Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 57
TRAO ĐỔI HUYẾT TƯƠNG TRONG BỆNH LÝ TĂNG GAMMA ĐƠN DỊNG 
Nguyễn Chí Thành*, Vũ Đức Bình**, Nguyễn Lan Phương** 
TĨM TẮT 
Tăng gamma đơn dịng là một tình trạng bệnh lý do các tương bào sản xuất quá mức 1 loại paraprotein 
đơn dịng. Tuy nhiên trong một số rối loạn protein M, đáng chú ý là đa u tủy xương và Waldenstrưm, nồng 
độ protein M huyết tương thường tăng và điều này cĩ thể gây ra biểu hiện lâm sàng. Gạn tách huyết tương 
là một biện pháp hiệu quả điều trị trong trường hợp tăng độ quánh máu, suy thận thứ phát do tăng gamma 
đơn dịng. Trong đĩ, chỉ định điều trị dự phịng hội chứng tăng độ quánh máu khi cĩ các triệu chứng gợi ý 
và/hoặc khi cĩ độ quánh huyết tương tăng tới 4-5cp, hoặc khi IgM huyết tương ≥3 g/dl, hoặc mức IgG ≥4 
g/dl, hoặc mức IgA ≥6 g/dl. Phương pháp kết hợp đồng thời trao đổi huyết tương (TĐHT) và lọc máu, 
cyclophosphamide và điều trị hỗ trợ giúp cải thiện tốt tình trạng suy thận đồng thời làm giảm số lần bệnh 
nhân phải nhập viện để lọc máu và TĐHT. 
Từ khĩa: trao đổi huyết tương, bệnh lý tăng gamma đơn dịng, tăng độ quánh máu 
ABSTRACT 
THERAPEUTIC PLASMA EXCHANGE IN MONOCLONAL GAMMOPATHY 
Nguyen Chi Thanh, Vu Duc Binh, Nguyen Lan Phuong 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 57 – 62 
Monoclonal gammapathy is a condition which plasma cells produce excessively a monoclonal paraprotein. 
However in the protein M disorders, especially Multiple myeloma and Waldenstrưm, the plasma protein M level 
usually increases and causes the clinical characteristics. Apheresis is an effective method to prevent hyperviscosity 
and acquired renal failure caused by hypergammaglobuline. Preventive hyperviscosity treatment is indicated 
whenever the patients met clinical symptoms and/or the plasma viscosity increases to 4-5cp, or level of plasma 
IgM ≥3 g/dl, or IgG ≥4 g/dl, or IgA ≥6 g/dl. The therapeutic combinating plasma exchange, dialysis, 
cyclophosphamide and supported treatments improves effectively the renal failure and reduces the time number of 
hospitalization for dialysis and plasma exchange. 
Key words: therapeutic plasma exchange, monoclonal gammopathy, hyperviscosity syndrome 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tăng gamma đơn dịng là một tình trạng 
bệnh lý do các tương bào sản xuất quá mức 1 loại 
paraprotein đơn dịng. Globulin miễn dịch đơn 
dịng hoặc các mảnh globulin miễn dịch tích lũy 
trong huyết tương là gọi là M-protein. Khi nồng 
độ trong huyết tương của protein M thấp (<3,0 
mg/dL) và khơng tăng theo thời gian thì protein 
M khơng cĩ ý nghĩa đặc biệt và tiên lượng nĩi 
chung là lành tính. Tuy nhiên trong một số rối 
loạn protein M, đáng chú ý là đa u tủy xương và 
Waldenstrưm, nồng độ protein M huyết tương 
thường tăng và điều này cĩ thể gây ra biểu hiện 
lâm sàng(10). 
Đa u tủy xương là một bệnh lý ác tính dịng 
lympho đặc trưng bởi sự tích lũy các tương bào 
(tế bào dịng plasmo) trong tủy xương, sản xuất 
một lượng lớn globulin đơn dịng trong huyết 
thanh gây tăng độ quánh máu, khi tăng sản xuất 
các chuỗi nhẹ cĩ thể gây tổn thương các cơ quan, 
đặc biệt là thận gây suy thận (Creatinin máu 
>1,73 µmol/ml)(2). 
