Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173 
169 
TRUYỀN THÔNG VỀ CHÍNH SÁCH VĂN HÓA 
CHO CÔNG CHÚNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI LÂM ĐỒNG 
Lê Phong Lê
1*, Vi Thị Phương2 
1Trường Đại học Đà Lạt, 
2Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Trong nghiên cứu truyền thông hiện nay, truyền thông chính sách văn hóa luôn được đặt lên hàng 
đầu. Bài viết này đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thực trạng truyền thông chính sách văn hóa qua các 
chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số tại Lâm Đồng về nội dung, hình 
thức và các yếu tố khác. Từ đó có những đánh giá, so sánh để đưa ra một số giải pháp, khuyến 
nghị ban đầu nhằm nâng cao chất lượng truyền thông dành cho công chúng dân tộc thiểu số tại địa 
phương trong tương lai. 
Keywords: Truyền thông chính sách, văn hóa, công chúng, dân tộc thiểu số, Lâm Đồng 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Là một quốc gia đa dân tộc, việc thông tin và 
truyền thông cho đối tượng công chúng dân 
tộc thiểu số (DTTS) luôn được Đảng và Nhà 
nước ta chú trọng trong nhiều năm qua. Lâm 
Đồng là một tỉnh nằm trong khu vực Tây 
Nguyên, đời sống đồng bào DTTS nơi đây 
còn nhiều khó khăn. Việc tiếp cận với các 
phương triện truyền thông đại chúng như mua 
báo giấy, truy cập Internet còn hạn chế - chủ 
yếu nghe đài, loa phát thanh và xem truyền 
hình. Đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thực trạng 
truyền thông chính sách văn hóa qua các 
chương trình PTTH bằng tiếng DTTS tại Lâm 
Đồng; khảo sát nhu cầu thông tin của công 
chúng DTTS tại Lâm Đồng hiện nay là việc 
làm cấp thiết, nhằm đưa ra một số giải pháp, 
khuyến nghị ban đầu để nâng cao hiệu quả 
truyền thông. 
NỘI DUNG 
Văn hóa và truyền thông chính sách về văn hóa 
Văn hóa là một lĩnh vực liên quan đến mọi 
mặt của đời sống xã hội, con người. Đến nay, 
có hơn 500 định nghĩa khác nhau về văn hóa, 
điều này cho thấy văn hóa là một phạm trù 
rộng lớn, trừu tượng và không dễ nắm bắt. 
Tuy nhiên, mỗi trường phái nghiên cứu, mỗi 
nhà nghiên cứu đều có quan điểm khác nhau. 
Edward Burnett Tylor – nhà dân tộc học, 
*
 Tel: 0392 970732; Email: 
[email protected] 
nhân chủng học người Anh là người đầu tiên 
nêu định nghĩa thuộc loại này. Năm 1871, 
trong tác phẩm Primitive Culture (Văn hóa 
nguyên thủy), ông đã đưa ra định nghĩa: “Văn 
hóa là phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, 
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, 
cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con 
người như một thành viên của xã hội đạt 
được”. [4, tr. 13]. Định nghĩa của nhà nhân 
học văn hóa người Anh này là định nghĩa 
khoa học về văn hóa ra đời sớm nhất ở Châu 
Âu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định văn 
hóa là một mặt căn bản của xã hội. Người chỉ 
rõ, công cuộc kiến thiết nhà nước có bốn vấn 
đề phải chú ý đến và phải coi trọng ngang 
nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Văn 
hóa là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ 
xây dựng con người mới, xã hội mới. Điểm 
khác là ở đây, Hồ Chí Minh nói rõ hơn mục 
đích của sáng tạo văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn 
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người 
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ 
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, 
văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh 
hoạt hàng ngày về ăn, mặc và các phương 
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và 
phát minh đó tức là văn hóa.” [6, tr. 431]. 
Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa 
Việt Nam thì cho rằng “Văn hóa là một hệ 
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần 
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá 
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác 
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173 
170 
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã 
hội” [8, tr. 10]. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần 
Ngọc Thêm nêu hai giá trị của văn hóa vật thể 
và phi vật thể được hình thành và phát triển 
thông qua mối quan hệ nhân sinh quan, thế 
giới quan của con người trong quá trình phát 
triển nhân loại. 
