Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 151
TÌNH HÌNH NHIỄM NẤM MÁU Ở TRẺ SANH NON - RẤT NHẸ CÂN TẠI 
KHOA HỒI SỨC SƠ SINH BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 
Phạm Thị Lan Phương*, Đặng Quốc Bửu*, Phạm Quỳnh Mai Trang*, Nguyễn Thu Tịnh** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm nấm máu và các chủng nấm gây bệnh ở trẻ sanh non - rất nhẹ cân nhập 
khoa Hồi sức sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang. Tất cả trẻ sanh non - rất nhẹ cân nhập viện từ tháng 1/2018 đến 
tháng 12/2108 có kết quả cấy máu dương tính với nấm được đưa vào nghiên cứu. 
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm nấm máu ở trẻ rất nhẹ cân 7% (13/185 trường hợp). Tỷ lệ nhiễm nấm máu ở nhóm trẻ 
1000 – 1499 gram và nhóm trẻ dưới 1000 gram lần lượt là 5,4% và 10,9%. Chủng nấm gây bệnh chính là 
Candida parapsilosis. Tỷ lệ trẻ sanh non - rất nhẹ cân có đặt catheter mạch máu trung ương là 39,7%. Trong đó, 
tỷ lệ cấy máu dương tính với nấm (12,3%) cao hơn so với nhóm trẻ không đặt catheter mạch máu trung ương 
(3,6%) (p<0,05). 
Kết luận: Nấm là một trong những tác nhân quan trọng gây nhiễm trùng huyết ở trẻ sanh non - rất nhẹ 
cân, đặc biệt là ở nhóm trẻ có đặt catheter mạch máu trungương. Candida parapsilosis là căn nguyên nấm gây 
bệnh chủ yếu tại khoa Hồi sức sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Từ khoá: nhiễm nấm máu, sanh non rất nhẹ cân, catheter trung ương 
ABSTRACT 
FUNGAL INFECTION IN VERY LOW BIRTH WEGHT NEONATES IN NEONATAL INTENSIVE CARE 
UNIT AT THE CHILDREN’S HOSPITAL 1 
Pham Thi Lan Phuong, Dang Quoc Buu, Pham Quynh Mai Trang, Nguyen Thu Tinh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 151 - 155 
Objective: To determine the prevalence of blood fungal infection and pathogenic fungal strains in very low 
birth weight (VLBW) neonates. 
Method: Cross -sectional study. All VLBW neonates, admitted Neonatal intensive care unit at the 
Children’s hospital 1 from 1st January 2018 to 31st December 2018, had blood fungal infection. 
Results: The prevalence of blood fungal infection in VLBW is 7% (13/185 cases); in the group of 1000 – 
1499 gram and the group under 1000 gram are 5.4% and 10.9%, respectively. Candida parapsilosis is the most 
common strain of fungal pathogen. The rate of a central catheter in VLBW neonatesis 39.7%. The rate of blood 
fungal in VLBW neonates with a central venous catheter is higher than those without a central venous catheter 
(12.3% vs 3.6%, p <0.05). 
Conclusions: Fungi is an important cause of sepsis in VLBW neonates, especially in the group with a 
central venous catheter. Candida parapsilosis is the most common strain of fungal pathogen in VLBW neonates. 
Key-words: blood fungal infection, VLBW, central venous catheter 
*Bệnh viện Nhi Đồng 1 **Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Thu Tịnh ĐT: 0937911277 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV Nhi Đồng 1 152
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm nấm máu là một trong những 
nguyên nhân quan trọng gây bệnh và tử vong ở 
trẻ sanh non rất nhẹ cân (có cân nặng dưới 1500 
gram)(2). Tỷ lệ nhiễm nấm máu dao động từ 2,6% 
đến 13,2% ở nhóm trẻ sanh non dưới 1500 gram 
và 6,6% đến 26,0% ở nhóm trẻ sanh non dưới 
1000 gram(1,5,6). Những yếu tố nguy cơ nhiễm 
nấm máu tại khoa hồi sức sơ sinh bao gồm cân 
nặng lúc sanh thấp, non tháng, có đặt catheter 
mạch máu trung ương, thở máy kéo dài, phẫu 
thuật vùng bụng và sử dụng kháng sinh phổ 
rộng(2,4,12). Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm nấm máu và 
chủng nấm gây bệnh thường khác nhau ở mỗi 
đơn vị chăm sóc sơ sinh. Điều này cũng làm ảnh 
hưởng đến tiên lượng sống còn của nhóm trẻ 
sanh non nhẹ cân. Hiện nay vấn đề dự phòng 
nguy cơ nhiễm nấm máu ở nhóm trẻ này còn 
nhiều tranh cãi. 
