Tài liệu Tình hình lấy sỏi thận và niệu quản qua da cho 398 bệnh nhân: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
35 TÌNH HÌNH LẤY SỎI THẬN VÀ NIỆU QUẢN QUA DA 
CHO 398 BỆNH NHÂN 
Vũ Văn Ty*, Nguyễn Văn Hiệp*, Vũ Lê Chuyên*, Đào Quang Oánh*, Nguyễn Tuấn Vinh*, 
Vĩnh Tuấn*, Lê Sỹ Hùng*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Nguyễn Đạo Thuấn* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Lấy sỏi thận qua da ngày càng trở thành một trong những phương pháp điều trị sỏi thường qui. 
Nghiên cứu nhằm mục tiêu 1. Đánh giá tỷ lệ thành công trong thời gian qua so sánh với bước đầu thực hiện. 
(2) Đánh giá biến chứng đã xảy ra để chọn ra phương pháp phòng ngừa. 
Phương pháp: Trong thời gian từ tháng 6 năm 2000 đến tháng 6 năm 2003, chúng tôi đã thực hiện được 
337 trường hợp lấy sỏi thận và 61 trường hợp lấy sỏi niệu quản lưng qua da tại 2 khoa Niệu A và B bệnh viện 
Bình Dân TP. Hồ Chí Minh. 
Kết quả: Trong số 398 bệnh nhân có 225 nam và ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 615 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình lấy sỏi thận và niệu quản qua da cho 398 bệnh nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
35 TÌNH HÌNH LẤY SỎI THẬN VÀ NIỆU QUẢN QUA DA 
CHO 398 BỆNH NHÂN 
Vũ Văn Ty*, Nguyễn Văn Hiệp*, Vũ Lê Chuyên*, Đào Quang Oánh*, Nguyễn Tuấn Vinh*, 
Vĩnh Tuấn*, Lê Sỹ Hùng*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Nguyễn Đạo Thuấn* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Lấy sỏi thận qua da ngày càng trở thành một trong những phương pháp điều trị sỏi thường qui. 
Nghiên cứu nhằm mục tiêu 1. Đánh giá tỷ lệ thành công trong thời gian qua so sánh với bước đầu thực hiện. 
(2) Đánh giá biến chứng đã xảy ra để chọn ra phương pháp phòng ngừa. 
Phương pháp: Trong thời gian từ tháng 6 năm 2000 đến tháng 6 năm 2003, chúng tôi đã thực hiện được 
337 trường hợp lấy sỏi thận và 61 trường hợp lấy sỏi niệu quản lưng qua da tại 2 khoa Niệu A và B bệnh viện 
Bình Dân TP. Hồ Chí Minh. 
Kết quả: Trong số 398 bệnh nhân có 225 nam và 173 nữ. Tuổi trung bình 41,65 tuổi (thay đổi từ 18 đến 
78 tuổi). Ngày nằm viện trung bình là 6,2 ngày. Sỏi thận: Thành công 287 trường hợp đạt tỷ lệ 85,16%. 
Chuyển mổ hở 50 trường hợp, tỷ lệ 14,84%. Chảy máu khi đặt Amplatz hoặc tán sỏi 27 trường hợp, tỷ lệ 8,01%. 
Chọc dò thất bại 13 trường hợp, tỷ lệ 3,86%. Không đặt được ống thông niệu quản 5 trường hợp, tỷ lệ 1,48%. 1 
trường hợp thận chướng nước nhiễm trùng phải mở thận ra da. Sỏi niệu quản: Thành công 47 trường hợp, đạt 
tỷ lệ 77,05%. Chuyển mổ hở 14 trường hợp, tỷ lệ 22,95%. Biến chứng sau lấy sỏi thận qua da: 
Chảy máu thứ phát 4 trường hợp. Mổ lại để may cầm máu 2 trường hợp. 1 trường hợp cắt bán phần thận 
do chảy máu không cầm lại được. 1 trường hợp điều trị bảo tồn. 
Tràn máu màng phổi trái 1 trường hợp, phải dẫn lưu màng phổi. 
Tổn thương đại tràng phải 1 trường hợp, được điều trị bảo tồn. 
Nhiễm trùng huyết 2 trường hợp được điều trị nội khoa. 