Xác định đúng đắn vai trò quan trọng của văn 
hóa, từ khi ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo 
nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo 
vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền văn 
hóa, hướng văn hóa phục vụ một cách có hiệu 
quả vào sự nghiệp cách mạng. Đường lối văn 
hóa của Đảng ta bao gồm toàn bộ những quan 
điểm có tính chiến lược để chỉ đạo lĩnh vực 
văn hóa, hoạt động văn hóa. “Dù chưa trực 
tiếp đề cập quan điểm của Đảng đối với lĩnh 
vực văn hóa, nhưng ngay từ những văn kiện 
đầu tiên này, để phục vụ cho nhiệm vụ tuyên 
truyền đường lối, vận động quần chúng nhân 
dân tham gia cuộc cách mạng dưới sự lãnh 
đạo của Đảng, Đảng ta đã rất chú trọng tới 
vai trò của văn hóa, trước hết là vai trò của 
bộ phận báo chí và tuyên truyền.” [4, tr. 10]. 
Nhìn chung, các định nghĩa đều thống nhất 
văn hóa có các đặc điểm sau: Thứ nhất, văn 
hóa là sáng tạo của con người, thuộc về con 
người, những gì không do con người làm nên 
không thuộc về khái niệm văn hóa. Văn hóa 
xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động 
và có ý thức của con người với tự nhiên, nên 
văn hóa cũng là kết quả của sự thích nghi ấy. 
Thứ hai, sự thích nghi của con người với tự 
nhiên là sự thích nghi có ý thức và chủ động, 
có sáng tạo, phù hợp với giá trị Chân - Thiện - 
Mỹ, không phải là sự thích nghi máy móc. 
Thứ ba, văn hóa bao gồm cả những sản phẩm 
vật chất và tinh thần. 
Là một quốc gia đa dân tộc, việc thông tin và 
truyền thông cho đối tượng công chúng dân 
tộc thiểu số (DTTS) luôn được Đảng và Nhà 
nước ta chú trọng trong nhiều năm qua. Chỉ 
thị số 39 của Thủ tướng chính phủ về việc 
Đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin ở 
miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu 
số. Trong đó Bộ Thông tin và Truyền thông 
cần: "Tăng cường đầu tư, nâng cao hiệu quả 
công tác tuyên truyền bằng các phương thức 
phù hợp với từng vùng, từng dân tộc và bằng 
tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam”. [10] 
Nghị quyết số 22/NQ-TW của Bộ Chính trị về 
Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển 
kinh tế - xã hội miền núi trong đó có lĩnh vực 
truyền thông đại chúng nêu rõ: "Tăng cường 
các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả 
các phương tiện hiện đại như máy thu thanh, 
máy thu hình, băng ghi hình để cải tiến và 
nâng cao các chương trình phát thanh, truyền 
hình ở địa phương, phổ biến các văn hóa 
phẩm và tài liệu có nội dung thiết thực phù 
hợp với yêu cầu và truyền thống của đồng 
bào các dân tộc..". [9] Theo đó, ngoài các 
hình thức truyền thông trực tiếp thì báo chí, 
đặc biệt là PT-TH tiếng DTTS là hai kênh 
truyền đóng vai trò vô cùng quan trọng trong 
việc đưa thông tin đến với công chúng DTTS. 
Là một tỉnh nằm trong khu vực Tây Nguyên 
có nhiều đồng bào DTTS cư trú, Lâm Đồng 
quan tâm đến vấn đề thông tin cho công 
chúng DTTS địa phương. Cụ thể, Đài PTTH 
Lâm Đồng đã có chương trình tiếng Chu Ru 
và Cơ Ho dành riêng cho lớp công chúng 
chuyên biệt này. Công chúng DTTS của Đài 
PT-TH Lâm Đồng là lớp công chúng còn 
nhiều hạn chế về trình độ, ngôn ngữ, còn tồn 
tại nhiều vấn đề như hủ tục, phá rừng, buôn 
bán người, vi phạm pháp luật do thiếu hiểu 
biết nên dễ bị các thành phần chống phá chọn 
làm đối tượng dụ dỗ, mua chuộc, kích động. 
Vì thế, cần được cung cấp thông tin, phổ biến 
các chính sách kịp thời. 
Thực trạng truyền thông về chính sách văn 
hóa cho DTTS tại Lâm Đồng 
Về nội dung: 
Thứ nhất, chương trình tự sản xuất. So với 
các địa phương khác - chủ yếu khai thác tin, 
bài tiếng phổ thông có sẵn từ các nguồn khác 
để dịch sang tiếng DTTS thì đài PT-TH Lâm 
Đồng là một trong số ít Đài tự sản xuất 
chương trình tiếng DTTS. Đài PT-TH Lâm 
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173 
171 
Đồng đã thành lập riêng Phòng Biên tập 
Tiếng DTTS trong hơn 15 năm qua và tự 
hoàn thành trọn gói các sản phẩm báo chí của 
mình. Nhờ tự sản xuất chương trình mà nội 
dung gắn bó, gần gũi với bà con DTTS. Tổ 
trưởng tổ phóng viên và tổ trưởng tổ phát 
thanh viên của phòng có nhiệm vụ đôn đốc, 
trao đổi chuyên môn và báo cáo cho lãnh đạo 
phòng các hoạt động hàng tháng. 8 phóng 
viên sản xuất và luân phiên làm đạo diễn 
chương trình. 6 phát thanh viên có nhiệm vụ 
dịch, đọc, hiện hình và kiểm thính. 
