Tính trọng sức mạnh và trọng nhu mềm trong văn hóa hai miền Bắc Nam Trung Quốc

Tài liệu Tính trọng sức mạnh và trọng nhu mềm trong văn hóa hai miền Bắc Nam Trung Quốc: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 121 TÍNH TRỌNG SỨC MẠNH VÀ TRỌNG NHU MỀM TRONG VĂN HÓA HAI MIỀN BẮC NAM TRUNG QUỐC The characteristic of appreciation of strength and softness in northern and southern Chinese culture ThS.NCS. Nguyễn Minh Trí Sở Du lịch TP.HCM Tóm tắt Trung Quốc là một đất nước rộng lớn, có sự đa dạng về văn hóa giữa các vùng miền. Trong sự đa dạng này, sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền Bắc Nam chính là sự khác biệt lớn nhất và rõ ràng nhất. Sự khác biệt thể hiện trên nhiều khía cạnh, trong đó có thể thấy rõ qua tính cách người Hán hai miền trên lĩnh vực văn hóa tổ chức. Người miền Bắc có xu hướng coi trọng sức mạnh, người miền Nam có xu hướng coi trọng sự nhu mềm. Giỏi chiến đấu, quan tâm đến đạo đức xã hội, giản dị, tiết kiệm là biểu hiện giá trị c...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính trọng sức mạnh và trọng nhu mềm trong văn hóa hai miền Bắc Nam Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 121 TÍNH TRỌNG SỨC MẠNH VÀ TRỌNG NHU MỀM TRONG VĂN HÓA HAI MIỀN BẮC NAM TRUNG QUỐC The characteristic of appreciation of strength and softness in northern and southern Chinese culture ThS.NCS. Nguyễn Minh Trí Sở Du lịch TP.HCM Tóm tắt Trung Quốc là một đất nước rộng lớn, có sự đa dạng về văn hóa giữa các vùng miền. Trong sự đa dạng này, sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền Bắc Nam chính là sự khác biệt lớn nhất và rõ ràng nhất. Sự khác biệt thể hiện trên nhiều khía cạnh, trong đó có thể thấy rõ qua tính cách người Hán hai miền trên lĩnh vực văn hóa tổ chức. Người miền Bắc có xu hướng coi trọng sức mạnh, người miền Nam có xu hướng coi trọng sự nhu mềm. Giỏi chiến đấu, quan tâm đến đạo đức xã hội, giản dị, tiết kiệm là biểu hiện giá trị của tính trọng sức mạnh ở miền Bắc. Trong khi đó, giỏi kinh doanh, quan tâm đến đạo đức cá nhân, sang trọng, hào phóng là biểu hiện giá trị của tính trọng nhu mềm ở miền Nam. Từ khóa: tính cách văn hóa Trung Quốc, tính trọng nhu mềm, tính trọng sức mạnh, văn hóa Bắc Nam Trung Quốc Abstract China is a huge country with a variety of diversity between regions. Among those diversities, the cultural differences in northern and southern China are the largest and clearest. Those differences have been shown in many fields, in which it can be seen clearly in the personality of Chinese people in the two regions in the field of organizational culture. The northern Chinese people tend to value strength, while the southern Chinese people tend to appreciate softness. Being good at fighting, concerned about social morality, simple and economical is the expression of the appreciation of strength in the North. Meanwhile, being good at business, paying attention to personal morality, luxury, generosity is a manifestation of the appreciation of softness in the South. Keywords: Chinese cutural characteristics, softness, strength, northern and southern Chinese culture 1. Dẫn nhập Trung Quốc là một nước có truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời và liên tục. Khi đứng ngoài nhìn vào người ta thường lầm tưởng rằng nền văn hóa Trung Hoa hoặc dân tộc Trung