Theo báo cáo nghiên cứu của Paolo Manzoni 
và cộng sự (2008)(12), việc dự phòng nấm ở nhóm 
trẻ sanh non dưới 1500 gram có làm cải thiện tỷ 
lệ nhiễm nấm máu từ 6,6% (1997 – 2000) xuống 
còn 2,8% (2001 – 2006) và điều này không dẫn tới 
việc tạo ra chủng Candida kháng fluconazole. 
Ngoài ra, theo phác đồ hướng dẫn chăm sóc trẻ 
sơ sinh (2013-2014)(1) của tác giả James M Adam 
và Caraciolo J Fernandes khuyến cáo dự phòng 
nấm thường qui cho nhóm trẻ sanh non dưới 
1000 gram tại các đơn vị chăm sóc sơ sinh có tỷ 
lệ mắc bệnh từ 5 – 10% hoặc trên 10%. Vì vậy, 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác 
định tỷ lệ nhiễm nấm máu và chủng nấm gây 
bệnh thường gặp tại khoa Hồi sức sơ sinh cũng 
như xem xét vấn đề dự phòng nấm máu cho 
nhóm trẻ sanh non dưới 1500 gram. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả các bệnh phẩm máu có chỉ định nuôi 
cấy của các bệnh nhi sanh non dưới 1500 gram 
nhập khoa Hồi sức sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng 
1 từ 1/1/2018 đế 31/12/2018. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Các bệnh phẩm máu có chỉ định nuôi cấy 
dương tính với ít nhất 1 tác nhân vi nấm gây bệnh. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các bệnh phẩm máu dương tính với chủng 
vi nấm trùng với chủng đã được phân lập từ các 
mẫu bệnh phẩm khác của cùng một bệnh nhân. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Cách tiến hành 
Lập danh sách tất cả bệnh nhi sanh non rất 
nhẹ cân nhập khoa Hồi sức sơ sinh có chỉ định 
cấy máu. Lọc ra danh sách các bệnh nhi sanh 
non rất nhẹ cân có kết quả cấy máu dương tính 
với nấm đưa vào phân tích. Thu thập số liệu 
theo bảng câu hỏi soạn sẵn. 
Định nghĩa các biến số chính 
Sanh non rất nhẹ cân 
Trẻ có tuổi thai dưới 37 tuần và cân nặng khi 
sanh dưới 1500 gram. 
Cấy máu dương tính với nấm 
Bất kì mẫu cấy máu nào của bệnh nhi trong 
thời gian điều trị tại khoa Hồi sức sơ sinh có kết 
quả mọc nấm. 
Cách lấy mẫu cấy máu 
Tại khoa Hồi sức sơ sinh: lấy 1,5ml máu cho 
vào chai cấy máu. Tại khoa vi sinh: xử lý chai 
cấy máu, phân lập và định danh vi sinh vật. 
Xử lý số liệu 
Excel 2013, SPSS 22.0. 
Phương pháp thống kê: phép kiểm Chi’s square. 
Đạo đức nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành trên đối tượng 
bệnh nhi có chỉ định cấy máu theo phác đồ điều 
trị của bệnh viện. Kết quả cấy máu được lấy từ 
khoa vi sinh của bệnh viện và không có bất kì tác 
động can thiệp nào tới bệnh nhi. 