Waldenstrưm là bệnh lý tăng IgM>3 mg/dl 
và cĩ sự tăng sinh lympho cũng như tế bào dịng 
*Đại học Y Hà Nội **Viện Huyết học - Truyền máu Trung Ương 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Chí Thành ĐT: 0968460593 Email: 
[email protected] 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 58
tương bào trong tủy xương. Bệnh biểu hiện chủ 
yếu với các triệu chứng tăng độ quánh huyết 
tương, triệu chứng tại gan, lách và hạch to cũng 
thường gặp. Ngồi ra, bệnh nhân (BN) khơng cĩ 
biểu hiện tổn thương xương(2). 
Điều trị bệnh lý tăng gamma đơn dịng gồm 
nhiều phương pháp: ghép tế bào gốc đồng lồi 
hoặc tự thân, hĩa trị liệu, và các biện pháp điều 
trị hỗ trợ. Điều trị hỗ trợ là một phần quan trọng 
trong điều trị bệnh lý tăng gamma đơn dịng. 
Gạn tách huyết tương là một biện pháp hiệu quả 
điều trị trong trường hợp tăng độ quánh máu, 
suy thận thứ phát do tăng gamma đơn dịng. 
Trao đổi huyết tương (TĐHT) là một kĩ thuật 
gạn tách phổ biến, được xem là phương pháp 
ngăn ngừa bệnh thận do chuỗi nhẹ và loại bỏ 
chuỗi nhẹ trong huyết tương(2,10). 
Chuyên đề này tập trung giới thiệu chỉ định 
cũng như hiệu quả điều trị gạn và trao đổi huyết 
tương ở bệnh nhân tăng gamma đơn dịng. 
CHỈ ĐỊNH TRAO ĐỔI HUYẾT TƯƠNG 
Trao đổi huyết tương là một phương pháp 
gạn tách thành phần máu hiện đang được sử 
dụng như một phương thức trị liệu quan 
trọng trong rất nhiều bệnh. Nhìn chung, 
TĐHT được tiến hành khi một chất trong 
huyết tương, chẳng hạn như globulin miễn 
dịch, gây độc cấp tính và cĩ thể được loại bỏ 
một cách hiệu quả. Rất nhiều bệnh thuộc các 
chuyên ngành khác nhau (bao gồm thần kinh, 
huyết học, chuyển hĩa, da liễu, cơ xương khớp 
và bệnh thận, cũng như chống độc) cĩ thể 
được điều trị bằng phương pháp TĐHT(14). 
Ủy ban ứng dụng gạn tách của Hiệp hội gạn 
tách Hoa Kỳ (ASA) định kỳ đánh giá các chỉ 
định tiềm năng cho gạn tách và phân loại chúng 
từ I đến IV trên cơ sở các tài liệu y khoa cĩ sẵn(8). 
Sau đây là một số chỉ dẫn và phân loại từ các 
hướng dẫn của Hiệp hội. 
Loại I (các rối loạn mà Gạn tách được chấp 
nhận là liệu pháp đầu tay, như là một điều trị 
độc lập chính hoặc kết hợp với các phương thức 
điều trị khác) như sau: 
- Hội chứng Guillain Barre. 
- Bệnh nhược cơ. 
- Viêm đa dây thần kinh mãn tính. 
- Tăng độ quánh huyết tương trong các tăng 
gammaglobulin đơn dịng. 
- Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối. 
- Hội chứng Goodpasture (trừ trường hợp 
phụ thuộc vào lọc máu và khơng cĩ xuất huyết 
phế nang lan tỏa). 
- Hội chứng tán huyết tăng urê huyết (khơng 
điển hình, do tự kháng thể với yếu tố H). 