Hoa thuần nhất, nhưng không phải như vậy. Nền văn hóa Trung Hoa là sự kết hợp của nhiều giống người khác nhau từ nguồn gốc tới ngôn ngữ, nghệ thuật, tính cách. Khi nói đến sự khác biệt ở Trung Quốc, thì "ngay cả trong một tỉnh cũng tồn tại sự khác biệt nhất định, nhưng sự khác biệt Nam Bắc chính là sự khác biệt lớn nhất, rõ ràng nhất" (杜瑜, 2010, tr. 3, 4). Tính cách văn hóa được xác định là "hệ thống các giá trị tinh thần tương đối Email: nguyenminhtrihcm@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 122 bền vững của một cộng đồng người (chủ thể) trong điều kiện không gian và thời gian sinh tồn cụ thể của họ" (Trần Ngọc Thêm, 2016, tr. 60). “Miền Bắc” - “miền Nam” ở đây được hiểu là sự đối lập nội bộ trong nửa phía Đông của đất nước Trung Quốc, với ranh giới là dãy Tần Lĩnh - Hoài Hà (xem về “Mô hình phân vùng văn hóa Trung Hoa” trong (Trần Ngọc Thêm, 2014, tr. 442-447)). Bài viết của chúng tôi có mục tiêu làm sáng tỏ sự khác biệt trong tính cách văn hóa giữa hai miền đối với cặp "trọng sức mạnh và trọng nhu mềm" trong lĩnh vực văn hóa tổ chức. 2. Khái niệm, nguồn gốc của tính trọng sức mạnh và trọng nhu mềm 2.1. Khái niệm tính trọng sức mạnh và tính trọng nhu mềm Theo Hoàng Phê (1988/2003), “sức mạnh” được định nghĩa là "khả năng tác động mạnh mẽ đến những người khác, đến sự vật, gây tác dụng ở mức cao" (Hoàng Phê 1988/2003, tr. 879). “Từ điển Bách khoa Việt Nam” lại xác định sức mạnh là "lực do cơ bắp sản sinh ra trong quá trình co cơ nhằm khắc phục trọng lượng hoặc lực cản bên ngoài" (Từ điển Bách khoa Việt Nam, 2003, tr. 835). Tính trọng sức mạnh trong văn hóa tổ chức có thể hiểu là “sự coi trọng khả năng tác động mạnh mẽ của chủ thể trong tổ chức đời sống cộng đồng”. “Nhu” là một từ gốc Hán (柔), được xác định là “mềm yếu, thuận theo, phục theo” (Đào Duy Anh, 1932/2005, tr. 544) hay đơn giản hơn đó là sự “mềm mỏng” (Hoàng Phê, 1988/2003, tr. 725). Trong khi đó, “Mềm” được xác định có sáu nghĩa, trong đó có ba nghĩa chính như sau (1) dễ biến dạng dưới tác dụng của lực cơ học, trái với cứng; (2) có khả năng làm những tác động nào đó và chuyển đổi động tác một cách rất dễ dàng, tự nhiên; (3) dễ dàng có những nhân nhượng tùy theo hoàn cảnh (Hoàng Phê, 1988/2003, tr. 629). Có thể tạm hiểu tính trọng nhu mềm trong lĩnh vực văn hóa tổ chức là “việc coi trọng sự mềm mỏng, tôn trọng tính quy luật tự nhiên trong tổ chức đời sống cộng đồng”. 2.2. Nguồn gốc của tính trọng sức mạnh ở miền Bắc và tính trọng nhu mềm ở miền Nam 2.2.1. Xét về môi trường tự nhiên, người miền Bắc sống trong môi trường tự nhiên tương đối khắc nghiệt, với khí hậu hàn ôn đới/ ôn đới/ ôn đới ẩm, có độ ẩm ở mức khô hạn hoặc bán khô hạn, nhiệt độ lạnh khô, lượng mưa ít (dưới 800mm/năm), địa hình lại cao, nền vững chắc, không thuận tiện cho trồng trọt.v.v. Muốn tồn tại trong môi trường này, người miền Bắc phải có một bản lĩnh kiên cường, mạnh mẽ và tổ chức kỷ cương, phép tắc mới có thể giải quyết được các vấn đề thực tế đặt ra. Trong khi đó, người miền Nam được sống trong môi trường tự nhiên tương đối thuận lợi, có khí hậu á nhiệt đới/ nhiệt đới, độ ẩm ở mức bán ẩm ướt và ẩm ướt, lượng mưa nhiều (trên 800 mm/năm), địa hình thấp, đất đai mềm xốp, phì nhiêu; khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi, trồng được lúa gạo với năng suất gấp hai lúa mì. Điều kiện tự