Đề tài cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây 
dựng chiến lược dự phòng và điều trị nhiễm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 153
nấm máu hiệu quả và phù hợp, nhất là đối 
tượng sanh non nhẹ cân. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Tổng số trẻ sanh non rất nhẹ cân có chỉ định 
cấy máu nhập khoa Hồi sức sơ sinh bệnh viện 
Nhi Đồng 1 trong khoảng thời gian từ tháng 
1/2018 đến tháng 12/2018 là 185 trẻ. Tuổi thai 
trung bình 28 tuần (24-36) (Bảng 1). 
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ(%) 
Giới tính (nam/nữ = 1:1) 
Nam 91 49,1 
Nữ 94 50,9 
Cân nặng (gram) 
1000 – < 1500gr 130 70,3 
< 1000 gr 55 29,7 
Đặt catheter trung ương 
Có 73 39,5 
Không 112 60,5 
Tỷ lệ cấy máu dương tính với nấm 
Từ tháng 1/2018 đến tháng 12/2018, trong số 
185 trẻ sanh non rất nhẹ cân nhập khoa Hồi sức 
sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng 1 thì có 13 ca cấy 
máu dương tính với nấm, chiếm tỷ lệ 7%. 
Trong đó, tỷ lệ trẻ sanh non rất nhẹ cân được 
đặt đường truyền trung ương có kết quả cấy 
máu dương tính với nấm là 12,3% cao hơn so với 
tỷ lệ cấy máu dương tính với nấm trong nhóm 
trẻ sanh non rất nhẹ cân không đặt đường 
truyền trung ương (chiếm 3,6%) (Bảng 2). 
Bảng 2. Tỷ lệ trẻ cấy máu dương tính với nấm 
Cấy máu (+) 
nấm 
Cấy máu (-) 
nấm 
Tổng 
Có catheter TW 9 (12,3%) 64 (87,7%) 73 (100%) 
Không catheter TW 4 (3,6%) 108 (96,4%) 112 (100%) 
Tổng 13 172 185 
Kiểm định Chi square: p = 0,017 < 0,05 
Bảng 3. Phân bố trẻ cấy máu dương tính với nấm 
Cân nặng(gram) 
Cấy máu (+) 
nấm 
Cấy máu (-) 
nấm 
Tổng 
1000 - < 1500 7 (5,4%) 123 (94,6%) 130 
< 1000 6 (10,9%) 49 (89,1%) 55 
Kiểm định Chi square: p = 0,3753 > 0,05 
Các tác nhân vi nấm gây nhiễm trùng huyết 
Trong số 13 trẻ sanh non rất nhẹ cân bị 
nhiễm nấm máu, khoa vi sinh phân lập được 3 
tác nhân gây bệnh Candida parapsilosis, Candida 
albicans và Candida kefyr. Tác nhân chính gây 
bệnh trong giai đoạn nghiên cứu này là Candida 
parapsilosis, chiếm tỷ lệ 84,6% (11/13 ca) (Bảng 3). 
Bảng 3. Tác nhân nấm gây bệnh 
Tác nhân Tần số Tỷ lệ (%) 
Candida albicans 1 7,7 
Candida parapsilosis 11 84,6 
Candida kefyr (pseudotropicalis) 1 7,7 
Tổng 13 100 
Kết quả kháng nấm đồ 
Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2018, khoa vi 
sinh phân lập được nấm trong 25 mẫu cấy 
máu của 13 trẻ sanh non rất nhẹ cân tại khoa 
Hồi sức sơ sinh. Kết quả kháng nấm đồ cho 
thấy, cả 3 chủng nấm gây bệnh trên đều nhạy 
cảm với tất cả các thuốc kháng nấm hiện có, 
trong đó amphotericin B và fluconazole là 2 
thuốc chọn lựa đầu tay trong điều trị nhiễm 
nấm máu (Bảng 4). 
Bảng 4. Kết quả kháng nấm đồ (N = 25) 
Thuốc kháng 
nấm 
Candida 
albicans 
(n = 4) 
Candida 
parapsilosis 
(n =20) 
Candida kefyr 
(pseudotropica
lis) 
(n = 1) 
Amphotericin B Nhạy Nhạy Nhạy 
Fluconazole Nhạy Nhạy Nhạy 
Flucytosine Nhạy Nhạy Nhạy 
Itraconazole Nhạy Nhạy Nhạy 
Voriconazole Nhạy Nhạy Nhạy 
Tỷ lệ nhạy với tất cả các thuốc kháng nấm 
hiện hành của 25 mẫu cấy máu dương tính với 
nấm là 100%. 