- Bệnh Wilson, fulminant. 
Loại II (các rối loạn mà Gạn tách được xem là 
liệu pháp thứ hai, điều trị độc lập hoặc kết hợp 
với các phương thức điều trị khác) như sau: 
Hội chứng nhược cơ Lambert-Eaton. 
- Bệnh đa xơ cứng (bệnh suy giảm hệ thống 
thần kinh trung ương cấp tính khơng đáp ứng 
với steroid). 
- Tan máu miễn dịch trong thai kỳ. 
- Ngộ độc nấm. 
- Viêm não lan tỏa cấp tính. 
- Hội chứng tan máu tăng ure máu (khơng 
điển hình, do đột biến yếu tố bổ sung). 
- Thiếu máu tan máu tự miễn (bệnh kháng 
thể lạnh đe dọa tính mạng). 
- Lupus ban đỏ hệ thống (nặng). 
- Bệnh u tủy thận. 
Loại III (các rối loạn mà Gạn tách khơng cĩ 
vai trị tối ưu; việc ra quyết định nên được cá 
nhân hĩa) như sau: 
- Ban xuất huyết sau truyền máu. 
- Thiếu máu tan máu tự miễn. 
- Viêm tụy tăng triglyceride máu. 
- Bão giáp trạng. 
Loại IV (các rối loạn trong đĩ cĩ bằng chứng 
cho thấy Gạn tách khơng hiệu quả hoặc cĩ hại; 
của ủy ban phê duyệt thể chế [IRB] nếu mong 
muốn điều trị Gạn tách được thực hiện trong 
những trường hợp này) như sau: 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 59
- Hội chứng tán huyết urê huyết (tiêu chảy 
liên quan). 
- Lupus ban đỏ hệ thống (viêm thận). 
- Giảm tiểu cầu miễn dịch. 
Như vậy, trong bệnh lý tăng gamma đơn 
dịng, trao đổi huyết tương được coi là liệu pháp 
đầu tay để điều trị tình trạng tăng độ quánh máu 
huyết tương trong bệnh lý tăng gamma globulin 
đơn dịng, cĩ trong chỉ định loại I của ASA và là 
liệu pháp thứ 2, cĩ thể áp dụng độc lập hoặc 
phối hợp với thuốc khác khi cĩ tổn thương thận 
trong đa u tủy xương, cĩ trong chỉ định loại II 
của ASA(8). 
Trao đổi huyết tương dựa trên nguyên lý 
phương pháp ly tâm tách huyết tương do đĩ các 
thành phần máu được loại bỏ, phân biệt dựa trên 
mật độ. Hiệu quả của phương pháp dựa vào 
hiệu quả ly tâm của máy và dựa vào đặc tính của 
các phân tử mục tiêu cần loại bỏ. 
HIỆU QUẢ TRAO ĐỔI HUYẾT TƯƠNG Ở BỆNH 
NHÂN TĂNG GAMMA ĐƠN DỊNG 
Globulin miễn dịch đơn dịng hoặc các mảnh 
globulin miễn dịch tích lũy trong huyết tương 
gọi là protein M. Trong một số bệnh lý rối loạn 
protein M, hay gặp là đa u tủy xương và 
Waldenstrưm, nồng độ protein M trong huyết 
tương thường tăng và cĩ thể dẫn đến các biểu 
hiện khác nhau trên lâm sàng(10). Các biến chứng 
của rối loạn protein M liên quan trực tiếp nhất 
đến liệu pháp TĐHT là hội chứng tăng độ quánh 
máu và tổn thương tại thận(1,4,14). Cả hai đều là 
biến chứng lâm sàng trực tiếp của tăng protein 
M ở bệnh nhân Waldenstrưm hoặc đa u tủy 
xương, do đĩ cả hai được coi là chỉ định loại I và 
II của Hiệp hội Gạn tách Hoa Kỳ. Chỉ định loại I 
cĩ nghĩa là điều trị TĐHT là liệu pháp đầu tay 
trong điều trị cịn chỉ định loại II cĩ nghĩa là một 
phương pháp điều trị hỗ trợ hoặc bổ trợ nhưng 
thơng thường khơng phải là phương pháp điều 
trị duy nhất nên được sử dụng. Vì vậy, hĩa trị là 
cần thiết để đạt được sự kiểm sốt lâu dài các rối 
loạn này trong khi TĐHT được sử dụng để kiểm 
sốt tạm thời hoặc điều trị triệu chứng(8) (Hình 1). 