nhiên thuận lợi này đã khiến cho người miền Nam không cần phải cố gắng nhiều, cuộc sống không đòi hỏi phải quá chặt chẽ, kỷ cương, phép tắc, do vậy mà thay vào đó, tổ chức cuộc sống của người miền Nam thiên về coi trọng sự mềm mại, thuận theo tự nhiên, chan hòa, tình cảm. Phan Khoang trong Trung Quốc Sử lược cũng cho rằng ở phương Nam, "khí hậu ấm áp, đất đai béo tốt, sinh hoạt dễ dàng, nên nhân dân thiên NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 123 về tình cảm" (Phan Khoang, 1958, tr. 44). 2.2.2. Xét về đặc điểm nguồn gốc tộc người, Lâm Ngữ Đường (1935/2001) cho rằng dân tộc Trung Hoa sở dĩ được kế tiếp sinh tồn mãi, không phải chỉ nhờ vào sức chịu đau giỏi và những "sợi dây thần kinh thô lỗ" trong mình họ, mà thực ra là nhờ thu hút được dân tộc Mông Cổ. Những đặc tính về ngôn ngữ và vóc dáng của người miền Bắc ngày nay cho thấy rõ chất Mông Cổ này: họ vẫn còn giọng nói khó khăn, ấp úng khi biến âm, vóc người cao lớn, tính tình vui vẻ nhưng chất phác, đó là những đặc biệt của chủng tộc họ từ xưa (Lâm Ngữ Đường, 1935/2001, tr. 55, 62). Cùng quan điểm trên, nhà nghiên cứu người Trung Quốc张仁富 (2009) cho rằng người miền Bắc có gien văn hóa du mục bẩm sinh, được rèn luyện trong cuộc sống gian khổ. Tộc thiểu số Trung Quốc có hơn 100 loại, trong đó có đến 80 - 90% ở lưu vực Hoàng Hà và vùng lân cận. Do môi trường lịch sử và tự nhiên, đại đa số các tộc thiểu số này thuộc giai đoạn văn hóa du mục. Trong một thời gian dài, họ vừa xung đột vừa dần dần đồng hóa và dung hợp với tộc Hán. Từ đó mà các cư dân miền Bắc không ngừng tiếp nhận gien vốn có của văn hóa du mục. Chất du mục đã làm người miền Bắc coi trọng sức mạnh trong tổ chức đời sống cộng đồng của mình. Khác với lưu vực Hoàng Hà là nơi có đông tộc thiểu số sinh sống, ở miền Nam có hai tộc được lịch sử ghi lại nhiều nhất là Man (蛮) và Liêu (獠). Các tộc này không hẳn là tộc thiểu số, mà ít nhiều là do cách gọi miệt thị của người miền Bắc đối với người miền Nam: từ thời Tiên Tần, cư dân miền Nam đã luôn bị gọi là Nam Man (南蛮). So với miền Bắc, tộc người ở miền Nam thuần hơn cộng với văn hóa nông nghiệp định cư đã làm cho người miền Nam trở nên yếu ớt hơn. "Con người ở miền Nam quen với nếp sống yên ổn, nhàn hạ, trí khôn phát triển nhưng thể xác có phần suy kém. Con trai thường trắng trẻo thấp nhỏ, con gái thường nõn nà, yếu ớt" (Lâm Ngữ Đường, 1935/2001, tr. 40). 2.2.3. Xét về lịch sử tổ chức xã hội, lưu vực Hoàng Hà và lưu vực Trường Giang đều có lịch sử lâu đời. Trước đây, mọi người thường coi lưu vực Hoàng Hà là cái nôi trung tâm của văn minh Trung Quốc, nhưng gần đây cùng với sự phát hiện và nghiên cứu các nền văn hóa thời đồ đá mới ở lưu vực Trường Giang như Thanh Liên Cương (青莲岗), Đại Vấn Khẩu (大汶口), Mã Giang Bang (马家浜), Hà Mẫu Độ (河姆渡文化), Khuất Gia Lĩnh (屈家岭), đặc biệt là sự phát hiện và nghiên cứu người vượn Nguyên Mưu (1) (元谋猿人), thì quan điểm trung tâm đơn nhất này đã bị lung lay dữ dội. Theo张仁富 (2009), ngày càng có khuynh hướng cho rằng văn minh Trung Quốc có đến hai cái nôi cùng tồn tại song song với nhau: lưu vực Hoàng Hà và lưu vực Trường Giang cùng nhau phát triển. Song, văn minh Trường Giang có lịch sử lâu đời hơn rất nhiều thể hiện qua việc người vượn Mậu Nguyên lưu vực Trường Giang có mặt sớm hơn người vượn Bắc Kinh và người vượn Lam Điền (蓝田) hơn một triệu năm. Tuy