Thứ hai, đội ngũ phóng viên, biên tập viên là 
người DTTS. Hiện nay, nhân sự của phòng 
gồm 18 người, trong đó dân tộc Kinh là 6 
người, còn lại là 12 người dân tộc Cơ Ho, Mạ, 
Chu Ru. Phóng viên là người DTTS khiến rào 
cản ngôn ngữ không còn là trở ngại, việc đi 
sâu sát vào đời sống của bà con cũng thuận 
lợi hơn. Đội ngũ làm chương trình tiếng Chu 
Ru, Cơ Ho đa phần đã công tác lâu năm, có 
kinh nghiệm trong khâu dịch, đọc, hiểu rõ nét 
văn hóa truyền thống, phong tục tập quán của 
dân tộc mình. Đội ngũ phóng viên đã được 
đào tạo chuyên ngành báo chí hoặc đã được 
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí ngắn 
hạn, do đó cũng đã nắm được phương thức 
sản xuất tác phẩm phát thanh - truyền hình 
dành cho đồng bào DTTS. 
Thứ ba, thông tin gương điển hình trong đời 
sống văn hóa chiếm ưu thế. Trong tháng 
01/2018, Đài đã sản xuất được 5 chương trình 
truyền hình Chu Ru, 8 chương trình truyền 
hình Cơ Ho, 13 chương trình phát thanh Cơ 
Ho, 4 chương trình phát thanh Chu Ru. Nội 
dung tập trung giới thiệu những gương điển 
hình trong lối sống văn hóa. Việc thông tin 
đến công chúng DTTS những tấm gương điển 
hình trong đời sống văn hóa là rất cần thiết. 
Bên cạnh đó những nội dung về xây dựng 
Đảng, Đoàn khối cơ sở, hoạt động của Cựu 
chiến binh, hội Phụ nữ cũng được đề cập. Các 
vấn đề an sinh xã hội, cải thiện đời sống, xóa 
đói giảm nghèo vùng DTTS được thông tin 
kịp thời đến công chúng. Các hoạt động văn 
hóa, nghề truyền thống cũng được đề cập 
nhưng chiếm tỉ lệ thấp. 
Về hình thức: 
Thứ nhất, thể loại truyền thông chưa đa dạng, 
chưa hấp dẫn. Mỗi chương trình thường có 
cấu trúc 3 phần gồm Lời dạy của Bác Hồ, 3 
tin và 3 phóng sự. Điều này thể hiện thế mạnh 
của Đài nhưng cũng chính là một hạn chế khi 
các thể loại và chủ đề thể hiện chưa phong 
phú. Mô hình lặp lại tương tự nhau mỗi tuần 
rất dễ gây nhàm chán cho người xem. 
Bảng 1. Cấu trúc chương trình TH – PT tiếng Cơ Ho và Chu Ru 
Yếu tố Chương 
trình TH 
Chương trình PT 
Cơ Ho Chu Ru Cơ Ho Chu Ru 
Số lượng 01/tuần 01/tuần 03/tuần 01/tuần 
Thời lượng 25 phút 25 phút 30 phút 30 phút 
Nội dung Lời Bác Hồ dạy 
Tin tổng hợp (3) 
 Phóng sự (4) 
Lời Bác Hồ dạy 
Tin tổng hợp (3) 
Phóng sự (3) - Bài hát 
Truyện cổ tích thiếu nhi - Bài hát thiếu nhi (Cuối tuần) 
Tự sản xuất 100 % 70% 
Nguồn: Kịch bản chương trình Phòng Biên tập Tiếng DTTS, Đài PT-TH Lâm Đồng (2017, 2018) 
Kết quả khảo sát 100 công chúng DTTS trong đó 50 Cơ Ho, 50 người Chu Ru ở các khu vực chia 
theo 2 vùng kinh tế – xã hội khác nhau: Vùng sâu, vùng xa có là xã Tu Tra - huyện Đơn Dương, 
xã Phi Tô, xã Đạ Đờn – huyện Lâm Hà, xã Đà Loan – huyện Đức Trọng. Vùng cận thị có xã Đạ 
Ròn – huyện Đơn Dương cho thấy: 57% công chúng DTTS cho rằng nội dung chưa hấp dẫn, 
không có chuyên mục yêu thích. 75,8% công chúng nói rằng khung giờ phát sóng vào thời điểm 
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173 
172 
đang đi làm nên không theo dõi thường xuyên 
được. 42,4 % cho rằng phát thanh viên lên 
hình trang phục không thay đổi thường 
xuyên, giọng đọc chưa gây sự chú ý. 