Các yếu tố chính chi phối việc loại bỏ các 
chất mục tiêu trong TĐHT bao gồm thể tích 
phân phối, t1/2, và khả năng phục hồi của phân 
tử mục tiêu trong mạch máu sau liệu pháp(11). 
BUN Creatinine VitB12 β 2-Microglobulin 
Chuỗi nhẹ 
κ 
Chuỗi nhẹ 
λ 
Albumin IgG IgM 
0.06 0.113 1.355 11.8 25 50 66 160 950 
Hình 1. Hiệu quả gạn tách huyết tương liên quan với kích thước phân tử đích(11) 
Liệu pháp trao đổi huyết tương trong bệnh lý 
rối loạn protein M nhằm mục đích kiểm sốt 
tăng độ quánh máu 
Hội chứng tăng độ quánh máu là các triệu 
chứng lâm sàng xuất hiện liên quan đến tăng độ 
quánh máu, đây là một biến chứng hiếm gặp của 
đa u tủy xương (2-6%), phổ biến nhất ở đa u tủy 
xương IgG. Điều trị hội chứng tăng độ quánh 
máu bằng TĐHT đi kèm với điều trị hĩa chất(7). 
Độ quánh máu tồn phần thay đổi phụ 
thuộc vào hematocrit, sự tập trung của hồng 
cầu, protein huyết tương và tương tác giữa 
máu và thành mạch. Khi độ quánh máu tăng 
lên, đi kèm với sự gia tăng của sự tắc nghẽn 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 60
trong các mạch máu nhỏ, gây tổn thương nội 
mơ tĩnh mạch của mắt và các bề mặt niêm mạc 
khác. Hội chứng tăng độ quánh máu với biểu 
hiện lâm sàng là tam chứng: xuất huyết niêm 
mạc, giảm thị lực do tổn thương võng mạc và 
triệu chứng thần kinh. Các dấu hiệu và triệu 
chứng cụ thể bao gồm đau đầu, chĩng mặt, 
rung giật nhãn cầu, giảm thính lực, suy giảm 
thị lực, buồn ngủ, hơn mê và co giật. Các biểu 
hiện khác bao gồm suy tim sung huyết (liên 
quan đến mở rộng thể tích huyết tương), suy 
hơ hấp, bất thường đơng máu, thiếu máu, mệt 
mỏi (cĩ lẽ liên quan đến thiếu máu), tổn 
thương đa dây thần kinh ngoại biên (tùy thuộc 
vào đặc tính cụ thể của immunoglobulin) và 
chứng chán ăn(14). Hội chứng này xảy ra điển 
hình nhất ở Waldenstrưm, u lympho tế bào 
lymphoplasmo cĩ tăng IgM đơn dịng (protein 
M) trong huyết tương >3g/dL. Trong đa u tủy 
xương, khi cĩ tăng IgA đơn dịng 6-7g/dL hoặc 
tăng IgG3 đơn dịng trong huyết tương 4 g/dL. 
Độ quánh máu tồn phần khơng nhất thiết 
phải tăng tương đồng với độ quánh huyết 
thanh (so với nước: chỉ số bình thường của độ 
quánh huyết tương là 1,4 -1,8 centipoise [cp]). 