nhiên, có thể do nguyên nhân về mặt địa lý, sự phát triển đi sau của lưu vực Trường Giang (đặc biệt là trước thời Đường Tống) lạc hậu hơn nhiều so với miền Bắc. Ở miền Bắc, đến thời Chu, tổ chức nhà nước đã đi vào quy củ, chặt chẽ, đã hình thành tương đối hoàn chỉnh trật tự giai cấp xã hội, chế độ hình pháp và chế độ lễ nghi SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 124 đạo đức luân lý kỷ cương. Sống lâu ngày trong môi trường như vậy, người miền Bắc chú trọng đến sức mạnh và quan tâm đến chính trị. Ở miền Nam, tổ chức nhà nước được thành lập muộn hơn, hệ thống cai trị, lễ nghi tương đối lỏng lẻo; một bộ phận khá đông cư dân là kết quả của việc trốn tránh chiến tranh mà di chuyển về miền Nam. Từ đó, người miền Nam không bị trói buộc nhiều, tự do thông thương. 3. Các biểu hiện giá trị của tính trọng sức mạnh và tính trọng nhu mềm 3.1. Giỏi chiến đấu - giỏi kinh doanh; quan tâm đến chính trị xã hội - quan tâm đến đạo đức cá nhân Trong quá trình sinh tồn, người miền Bắc phải liên tục chống lại khí hậu tự nhiên ác liệt, với lũ lụt của sông Hoàng Hà, với sự xâm nhập, quấy nhiễu từ bên ngoài, hình thành tâm lý căng thẳng cao độ, liên tục xây dựng trường thành kiên cố; đấu tranh chính trị thay đổi bất ngờ, tình hình xã hội biến động bất an, sự thịnh suy của vương triều có liên quan đến vận mệnh sinh tử cá nhân; chiến tranh khói lửa triền miên; mối quan hệ phức tạp của con người được hình thành từ giao thông đi lại thuận tiện; cảnh tượng cao nguyên hùng vĩ và đồng bằng bao la.v.v. Những đặc điểm này đã tạo cho cư dân miền Bắc nhiều đặc tính, trong đó có giỏi chiến đấu và quan tâm đến chính trị, đạo đức xã hội. Mọi người đều có thể là "tiểu chính trị gia" (Lưu Á Châu, 2010, tr. 113). Miền Bắc là nơi xảy ra nhiều cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực, thôn tính lẫn nhau hơn bất cứ miền nào ở Trung Quốc. Theo thống kê trong 4.500 năm của lịch sử quân sự Trung Quốc, từ thời đại Thần Nông trong truyền thuyết vào thế kỷ 26 TCN đến năm 1911, thời điểm Nhà Thanh sụp đổ, Trung Quốc có tổng cộng 3791 cuộc chiến tranh lớn nhỏ(2). Trong số này có khoảng 65-70% xảy ra ở khu vực miền Bắc. Muốn tổ chức tốt đời sống cộng đồng trong môi trường như vậy, đòi hỏi người miền Bắc phải giỏi chiến đấu và quan tâm đến chính trị. Từ thời cổ đại, Khổng Tử trong sách Trung Dung đã cho rằng: "Về cái mạnh của phương Nam ư? Hay cái mạnh của phương Bắc ư? ... Khoan hòa mềm mại để dạy người, không báo thù kẻ vô đạo - ấy là cái mạnh của phương Nam, người quân tử ở vào phía ấy. Xông pha gươm giáo, dầu chết không nản, ấy là cái mạnh của phương Bắc - kẻ mạnh ở vào phía ấy"(3). Lịch sử Trung Quốc đã cho thấy đa số các triều đại đều được dựng lên tại miền Bắc với 41/53 triều đại, chiếm tỷ lệ 77,35%. Lý giải cho vấn đề này, Lâm Ngữ Đường cho rằng việc khai sáng một hoàng triều, cần hạng người có thái độ hào phóng, mộc mạc điển hình của phương Bắc, thường khinh học vấn và coi rẻ luân lý của Khổng tử, đến lúc đại cục đã yên, ngảnh mặt phương Nam lên ngôi Hoàng đế, lúc đó tư tưởng tôn quân của Khổng tử lại là đắc dụng (Lâm Ngữ Đường, 1935/2001, tr. 43). Người miền Bắc “giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”, một đặc điểm của việc quan tâm đến đạo đức xã hội. Họ cãi không lại thì thượng cẳng tay hạ cẳng chân, mọi thứ không hài lòng thì đập bàn