài liệu liên quan