BÀN LUẬN 
Nhiễm nấm máu là nguyên nhân thường 
gặp gây nhiễm trùng khởi phát muộn tại đơn 
vị chăm sóc sơ sinh. Điều này ảnh hưởng 
nghiêm trọng đến tỷ lệ tử vong sơ sinh cũng 
như các vấn đề về chậm phát triển thần kinh 
của trẻ(8). Theo Benjamin (2006)(5) và Zaoutis 
(2007)(20), tỷ lệ tử vong do nhiễm nấm xâm lấn 
là 21 – 32% ở nhóm trẻ sanh non dưới 1500 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV Nhi Đồng 1 154
gram và 40 – 50% ở nhóm trẻ sanh non dưới 
1000 gram. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy tỷ lệ nhiễm nấm máu ở nhóm trẻ 
sanh non có cân nặng dưới 1500 gram là 6,5%. 
Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của tác 
giả Scott K Fridkin (1995 – 2004)(8) là 1,32% và 
tác giả Michelle Barton (2014)(3) là 1,5%. Tỷ lệ 
nhiễm nấm máu ở nhóm trẻ sanh non dưới 
1000 gram còn khá cao (10,9%) so với của tác 
giả Michelle Barton (2014) 2,2% và tác giả Scott 
K Fridkin (1995 – 1999) 6,62% và (2000 – 2004) 
5,07%(3,8). Tại bệnh viện Nhi Trung Ương, 
nghiên cứu của tác giả Thái Bằng Giang 
(2018)(18), tỷ lệ nhiễm nấm máu ở nhóm trẻ 
sanh non có cân nặng dưới 1000 gram là 14,3%. 
Như vậy tỷ lệ nhiễm nấm máu ở nhóm trẻ 
sanh non dưới 1000 gram ở nước ta vẫn còn 
khá cao theo như phân loại của tác giả Adams 
và Fernandes trong cuốn hướng dẫn xử trí vấn 
đề trẻ sanh non(1). 
Dự phòng nhiễm nấm bằng fluconazole 
trong vòng 4 – 6 tuần tuổi ở trẻ sanh non cực nhẹ 
cân dường như làm giảm được tỷ lệ nhiễm nấm 
Candida máu và giảm tử vong(11). Đồng thời, việc 
sử dụng fluconazole trong thời gian trên sẽ 
không tạo ra chủng nấm Candida kháng 
fluconazole(12). Trong vài nghiên cứu thử nghiệm 
lâm sàng và hồi cứu, chiến lược phòng ngừa 
nhiễm nấm máu cho thấy có hiệu quả, an toàn 
và cải thiện được dự hậu về phát triển tâm thần 
kinh của trẻ tại đơn vị hồi sức sơ sinh có tỷ lệ 
nhiễm nấm máu trên 15%(6,9,10,15,19). Tuy nhiên, 
vấn đề loại bỏ các yếu tố nguy cơ gây bệnh cũng 
được ghi nhận làm giảm tỷ lệ nhiễm nấm 
máu(4,14). Vì vậy, việc dự phòng nhiễm nấm máu 
nên được quyết định dựa vào thực trạng của 
mỗi đơn vị chăm sóc sơ sinh và ý kiến của các 
chuyên gia sơ sinh. Đồng thời cần có thêm 
nghiên cứu khác nhằm xác định các yếu tố nguy 
cơ nhiễm nấm máu ở nhóm trẻ sanh non dưới 
1500 gram. 
Tại bệnh viện Nhi Đồng 1, Candida 
parapsilosis là tác nhân nấm được phân lập nhiều 
nhất ở trẻ sanh non có cân nặng dưới 1500 gram 
có kết quả cấy máu dương tính với nấm. Đây 
cũng là tác nhân chủ yếu sau C. albicans trong 
nghiên cứu của tác giả Clerihew (2007)(6). Theo 
tác giả và cộng sự(6), trẻ sanh non rất nhẹ cân 
(<1500 gram) bị nhiễm C. parapsilosis có triệu 
chứng lâm sàng nhẹ hơn trẻ bị nhiễm C. albicans. 