đứng dậy, không e dè, kiêng nể, tha hồ mà trút hết ra. Giống như một cây củi khô. Người miền Nam thì vững vàng, thận trọng, nhẫn nại, chăm chỉ, bằng lòng với hiện tại, chú trọng đạo đức cá nhân và danh dự của bản thân (杜瑜, 2010, tr. 23). Không chỉ trong lịch sử mà ngay cả giai đoạn hiện nay, trên bình diện chung, NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 125 người miền Bắc giữ các cương vị chủ chốt trong hệ thống chính trị Trung Quốc vẫn chiếm ưu thế hơn miền Nam. Chúng tôi đã thử tiến hành khảo sát, phân tích đội ngũ của cơ quan lãnh đạo cao nhất ở Trung Quốc hiện nay là Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc(4). Trong số 204 Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIX nhiệm kỳ 2017-2022 có 188 Ủy viên là người Hán, chiếm tỷ lệ 92,16%, có 16 Ủy viên là các tộc người khác, chiếm tỷ lệ 7,84%. Trong số các ủy viên là tộc người Hán, người Hán ở miền Bắc chiếm đa số với tỷ lệ 54,26%, người miền Nam chỉ chiếm tỷ lệ 45,74%. Ở miền Nam, điều kiện tự nhiên tương đối ưu đãi, đã mang đến cuộc sống no ấm, yên bình, ổn định lâu dài, các hoàng tộc nhiêu lần chạy loạn về phương Nam, đối mặt với sự uy hiếp của miền Bắc mà lại có con sông Trường Giang ngăn cách, bảo vệ nên tâm lý thoải mái; văn hóa nông nghiệp định cư, dân tộc tương đối đơn nhất là nguyên nhân của nhiều đặc trưng tính cách trong lĩnh vực tổ chức của miền Nam trong đó có "trọng triết học cá nhân, chú trọng tu dưỡng phẩm cách cá nhân hơn là quan tâm chú ý đến chính trị xã hội" (张仁富, 2009, tr. 42-43). Từ những điều đó, người Trung Quốc đã đúc kết rằng miền Nam là đất của văn nhân, miền Bắc là đất của hoàng đế (nam phương xuất văn nhân, bắc phương xuất hoàng đế) không những có tính tất nhiên về mặt phương diện xã hội mà còn có tính tất nhiên của phương diện địa lý. Hoàng đế tượng trưng tính trọng sức mạnh với đặc trưng giỏi chiến đấu, quan tâm đến chính trị xã hội và văn nhân tượng trưng cho tính trọng nhu mềm với đặc trưng chú trọng đến đạo đức cá nhân. Theo 杜瑜 (2010) trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, từ thời Khuất Nguyên trở lại, tài tử Giang Nam (phía nam sông Trường Giang) nổi tiếng thiên hạ, các nhà thơ, nhà văn, họa sĩ đều xuất thân ở Giang Nam. Ngay cả trong thời hiện đại, sáu nhà văn lớn như Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn, Ba Kim, Lão Xá, Tào Ngu tuyệt đại bộ phận đều xuất thân ở miền Nam (杜瑜, 2010, tr. 21). Không chỉ có nhiều danh sĩ, văn nhân thi sĩ, theo范勇 (2009), miền Nam còn có rất đông thương nhân, thương mại nhộn nhịp; trở thành vùng đất của nơi hội tụ nhân văn và cái nôi của thương nghiệp. Mấy nhóm cửa hàng lớn của miền nam Trung Quốc thời kỳ Minh Thanh như cửa hàng Huy, Giang Thạch (Giang Tây), Ninh Ba, Long Du, Phúc Kiến, Quảng Đông, Động Đình (Tô Châu), ngoài cửa hàng Động Đình và một phần Giang Thạch, các cửa hàng còn lại đều xuất phát ở vùng đồi núi thấp phía Nam Trung Quốc. Họ giàu có, cấu kết với nhau, làm mưa làm gió một thời trên thương trường nhà Minh Thanh Trung Quốc (范勇, 2009, tr. 77, 79). Ngày nay, các tỷ phú Trung Quốc là người ở miền Nam vẫn chiếm đa số so với ở miền Bắc. Trong danh sách 30 tỷ phú Trung Quốc do Tạp chí Forbes công bố năm 2017, có đến 24/30 tỷ phú là người miền Nam, chiếm tỷ lệ 80%, chỉ có 6/30 tỷ phú là người miền Bắc, chiếm tỷ lệ 20%. Năm 2018, Tạp chí Forbes cũng đã công bố danh sách 200 tỷ phú Trung Quốc, trong số này, tỷ phú người miền Nam chiếm đến 67%, tỷ phú người miền Bắc 31%. 