Thứ hai, thiếu tính tương tác. Công chúng là 
đối tượng tiếp nhận thông tin nhưng vẫn còn 
thụ động. Do hạn chế về thể loại nên chương 
trình chưa có các chuyên mục để người dân 
có thể phản hồi hay trao đổi, đóng góp ý kiến, 
trò chuyện, chia sẻ trên sóng phát thanh và 
truyền hình. Nội dung thông tin tuyên truyền 
còn “nặng” tính một chiều. 
Thứ ba, trở ngại về ngôn ngữ. Hạn chế lớn 
nhất khi làm chương trình phát thanh và 
truyền hình bằng ngôn ngữ dân tộc nói chung 
và tiếng Chu Ru, Cơ Ho nói riêng luôn gặp 
phải, đó là vốn từ vựng không phong phú để 
dịch từ tiếng Việt sang tiếng Chu Ru, Cơ Ho 
hoàn toàn. Do đó, nhiều từ mới, từ ngữ 
chuyên môn, khoa học, chính trị mỗi khi sử 
dụng hoặc dịch đọc đều phải vay mượn. Một 
số từ mới, từ ngữ tương đương sau khi dịch, 
chưa được thống nhất với nhau, mỗi người 
dịch theo sự hiểu biết của mình nên chưa 
được sử dụng để tạo thành thói quen, thông 
dụng đối với khán thính giả như: sổ hộ khẩu, 
thẻ bảo hiểm y tế, điện thoại di động, trung 
tâm dân số kế hoạch hóa gia đình, quy định, 
quyết định của thủ tướng chính phủ 
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền 
thông về chính sách văn hóa cho DTTS tại 
Lâm Đồng 
Về phía các cơ quan quản lý cần có sự quan 
tâm đầu tư hơn nữa về kỹ thuật, trang thiết bị, 
nhân lực để Phòng Biên tập tiếng DTTS có 
thể tiếp tục thực hiện sản xuất chương trình 
tiếng dân tộc ngày càng được nâng cao hơn. 
Do vậy, cần sớm xây dựng, thành lập nhóm 
nghiên cứu về ngôn ngữ dành cho tiếng Chu 
Ru, Cơ Ho để in ấn, phát hành bộ từ điển Việt 
– Chu Ru, Cơ Ho được sử dụng rộng rãi cho 
nhiều đối tượng, nhất là lĩnh vực ngành phát 
thanh và truyền hình. 
Cần tư vấn, hỗ trợ trang thiết bị tác nghiệp 
phù hợp, đáp ứng yêu cầu chương trình. Đồng 
thời đầu tư kinh phí, chi trả định mức sản 
phẩm cao hơn, xứng đáng với công sức của 
người lao động. Hiện nay máy tính phục vụ 
cho đội ngũ làm việc của phòng vẫn còn rất 
thiếu, chưa đáp ứng được quá trình sản xuất 
thông tin cho công chúng dân tộc thiểu số. 
Nhà quản lý truyền thông phải thấy được 
truyền thông là một yếu tố quan trọng để đạt 
được mục tiêu trong tổ chức. Cần phải có kỹ 
năng truyền thông tốt, nói phải đi đôi với làm. 
Hiệu quả truyền thông được nâng cao khi kết 
quả phù hợp với mục đích đặt ra, trong mối 
tương quan với chi phí, nguồn lực, thời gian 
hợp lý, tương tác hai chiều từ cấp trên xuống 
và từ cấp dưới lên, từ chính phủ xuống dân và 
nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội. 
Bên cạnh đó, nhà quản lý truyền thông cần 
nhanh nhạy nắm bắt được đặc điểm cốt lõi 
của công chúng DTTS trên địa bàn công tác. 
Từ đó, đưa ra các chiến lược truyền thông 
thông qua các phương tiện truyền thông đại 
chúng có tình toán cho phù hợp với đặc điểm 
đời sống và nhận thức của đồng bào. 