Candida parapsilosis là tác nhân chiếm đứng hàng 
thứ 3 gây nhiễm trùng sơ sinh muộn ở nhóm trẻ 
sanh non có cân nặng dưới 1500 gram và chiếm 
10% tử vong chung trong nhóm trẻ này (Mohan 
Pammi và cộng sự - 2013)(14). 
Theo Mohan(14), đặc điểm nhóm trẻ điển 
hình của nhiễm nấm C. parapsilosis là nhóm trẻ 
sanh non rất nhẹ cân (< 1500 gram) và có đặt 
catheter trung ương để nuôi ăn tĩnh mạch và 
truyền thuốc kháng sinh. Nghiên cứu của 
chúng tôi có tới 39,5% trẻ sanh non có đặt 
catheter mạch máu trung ương và kết quả cho 
thấy nhóm trẻ sanh non có can thiệp catheter 
mạch máu trung ương có tỷ lệ nhiễm nấm cao 
hơn nhóm trẻ sanh non không có catheter 
mạch máu trung ương, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa 2 nhóm này. (p <0,05). 
Amphotericin B và fluconazole vẫn là hai 
thuốc kháng nấm được ưu tiên chọn lựa trong 
điều trị nhiễm nấm xâm lấn ở sơ sinh nói riêng 
và ở trẻ em và người lớn nói chung. Candida 
parapsilosis vẫn còn nhạy với tất cả các thuốc 
kháng nấm hiện hành. 
Hạn chế của nghiên cứu này chỉ là nghiên 
cứu cắt ngang mô tả ban đầu về tỷ lệ nhiễm 
nấm máu chung của nhóm trẻ sanh non dưới 
1500 gram mà chưa có sự can thiệp một cách 
toàn diện và thường qui về vấn đề dự phòng 
nhiễm nấm. Đây là tiền đề cho việc thực hiện 
các nghiên cứu tiến cứu khác với cỡ mẫu thích 
hợp để xác định yếu tố nguy cơ quan trọng 
gây nhiễm nấm máu tại khoa và tỷ lệ dự 
phòng nấm máu có hiệu quả như thế nào ở 
nhóm trẻ này, đặc biệt ở nhóm trẻ cực nhẹ cân 
(dưới 1000 gram). 
KẾT LUẬN 
Tại khoa Hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 155
Đồng 1, nhiễm nấm máu là vấn đề quan trọng ở 
trẻ sanh non cực nhẹ cân, đặc biệt là những trẻ 
có đặt đường truyền trung ương. Candida sp. là 
căn nguyên chủ yếu gây bệnh ở nhóm trẻ này và 
vẫn còn nhạy với các thuốc kháng nấm thông 
thường trên kháng sinh đồ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adams JM, Fernandes CJ (2013-2014). “Guidelines for acute care 
of the Neonates”, 21th ed. Section of Neonatology, Department of 
Pediatrics Baylor College of Medicine. 
2. Aliaga S, et al (2014). “Changes in the incidence of Candidiasis 
in Neonatal Intensive Care Units”. Pediatrics, 133(2):238-242. 
3. Barton M, et al (2014). “Invasive candidiasis in low birth weight 
preterm infants: risk factors, clinical course and outcome in a 
prospective multicenter study of cases and their matched 
controls”. BMC Infectious Diseases, 14:327. 
4. Benjamin DK Jr, Stoll BJ, Gantz MG, Walsh MC, Sánchez PJ, Das 
A, Eunice Kennedy Shriver National Institute of Child Health 
and Human Development Neonatal Research Network (2010). 
“Neonatal candidiasis: epidemiology, risk factors, and clinical 
judgment”. Pediatrics, 126:e865-873. 
5. Benjamin DK, Stoll BJ, Fanaroff AA, McDonald SA, Oh W, 
Higgins RD, Duara S, Poole K, Laptook A, Goldberg R, et al 
(2006). “Neonatal candidiasis among extremely low birth 
weight infants: risk factors, mortality rates, and 
neurodevelopmental outcomes at 18 to 22 months”. Pediatrics, 
117(1):84–92. 