3.2. Giản dị, tiết kiệm - Sang trọng, hào phóng Sống trong môi trường có điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt, lương thực thì không đầy đủ, “nửa năm chỉ toàn ăn dưa và SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 126 rau”, chiến tranh triền miên, đòi hỏi người miền Bắc phải sống tiết kiệm. Điều này tạo cho người miền Bắc có cuộc sống giản dị. Giản dị để tiết kiệm mà tiết kiệm cũng phần nào thể hiện qua sự giản dị trong đời sống hàng ngày. Trái với điều kiện tự nhiên của miền Bắc, miền Nam với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều nơi được mệnh danh là “Thiên phủ chi quốc” - 天府之国 (đất nước thiên đường), “Ngư mễ chi hương” - 鱼米之乡 (quê hương của cá và gạo). Nguồn thức ăn đầy đủ ổn định, các loại thủy sản có được dễ dàng, dinh dưỡng tương đối đầy đủ, cư dân sống trong môi trường tự nhiên như thế này khá là yên bình, và có một cuộc sống sung túc. Kinh tế khá giả tạo điều kiện cho người miền Nam thể hiện sự sang trọng, hào phóng của mình trong tổ chức đời sống cộng đồng. Giản dị, tiết kiệm và sang trọng, hào phóng là một trong những biểu hiện của tính trọng sức mạnh và tính trọng nhu mềm trong văn hóa tổ chức. Khi nói về tính tiết kiệm của người Trung Quốc đặc biệt người miền Bắc, Arthur Smith trong Chinese characteristics (1894) cho rằng trong ăn uống và ăn mặc người miền Bắc rất tiết kiệm. Một người lớn có thể ăn không quá 2 xu/ngày. Thậm chí vào những lúc nạn đói xảy ra, hàng ngàn người phải sống nhiều tháng liền chỉ với phần trợ cấp ít ỏi không quá một xu cho nửa ngày. Trà dư trong các tách được rót lại vào trong ấm trà để đun lại để dành uống tiếp. Về cách ăn mặc, trẻ em bao gồm cả trai lẫn gái được cho mặc đồ giống như trong vườn của Eden suốt nhiều tháng trong năm. Điều này được cho là dễ chịu đối với chúng, như phương châm chủ yếu là tiết kiệm (Arthur Smith, 1894, tr. 19, 21, 24). Một ví dụ điển hình khác về tính tiết kiệm của người miền Bắc được Smith dẫn ra là câu chuyện kể về một người phụ nữ già yếu đi khập khiễng với vẻ đau đớn. Bà được xác định là đang bị thương và đang đi đến nhà của một người thân để chết ở nơi thuận tiện, nghĩa trang gia tộc và như vậy sẽ tránh phải tốn tiền cho những người khiêng quan tài của bà trên một đoạn đường dài (Arthur Smith, 1894, tr. 26). Theo Lâm Ngữ Đường (1935/2001), dân chúng miền Bắc quen với nếp sống gian khổ, ưa tư tưởng đơn sơ, giản dị, vóc người cao lớn, gân thịt rắn rỏi, sức khỏe dẻo dai, tính tình thành thực, mau mắn mà nóng nảy, thích ăn loại hành lớn, không sợ mùi hôi, ưa khôi hài đùa cợt, thường có thái độ rõ ràng, tự nhiên, mọi vẻ họ gần với giống nòi Mông Cổ. Theo dòng sông Dương Tử xuống bờ biển phía Đông Nam thì tình trạng sinh hoạt của nhân dân lại khác hẳn. Nhân dân ở đây quen với nếp sống yên ổn, nhàn hạ, dung hòa chất thực và văn vẻ, ưa vẻ u nhã văn chương, thường trầm tĩnh ít hoạt động. Con trai thường trắng trẻo thấp nhỏ, con gái thường nõn nà, yếu ớt. Yến hấp chè sen, bát ngọc chén vàng, nấu nướng đến hết vị ngon, ăn uống đủ mùi sang trọng. Đa phần người miền Nam hưởng một cuộc sống khá sung túc. Việc ăn mặc, tiêu xài không thiếu thốn nên cuộc sống khá yên ổn. Việc hưởng một cuộc sống nhàn hạ, hưởng thụ không những