Kết luận : Tuy cũng còn nhiều biến chứng, ngày nằm viện chưa ngắn hơn mổ hở nhưng tỷ lệ thành công 
của phương pháp lấy sỏi thận qua da chứng tỏ đây là một phương pháp hiệu quả có thể áp dụng được để điều trị 
sỏi thận và sỏi niệu quản lưng. Ngoài ra còn có những lợi ích cho bệnh nhân so sánh với mổ hở như vấn đề thẩm 
mỹ vết mổ, hậu phẫu ít đau hơn, không bị tê vết mổ kéo dài đã khiến chúng ta nên phát triển rộng rãi phương 
pháp lấy sỏi thận qua da như là một trong những phương pháp chính để điều trị sỏi thận và sỏi niệu quản lưng. 
SUMMARY 
PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTOMY: REMOVAL OF RENAL AND URETERAL 
STONES IN 398 PATIENTS 
Vu Van Ty, Nguyen Van Hiep, Vu Le Chuyen, Đao Quang Oanh, Nguyen Tuan Vinh, Vinh Tuan, Le 
Sy Hung, Nguyen Phuc Cam Hoang, Nguyen Đao Thuan* Y Hoc TP. Ho Chi Minh Vol. 8 * 
Supplement of No 1 * 2004: 244 – 249 
Objectives 
Percutaneous nephrolithotomy (PNL) has recently been applied as the treatment for large renal and upper 
ureteral calculi. Our objective was two fold: 
To evaluate the success rate in compare to the past time. 
* 
** 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 244 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học 
To devise a strategy for prevention of the complications. 
Methods 
Between June 2000 and June 2003, 398 percutaneous renal procedures have been performed at the 
Department of Urology A and B, Binh Dan hospital, Ho Chi Minh city. 
Results 
There have been 225 males and 173 females (average age 41,65 years). Mean hospitalized time: 6,2 days. 
Renal stone: Percutaneous surgery for renal stone was successful in 287 patients (85,16%). Open 
nephrolithotomy in 50 patients (14,84%). Of these patients, 27 had hemorrhages. Failure of renal puncture in 
13 patients. Failure to place the ureteral stent in 5 patients. 1 patient was placed the nephrostomy tube 
because of the infectious hydronephrosis. 
Ureteral stone: PNL for ureteral stone was successful in 47 patients (77,05%). Open ureterolithotomy in 14 
patients (22,95%). 
The complications of PNL: 
4 patients involving hemorrhages: 2 were required surgical exploration. 1 was performed nephrectomy 
because of profuse bleeding. 1 was successfully managed conservatively. 
Left hemothorax in 1 patient was placed a chest tube for drainage. 
Right colon injury in 1 patient was successfully managed conservatively. 
septicemia in 2 patients were received the medical treatment. 
Conclusions 
Although there are still some complications, the hospitalized time is not shorter than open surgery but the 
outcome of PNL has proved that it’s an effective procedure to manage the renal and upper ureteral stones. 
Besides, there are many advantages in compare to open surgery such as the incision scarring, post-operative 
pain, long-lasting numbness of the incision. Those advantages encourage us to develop the percutaneous renal 
surgery as the main procedure for management of the renal and upper ureteral stones. 
MỤC TIÊU 
Thời gian gần đây, với những tiến bộvề dụng cụ 
nội soi đã làm thay đổi phương pháp điều trị trong 
niệu khoa, trong số đó lấy sỏi thận và niệu quản đoạn 
trên qua da đã ngày càng trở thành phổ biến, thay thế 
cho mổ hở lấy sỏi vẫn áp dụng từ trước đến nay. 
Năm 1941 Rupel và Brown đã lấy sỏi thận nhỏ 
bằng một máy soi bàng quang qua lỗ mở thận ra da. 
Năm 1955 Goodwin và cộng sự đã mô tả kỹ thuật mở 
thận ra da trực tiếp. Năm 1976 Fernstrošm kết hợp cả 
2 phương pháp trên để lấy sỏi thận ra mà không phải 
mổ hở. 
Sự phát triển từng bước góp phần hoàn thiện lấy 
sỏi với Gušnther và Barbaric (1979) sáng chế ra bộ 
mở thận ra da; Pedersen (1976), Stables và Johnson 
(1979) dùng siêu âm hướng dẫn chọc dò vào thận; 
Kurth (1977) dùng máy tán sỏi siêu âm và thủy động 
lực; Marberger (1981) dùng máy soi thận với 2 dòng 
chảy và Alken (1981) sáng chế ra bộ nong đường vào 
thận; Wickham và Miller (1983) đã phát triển lấy sỏi 
qua da 1 thì(10). 