Do đĩ, đo độ quánh huyết tương khơng tương 
quan hồn tồn với các triệu chứng lâm sàng ở 
từng bệnh nhân. Tuy nhiên, hầu hết tất cả các 
bệnh nhân sẽ cĩ triệu chứng khi độ quánh 
huyết tương tăng lên từ 6-7 cp. Một số cĩ thể 
cĩ triệu chứng ở độ quánh huyết tương thấp 
từ 3-4 cp, một số khác cho đến khi độ quánh 
của chúng đạt tới 8-10 cp. Dữ liệu gần đây cho 
thấy những biểu hiện ban đầu của bệnh lý 
võng mạc liên quan đến tăng độ quánh huyết 
tương ở Waldenstrưm cĩ thể được phát hiện 
khi độ quánh máu thấp tới mức 2,1 cp và IgM 
<3 g/dL, sử dụng phương pháp soi đáy mắt 
gián tiếp. Tuy nhiên, trung bình hội chứng 
tăng độ quánh máu xuất hiện khi độ quánh 
tăng tới 4-5 cp, tương ứng với lượng IgM 
huyết tương ≥3 g/dl, hoặc mức IgG ≥4 g/dl, 
hoặc mức IgA ≥6 g/dl(4,10). 
Như vậy, chỉ định TĐHT được đưa ra điều 
trị cấp cứu khi bệnh nhân cĩ các biểu hiện của 
hội chứng tăng độ quánh máu, chỉ định điều trị 
dự phịng hội chứng tăng độ quánh máu khi cĩ 
các triệu chứng gợi ý và/hoặc khi cĩ độ quánh 
huyết tương tăng tới 4-5cp, hoặc khi IgM huyết 
tương ≥3 g/dl, hoặc mức IgG ≥4 g/dl, hoặc mức 
IgA ≥6 g/dl. 
Mỗi thủ thuật TĐHT trao đổi khoảng 1-1,5 
lần thể tích huyết tương của bệnh nhân, với dịch 
thay thế là albumin hoặc albumin/saline và cĩ 
thể thực hiện hàng ngày đến khi đạt được mục 
tiêu điều trị, làm giảm các triệu chứng của hội 
chứng tăng độ quánh máu cấp tính. Khi nồng độ 
protein M tăng trong máu, làm tăng độ quánh 
máu, khi bệnh nhân đạt đến ngưỡng sẽ biểu 
hiện triệu chứng. Cùng một ngưỡng biểu hiện 
triệu chứng, loại bỏ một lượng tương đối protein 
M ra khỏi huyết tương (bởi TĐHT) sẽ cĩ tác 
dụng hạ thấp độ quánh. Do đĩ, TĐHT là nhanh 
chĩng và hiệu quả trong việc làm giảm triệu 
chứng. Độ quánh là yếu tố chính quyết định lưu 
lượng máu mao mạch, TĐHT làm tăng đáng kể 
lưu lượng máu mao mạch, được đo bằng kính 
hiển vi(8). 
Liệu pháp TĐHT trong bệnh lý rối loạn 
Protein M nhằm mục đích kiểm sốt tổn 
thương thận 
Suy thận là một biến chứng phổ biến của 
bệnh đa u tủy xương và các bệnh lý tăng sinh 
tương bào khác, liên quan với tăng tỷ lệ tử vong. 
Cĩ gần 50% bệnh nhân đa u tủy xương mới 
được chẩn đốn cĩ kèm suy thận, khoảng 20% 
bệnh nhân cĩ suy thận mức độ nặng(2,3). Các cơ 
chế gây tổn thương thận liên quan đến 
paraprotein ngày càng được hiểu rõ. Suy thận 
liên quan đến đa u tủy xương cĩ thể là kết quả 
độc lập của tăng globulin miễn dịch, cũng cĩ thể 
do các cơ chế khác bao gồm tăng calci máu, bệnh 
thận do axit uric, suy giảm thể tích, nhiễm trùng 
huyết, tiêu cơ vân, thuốc chống viêm khơng 
steroid và ức chế hệ thống renin-angiotensin(1). 