được ghi trong sử sách mà còn phổ biến đến ngày hôm nay (范勇, 2009, tr. 68). Trong số 204 tỷ phú Trung Quốc được tạp chí Forbes công bố xếp hạng năm 2018 mà chúng tôi đã khảo sát, có đến 67% họ sống ở miền Nam, trong khi chỉ có 31% sinh sống tại miền Bắc (xem thêm tại 2.1). Cuộc sống khá giả NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 127 khiến tâm thái con người ổn định và trở nên sang trọng, hào phóng hơn. Từ sự cần cù, giản dị của người miền Bắc và sự sang trọng, tinh tế của người miền Nam, có người đã lấy tiếng ca du dương của loài cá và âm thanh vang vang của chiên trống để biểu thị cho sự khác nhau về tính cách của văn hóa Nam - Bắc. Miền Nam biểu hiện cho “văn hóa ngư xướng” (văn hóa cá hát). Đây là văn hóa của nước, văn hóa của sự lưu động, văn hóa của thuyền, văn hóa của sự bay bổng, của sự khéo léo, tinh tế. Miền Bắc biểu hiện cho “văn hóa la cổ” (văn hóa chiêng trống). Đây là văn hóa hoàng thổ, văn hóa của sự ổn định, văn hóa của chăn nuôi, văn hóa của thực tế và cần cù, văn hóa của mặt trời. Dịch Trung Thiên, giáo sư Đại học Hạ Môn thì lấy “nam tính” và “nữ tính” để so sánh thành phố Nam Bắc: thành phố miền Bắc nói chung là “nam tính” ví dụ Bắc Kinh là cha của sự uy nghiêm tử tế, Tây An, Lan Châu, Đại Nguyên, Tề Nam, Lạc Dương, Khai Phong không phải là “chồng” (汉子) mà là “anh cả” (大哥). Thành phố miền Nam đa số là “nữ tính” – Hàn Châu là người phụ nữ danh gia vọng tộc (đại gia khuê các - 大家闺秀), Tô Châu là thiếu nữ xinh đẹp (“tiểu gia bích ngọc” - 小家碧玉), Nam Kinh là người phụ nữ cao quý đoan trang (hầu môn cáo mệnh - 侯门诰命), Thượng Hải cũ là thiếu phụ nghênh ngang (dương trường thiếu phụ - 扬长少妇) (杜瑜, 2010, tr. 22). 3.3. Những phi giá trị có nguồn gốc từ tính trọng sức mạnh và tính trọng nhu mềm Để có cái nhìn toàn diện hơn về tính cách văn hóa hai miền Bắc - Nam Trung Quốc, cần biết được những tính cách xấu (phi giá trị), để từ đó có thể hạn chế tính cách xấu và hướng đến những tính cách tốt. Theo triết lý âm dương thì cực âm sinh dương mà cực dương sinh âm. Bên cạnh những giá trị, tính trọng sức mạnh và tính trọng nhu mềm trong lĩnh vực tổ chức cũng có những mặt phi giá trị nhất định. Giỏi chiến đấu là giá trị, nhưng nếu quá nhấn mạnh đến giá trị này có thể dẫn đến xu hướng giải quyết các công việc bằng vũ lực hơn là thương lượng, đàm phán. Quan tâm đến chính trị quá nhiều cũng thường dẫn đến sự khô cứng trong tổ chức đời sống và có tư tưởng cai trị thiên hạ, ở trên người khác. Trong khi đó, giản dị cũng là một giá trị, nhưng nếu giản dị quá mức thì hóa ra đơn giản, xuề xòa. Tiết kiệm quá mức cũng lại hóa ra keo kiệt. Khi người miền Bắc sống ở một nơi mà “nửa năm chỉ toàn ăn dưa và rau” thì sự tiết kiệm đó đã “gần đến mức keo kiệt” (范勇, 2009, tr. 58). 4. Kết luận Trong lĩnh vực văn hóa tổ chức, do sự khác biệt về môi trường tự nhiên, đặc điểm tộc người và bối cảnh xã hội, tính cách văn hóa hai miền Bắc Nam Trung Quốc có sự khác biệt rõ rệt theo hướng người miền Bắc thiên về coi trọng sức mạnh, người miền Nam thiên về coi trọng sự nhu mềm. Tính trọng sức mạnh ở miền Bắc có biểu hiện giá trị là giỏi chiến đấu, coi trọng đạo đức xã hội, giản dị, tiết kiệm. Tính trọng nhu mềm ở miền Nam lại có biểu hiện giá trị là việc giỏi kinh doanh, quan tâm đến đạo đức cá nhân, sang trọng, hào phóng. Các biểu hiện giá trị này tạo thành