6. Che et al (2016). “Duration and intensity of fluconazole for 
prophylaxis in preterm neonates: A meta-analysis of 
randomized controlled trials”. BMC Infectious Diseases, 16:312. 
7. Clerihew L, Lamagni T L, Brocklehurst P, McGuire W (2007). 
“Candida parapsilosis infection in very low birth weight 
infants”. Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed, 92:F127-F129. 
8. Fridkin SK, Kaufman D, Edwards JR, Shetty S, Horan T (2006). 
“Changing incidence of Candida bloodstream infections among 
NICU patients in the United States: 1995-2004”. Pediatrics, 
117:1680-1687. 
9. Healy CM, Campbell JR, Zaccaria E, Baker CJ (2008). 
“Fluconazole prophylaxis in extremely low birth weight 
neonates reduces invasive candidiasis mortality rates without 
emergence of fluconazole-resistant Candida species”. Pediatrics, 
121(4):703–10. 
10. Kim CS, Kim DH, Hong SA, Lee SL (2010). “Effect of 
fluconazole prophylaxis to control Candida infection in high-
risk preterm infants”. Early Hum Dev, 86:S18. 
11. Long SS, Stevenson DK (2005). “Reducing candida infections 
during neonatal intensive care: management choices, infection 
control, and fluconazole prophylaxis”. J Pediatr, 147:135–41. 
12. Manzoni P, et al (2008). “Routine use of Fluconazole 
prophylaxis in a Neonatal Intesnive Care Unit does not select 
natively Fluconazole-resistant Candida subspecies”. Pediatr 
Infect Dis J, 27:731-737. 
13. Oeser C, Vergnano S, Naidoo R, Anthony M, Chang J, Chow P, 
Neonatal Infection Surveillance Network (neonIN) (2014). 
“Neonatal invasive fungal infection in England 2004-2010”. Clin 
Microbiol Infect, 20:936-941. 
14. Pammi M, Holland L, Butler G, Gacser A, Bliss JM (2013). 
“Candida parapsilosis is a significant neonatal pathogen: a 
systematic review and meta-analysis”. Pediatr Infect Dis J, 
32:e206-216. 
15. Parikh TB, Nanavati RN, Patankar CV, Rao S, Bisure K, Udani 
RH, Mehta P (2007). “Fluconazole prophylaxis against fungal 
colonization and invasive fungal infection in very low birth 
weight infants”. Indian Pediatr, 44(11):830–7. 
16. Pickering LK, Baker CJ, Kimberlin DW, Long SS, et al (2012). 
“Red Book: 2012 Report of the Committee on Infectious 
Diseases”, 29th ed. Elk Grove Village, IL. American Academy of 
Pediatrics. 
17. Stoll BJ, Hansen N, Fanaroff AA, Wright LL, Carlo WA, 
Ehrenkranz RA, Lemons JA, Donovan EF, Stark AR, Tyson JE, 
et al (2002). “Late-onset sepsis in very low birth weight 
neonates: the experience of the NICHD Neonatal Research 
Network”. Pediatrics, 110(2):285–91. 
18. Thái Bằng Giang, Khu Thị Khánh Dung (2018). “Đặc điểm dịch 
tễ học lâm sàng nhiễm trùng do nấm ở trẻ sơ sinh điều trị tại 
khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 02/2016 – 
02/2017”. Y học TP Hồ Chí Minh, 22(4):77-85. 
19. Uko S, Soghier LM, Vega M, Marsh J, Reinersman GT, Herring 
L, Dave VA, Nafday S, Brion LP (2006). “Targeted short-term 
fluconazole prophylaxis among very low birth weight and 
extremely low birth weight infants”. Pediatrics, 117(4):1243–52. 
20. Zaoutis TE, Heydon K, Localio R, Walsh TJ, Feudtner C (2007). 
“Outcomes attributable to neonatal candidiasis”. Clin Infect Dis, 
44(9):1187-93. 
Ngày nhận bài báo: 20/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019 
Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019