Suy thận tiến triển nhanh chĩng gây ra bởi 
các protein gây độc cho thận tiết ra bởi các tế 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 61
bào ung thư. Các tế bào B tổng hợp các chuỗi 
nặng và nhẹ, bình thường cĩ sự dư thừa chuỗi 
nhẹ so với chuỗi nặng để tổng hợp globulin 
miễn dịch hiệu quả. Các chuỗi nhẹ được lọc 
bởi cầu thận và tiết trong ống lượn gần bằng 
cơ chế qua trung gian thụ thể. Độ bão hịa của 
các thụ thể do sự tăng lên đáng kể chuỗi nhẹ 
trong tuần hồn gặp ở bệnh nhân đa u tủy 
xương. Tăng độ bão hịa chuỗi nhẹ gây tổn 
thương trực tiếp tế bào biểu mơ ống lượn gần, 
phụ thuộc vào liều và thời gian. Chuỗi nhẹ 
xuất hiện trong ống thận và đi đến ống lượn 
xa nơi chúng kết hợp với protein Tamm-
Horsfall để tạo thành phức hợp gây tắc nghẽn 
ống thận. Sự tắc nghẽn này cĩ thể dẫn đến suy 
thận cấp và nếu kéo dài, dẫn đến suy thận giai 
đoạn cuối. Mặc dù một số cơ chế được đề xuất 
để giải thích cơ chế suy thận tiến triển nhanh 
trong đa u tủy xương, vai trị của thừa chuỗi 
nhẹ với tổn thương ống lượn gần và hình 
thành phức hợp gây tắc nghẽn ống lượn xa 
được cho là trung tâm bệnh học của suy thận 
tiến triển nhanh(1,2). 
Trao đổi huyết tương lần đầu tiên được báo 
cáo là một phương tiện cải thiện chức năng thận 
bằng cách giảm chuỗi nhẹ đến ống lượn xa trong 
báo cáo ca bệnh năm 1976, tiếp theo cĩ 3 bệnh 
nhân đã được báo cáo trong năm 1979. Kể từ đĩ 
ba thử nghiệm ngẫu nhiên đã chỉ ra rằng TĐHT 
ngắn hạn, kết hợp với truyền dịch, kiềm hĩa 
nước tiểu, lợi tiểu và hĩa trị sẽ cải thiện tình 
trạng thận (và cải thiện tỉ lệ sống chung) của 
bệnh nhân đa u tủy xương và u tủy thận(10). 
TĐHT hay gạn huyết tương là phương pháp 
quan trọng ngăn ngừa tổn thương thận do loại 
bỏ chuỗi nhẹ ra khỏi tuần hồn, giúp tạm thời 
giảm sự tiếp xúc của chuỗi nhẹ với thận cho đến 
khi liệu pháp hĩa trị cĩ tác dụng ức chế sản xuất 
các chuỗi nhẹ này(8). 
Từ 2003, Tổ chức Gạn tách Hoa Kỳ đã khẳng 
định, phương pháp kết hợp đồng thời TĐHT và 
lọc máu, cyclophosphamide và điều trị hỗ trợ 
giúp cải thiện tốt tình trạng suy thận đồng thời 
làm giảm số lần bệnh nhân phải nhập viện để lọc 
máu và gạn huyết tương(5,8). 
Theo báo cáo của Sethi năm 2017, đa số bệnh 
nhân (86%) cĩ tình trạng suy thận được cải thiện 
sau 8 lần TĐHT, trong đĩ đáp ứng hồn tồn là 
57%, đáp ứng một phần chiếm 29%(9). 
Theo một số nghiên cứu, mặc dù tỉ lệ sống 
thêm sau 6 tháng ở những bệnh nhân cĩ phối 
hợp điều trị hĩa chất và TĐHT so với nhĩm 
bệnh nhân khơng TĐHT là khơng cĩ sự khác 
biệt đáng kể (75% so với 66,7%). Tuy nhiên, sau 6 
tháng, nhĩm bệnh nhân cĩ TĐHT cĩ tỉ lệ cần tiếp 
tục lọc máu thấp hơn rõ rệt so với nhĩm khơng 
cĩ gạn huyết tương (15,6% với 37,2%)(13). 