các cặp đối lập nhau giữa hai miền Bắc Nam Trung Quốc: Giỏi chiến đấu - giỏi kinh doanh; coi trọng đạo đức xã hội - coi trọng đạo đức cá nhân; giản dị - sang trọng; tiết kiệm - hào phóng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt giá trị SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 128 thì tính troọng sức mạnh ở miền Bắc và trọng nhu mềm ở miền Nam cũng có những mặt phi giá trị. Giỏi chiến đấu thì thường có xu hướng giải quyết các công việc bằng vũ lực hơn là thương lượng, đàm phán. Quan tâm đến chính trị, đạo đức xã hội nhiều thường dẫn đến khô cứng trong tổ chức đời sống và có tư tưởng cai trị thiên hạ, ở trên người khác. Giản dị quá thì hóa ra đơn giản, xuề xòa. Trong khi, tiết kiệm quá lại hóa ra keo kiệt. Trong quá trình giao tiếp, hai miền dần dần bổ sung những giá trị cho nhau và hạn chế mặt phi giá trị. Chú thích 1. Người vượn Nguyên Mưu, một giống người vượn Trung Quốc, sống cách đây khoảng 1 triệu 700 nghìn năm, hoá thạch được phát hiện năm 1965 ở Nguyên Mưu, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, vì vậy được gọi là người Nguyên Mưu. 2. zhidao.baidu.com: 中国历史上有多少次战争 - https://zhidao.baidu.com/question/ 262966392701405805.html 3. 南方之強與,北方之強與,抑而強與?寬柔以教,不報無道,南方之強也。君子 居之。衽金革,死而不厭,北方之強也。而強者居之。 4. Thời điểm khảo sát vào tháng 9 năm 2018 5. https://www.forbes.com/china-billionaires/list/9/#tab:overall 6. Thời điểm khảo sát tháng 01 năm 2019 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Đào Duy Anh (biên soạn). (1932/2005). Hán - Việt từ điển giản yếu. Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin, 957tr. Lưu Á Châu. (2010). “Niềm tin và đạo đức”, in trong Vấn đề cải cách hệ thống chính trị của Trung Quốc (đằng sau những phát biểu gây tranh cãi của Thủ tướng Ôn Gia Bảo), Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN, tr.96-164. Lâm Ngữ Đường. (1935/2001). Trung Hoa đất nước con người (Trần Văn Từ dịch). Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin, 519tr. Hoàng Phê (cb). (2003). Từ điển Tiếng Việt. Hà Nội - Đà Nẵng: NXB Trung tâm Từ điển học, 1221tr. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam. (2003). Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 3. Hà Nội: NXB Từ điển Bách Khoa, 878tr. Phan Khoang. (1958). Trung Quốc sử lược. Sài Gòn: NXB Hồng Phát, 616tr. Trần Ngọc Thêm (cb). (2014). Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. TP.HCM: NXB Văn hóa-Văn nghệ, 887tr. NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 129 Trần Ngọc Thêm. (2016). Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai. TP.HCM: NXB Văn hóa-Văn nghệ, 589tr. Tiếng Anh Arthur H.Smith. (1894). Chinese characteristics. (Introduction to the 2003 edition by Lydia Liu, University of Michigan). New York: East Bridge, 342pgs. Tiếng Trung Quốc 杜瑜。(2010) 。中国人人格地图。 金城出版社, 265页 (Địa đồ nhân cách người Trung Quốc. Kim Thành, 265tr.) 范勇。(2009)。中国人的文化性格。 中央编译出版社, 285页(Tính cách văn hóa người Trung Quốc. Biên dịch Trung ương, 285tr.) 张仁富。(2009)。一方水土一方人 - 中国南北自然人文环境。姚松柳 (编辑)。北人与南人。北京:中国人事出版社, 页37-47 (Môi trường nào thì con người đó - Môi trường văn hóa tự nhiên Bắc Nam Trung Quốc. Diêu Tùng Liễu (biên tập). Người Bắc và người Nam. Bắc Kinh: Nhân sự Trung Quốc, trang 37-47). Ngày nhận bài: 13/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf37_7316_2214942.pdf
Tài liệu liên quan