Sự phát triển về dụng cụ nội soi đã giúp các bác sĩ 
phẫu thuật có thể nhìn thấy trực tiếp sỏi và gắp ra 
xuyên qua một đường ống từ bể thận ra ngoài da. Vấn 
đề đặt ra với những sỏi kích thước lớn, tuy nhiên với sự 
phát minh ra nhiều loại dụng cụ tán sỏi đã giúp giải 
quyết tán vỡ những viên sỏi lớn thành những mảnh 
nhỏ để có thể gắp ra ngoài xuyên qua ống Amplatzvới 
kích thước cỡ 28-30F (khoảng 1cm đường kính). 
Với kết quả thành công cao của các tác giả, 
khoảng 90% sỏi thận và 70% đối với sỏi niệu quản 
đoạn trên(8), hầu hết sỏi thận đều có thể lấy qua da 
được với thời gian nằm viện ngắn hơn, thời gian phục 
hồi sau mổ cũng ngắn đi so với mổ hở, phương pháp 
lấy sỏi qua da ngày nay đã trở thành phương pháp 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 245
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
điều trị hàng đầu để điều trị sỏi thận và sỏi niệu quản 
đoạn trên(3). 
Chúng tôi xin trình bày kinh nghiệm qua 398 bệnh 
nhân đã được điều trị lấy sỏi qua da tại 2 khoa Niệu A và 
Niệu B bệnh viện Bình Dân TP. Hồ Chí Minh. 
PHƯƠNG PHÁP 
Trong thời gian từ tháng 6 năm 2000 đến tháng 
6 năm 2003 chúng tôi đã thực hiện được 337 trường 
hợp lấy sỏi thận và 61 trường hợp lấy sỏi niệu quản 
đoạn trên qua da. 
Dụng cụ 
Máy soi thận hiệu Karl Stortz 26F. 
Máy X quang với màn hình tăng sáng. 
Bộ nong Amplatz hoặc Alkens. 
Dây dẫn. 
Máy tán sỏi Swiss-Lithoclast. 
Kẹp gắp sỏi 
Kỹ thuật 
Gồm 2 giai đoạn: giai đoạn chọc dò thận và giai 
đoạn nong đường vào thận. 
Chọc dò đài thận 
Để giảm thiểu nguy hiểm chọc trúng mạch máu 
liên thùy, chúng tôi chọc dò đáy của đài thận xuyên 
qua chủ mô thận. 
Vấn đề chọn đài thận tùy thuộc vào vị trí của sỏi, 
tuy nhiên chúng tôi thường chọn đài thận dưới để 
tránh tổn thương màng phổi thường gặp khi chọc dò 
đài thận trên, mặc dù khi chọn vào đài thận trên, 
người ta có thể gắp được sỏi đài thận trên, bể thận, 
đài thận dưới và niệu quản. 
Trong loạt nghiên cứu này, chúng tôi đã chọc dò 
đài thận dưới 95% trường hợp. 5% chúng tôi chọc dò 
đài thận trên mục đích để gắp được sỏi rải rác ở đài 
thận trên, đài thận dưới và niệu quản. 
Trước tiên bệnh nhân được nằm thế sản phụ, soi 
bàng quang đặt ống thông niệu quản lên thận có sỏi. 
Sau đó bệnh nhân được đặt nằm sấp, vùng thận được 
độn bằng gối hơi cao lên. Chúng tôi bơm thuốc cản 
quang qua ống thông niệu quản để chọn lựa đài thận 
thích hợp cho chọc dò. Dùng máy X quang có màn 
hình tăng sáng để hướng dẫn chọc dò, dùng kim số 
14G hoặc 18G đâm xuyên qua một điểm ở đường 
nách sau hướng về đài thận. Sau khi kim đã chọc vào 
trong đài thận, kiểm tra có nước tiểu chảy ra, chúng 
tôi đặt dây dẫn vào trong đài và bể thận. 
Nong đường vào thận 
Chúng tôi dùng bộ nong kim loại Alkens luồn vào 
dây dẫn với kích thước tăng dần đến số 30F dưới sự 
hướng dẫn của X quang đến khi đầu ống nong nằm 
trong đài hoặc bể thận. Cuối cùng thay bộ nong bằng 
ống thao tác Amplatz số 28 hoặc 30F đủ để cho máy 
soi thận số 26F vào. Chúng tôi cũng đặt thêm một 
dây dẫn an toàn vì sợ máy soi và ống Amplatz tuột ra 
khỏi thận. 