KẾT LUẬN 
Như vậy, trao đổi huyết tương là liệu pháp 
cĩ ý nghĩa quan trọng để điều trị cấp cứu cũng 
như dự phịng bệnh lý tăng gamma đơn dịng 
cĩ hội chứng tăng độ quánh máu hoặc cĩ suy 
thận tiến triển. Vừa điều trị cấp cứu hội chứng 
tăng độ quánh máu, giúp cải thiện chức năng 
thận trong các trường hợp suy thận cấp, về lâu 
dài vừa giảm nhu cầu lọc máu ở những bệnh 
nhân cĩ tổn thương thận mạn tính. Hiện nay, 
phương pháp kết hợp đồng thời TĐHT và lọc 
máu đang được nghiên cứu và phát triển, gĩp 
phần giảm số lần nhập viện, thời gian nằm 
viện của bệnh nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Eliot C, Heher HGR (2013). Kidney Disease and Multiple 
Myeloma. Clinical Journal of the American Society of Nephrology, 
8(11):2007–2017. 
2. Kourelis TV, Manola A, Moustakakis MN, et al (2013). Role of 
plasma exchange in the treatment of myeloma nephropathy: 
experience of one institution and systematic review. Conn 
Med, 77(3):147–151. 
3. Leung N và Nasr SH (2014). Myeloma-related kidney disease. 
Adv Chronic Kidney Dis, 21(1): 36–47. 
4. Mehta J (2003). Hyperviscosity Syndrome in Plasma Cell 
Dyscrasias. In Seminars in thrombosis and hemostasis, 
29(05):467-472. Thieme Medical. 
5. Moist L (1999). Plasma Exchange in Rapidly Progressive Renal 
Failure Due to Multiple Myeloma. American Journal of 
Neuphrology, 19(1):45–50. 
6. Mullen E và Mendez N (2008). Hyperviscosity syndrome in 
patients with multiple myeloma. Oncol Nurs Forum, 35(3):350–
352. 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 62
7. Mullen E và Wang M (2007). Recognizing hyperviscosity 
syndrome in patients with Waldenstrom macroglobulinemia. 
Clin J Oncol Nurs, 11(1):87–95. 
8. Schwartz J, Padmanabhan A (2016). Guidelines on the use of 
therapeutic apheresis in clinical practice—evidence-based 
approach from the Apheresis Applications Committee of the 
American Society for Apheresis. Journal of Clinical 
Apheresis,31:149–338. 
9. Sethi J, Ramachandran R, Malhotra P, et al (2017). Plasma 
exchange in the management of new onset multiple myeloma 
with cast nephropathy treated with bortezomib based 
chemotherapy. Nephrol Carlton Vic, 22(12):1035–1036. 
10. Weinstein R (2005). Therapeutic plasma exchange for M-
protein disorders: Considerations for hyperviscosity and 
myeloma kidney. Rev Med Inst Mex Seguro Soc, 43(1):158–161. 
11. Williams ME, et al (2014). Principles of Separation: Indications 
and Therapeutic Targets for Plasma Exchange. Clinical Journal 
of the American Society of Nephrology, 9(1):181–190. 
12. Winters JL (2008). Therapeutic aphresis, American Association 
of Blood Banks. 
13. Yu X, Gan L, Wang Z, et al (2015). Chemotherapy with or 
without plasmapheresis in acute renal failure due to multiple 
myeloma: a meta-analysis. Int J Clin Pharmacol Ther, 53(5):391–
397. 
14. Zarkovic M (2003). Correction of Hyperviscosity by Apheresis. 
In Seminars in thrombosis and hemostasis, 29(5):535-542. 
Thieme Medical. 
Ngày nhận bài báo: 15/07/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019