Về phía nhà báo, cần mạnh dạn thay đổi cách 
làm. Ngoài chương trình thời sự tổng hợp như 
hiện nay, có thể xây dựng thêm kịch bản để 
thực hiện các chương trình phỏng vấn, tọa 
đàm, dẫn chương trình ngoài hiện trường, 
chương trình làm phát thanh trực tiếp để tăng 
tính tương tác với công chúng. Thường xuyên 
trao đổi cộng tác tin bài với các phòng ban, cơ 
quan báo chí cấp trung ương và khu vực. Được 
tham dự đầy đủ các buổi hội nghị, hội thảo, lớp 
nghiệp vụ chuyên môn cũng như các kỹ năng 
mới liên quan đến hoạt động nghề nghiệp. 
THAY LỜI KẾT 
Trong hoạt động truyền thông của Việt Nam, 
báo chí có vai trò rất quan trọng trong việc 
giám sát và phản biện chính sách. Truyền 
thông chính sách về văn hóa cho công chúng 
DTTS trong thời đại 4.0 cần phát huy vai trò 
quan trọng của báo chí nhằm hoàn thiện chính 
sách, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. 
Nhìn nhận lại thông điệp truyền thông về 
chính sách văn hóa cho đồng bào DTTS tại 
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173 
173 
Đài PT - TH Lâm Đồng là việc làm quan 
trọng nhằm đưa ra một số giải pháp, khuyến 
nghị ban đầu để nâng cao hơn nữa hiệu quả 
truyền thông về vấn đề này. Việc cung cấp 
thông tin, phổ biến các chính sách văn hóa kịp 
thời, đúng "đối tượng" giúp công chúng 
DTTS nhận thức được chính sách văn hóa 
liên quan trực tiếp đến đời sống của họ. Đồng 
thời giúp nhà quản lý truyền thông, các nhà 
báo có "cơ hội" cùng đồng bào DTTS nơi đây 
tham gia quá trình giám sát, phản biện, tạo 
đồng thuận xã hội trong thực thi chính sách./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban Dân tộc tỉnh Lâm Đồng (2013). 
www.lamdong.gov.vn/viVN/a/bandantoc/Gioithie
u/Pages/Dantocthieuso.aspx 
2. Mạc Đường (1983), Vấn đề dân tộc ở Lâm 
Đồng, Sở Văn hóa Tỉnh Lâm Đồng. 
3. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Báo Đại 
biểu Nhân dân, Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn 
Quốc (KOICA), Truyền thông chính sách và năng 
lực tiếp nhận của công chúng, Kỷ yếu Hội thảo 
Khoa học Quốc tế, tháng 10 năm 2018 
4. Đỗ Đình Hãng (Chủ biên) (2006), Tìm hiểu 
đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
5. Đặng Thị Thu Hương (2018), Hình ảnh đồng 
bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc trên báo chí 
Tạp chí Người làm báo, 413(7), 52-55. 
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Tập 4 (1945 – 
1946), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
7. Trần Hữu Quang (2015), Xã hội học báo chí, 
Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM. 
8. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt 
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
9. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 22/NQ-TW về 
Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển 
kinh tế - xã hội miền núi. 
10. Stephen H. R. (1992), Ethnic Minority Media: 
An International Perspective (Communication and 
Human Values), California, USA: SAGE 
Publications. 
11. Thủ Tướng (1998), Chỉ thị số 39 về Đẩy 
mạnh công tác văn hóa - thông tin ở miền núi và 
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số (Thủ 
Tướng), Việt Nam. 
ABSTRACT 
PUBLIC POLYCY COMMONUCATION 
FOR ETHINIC MINORITY AUDIENCE IN LAMDONG 
Le Phong Le
1*
, Vi Thi Phuong
2 
1Da Lat of University, 
2University of Sciences - TNU 
Communicating with ethnic minority audiences in their own language is a particularly important 
matter which also brings the State’s attention for years. Lam Dong is a province where many 
ethnic minority people live, thus it also has radio, television for these particular audiences. This 
article focuses on journalism and the audience in a unified relationship. We will: firstly, research 
the current status of radio and television for ethnic minorities in Lam Dong in terms of content, 
form and other factors; secondly, survey the demand for information of people from ethnic 
minorities in Lam Dong province. With comparison and evaluation from that, initial solutions and 
recommendations will be given to improve the quality of specialized journalism for local ethnic 
minorities in the future. 
Keywords: Public policy communication, Cutural, Audience, Ethinic minority, Journalism, Lam Dong 
Ngày nhận bài: 03/12/2018; Ngày hoàn thiện: 26/12/2018; Ngày duyệt đăng: 28/12/2018 
*
 Tel: 0392 970732; Email: 
[email protected] 
174