Soi thận và gắp sỏi 
Dùng máy soi thận quan sát đài và bể thận dưới 
sự ròng rửa của nước muối 0,9%,áp lực nước được 
điều chỉnh vừa phải và quan sát nước ra. Chúng tôi 
đánh giá kích thước của sỏi để có thể gắp ngay ra 
được. Nếu kích thước sỏi lớn, chúng tôi dùng máy tán 
sỏi cơ học Swiss-Lithoclast tán vỡ sỏi và gắp ra từng 
mảnh vụn (chúng tôi không có máy tán sỏi siêu âm 
hoặc thuỷ động lực nên không có kinh nghiệm về 
khả năng tán sỏi của các loại máy này). Sau khi gắp 
hết sỏi, kiểm tra lại bằng X quang, bệnh nhân được 
đặt 1 ống thông mở thận ra da xuyên qua ống 
Amplatz. Ống thông thận ra da giúp tránh thấm nước 
tiểu ra quanh thận tạo nên khối máu tụ lẫn nước tiểu 
dễ gây nhiễm trùng. Mặt khác ống thông giúp tạo 
đường hầm thận ra da để nếu cần, bệnh nhân có thể 
được soi lại sau 3, 4 ngày để gắp sỏi còn sót lại. Thông 
thường nếu tình trạng bệnh nhân ổn, hết chảy máu, 
có thể rút thông thận ra da từ ngày thứ 3 trở đi và 
bệnh nhân có thể xuất viện từ ngày thứ 4 trở đi. Một 
vài trường hợp do sỏi vụn gây tắc nghẽn niệu quản 
làm nước tiểu dò qua đường thận ra da, chúng tôi cho 
bệnh nhân đặt thông JJ lên niệu quản-bể thận, bệnh 
nhân xuất viện và trở lại 1 tháng sau để rút thông JJ. 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 246 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học 
KẾT QUẢ 
Trong số 337 trường hợp sỏi thận, 287 trường 
hợp đã được lấy hết sỏi đạt tỷ lệ 85,16%. Tuy nhiên 
trong số đó có 12 bệnh nhân chúng tôi phải soi thận 
lần thứ 2 sau 1 tuần để gắp sỏi còn sót. 
Chuyển mổ hở 50 trường hợp tỷ lệ 14,84% vì 
nhiều lý do. 
- Chảy máu khi đặt Amplatz hoặc tán sỏi: 27 
trường hợp chiếm tỷ lệ 8,01%. Máy tán sỏi cơ học 
Swiss-Lithoclast làm vỡ vụn sỏi, mảnh vụn sỏi chấn 
động vào thành sau bể thận gây chảy máu. Chúng tôi 
không dùng các loại tán sỏi khác như siêu âm, thuỷ 
động lực... 
- Chọc dò thất bại trong 14 trường hợp, tỷ lệ 
3,86%. Với điều kiện chỉ có 1 máy X quang điều chỉnh 
cho 2 mặt cắt thẳng và nghiêng nên nhiều khi chúng 
tôi gặp khó khăn trong vấn đề định vị đài thận cho 
chính xác. 
- Không đặt được ống thông lên niệu quản trong 5 
trường hợp, tỷ lệ 1,48%. Những trường hợp miệng 
niệu quản xoay ngang hoặc do vị trí miệng niệu quản 
không thích hợp khi đặt ống thông. 
- 1 trường hợp thận chướng nước nhiễm trùng, 
chúng tôi chỉ mở thận ra da. 
Trong số 61 trường hợp sỏi niệu quản trên, 
chúng tôi đã lấy được sỏi cho 47 bệnh nhân đạt tỷ lệ 
77,05%. 
Chuyển mổ hở 14 trường hợp tỷ lệ 22,95%. Đa số 
trường hợp thất bại của sỏi niệu quản là không đẩy sỏi 
vào bể thận được hoặc không đặt dây dẫn qua sỏi 
được do sỏi kẹt lâu ngày tại chỗ sinh ra nhiều polype 
bám quanh sỏi. 
Vấn đề sót sỏi trong lấy sỏi qua da dễ gặp hơn 
trong mổ hở vì khi tán sỏi các mảnh vụn sỏi văng ra 
và có thể di chuyển vào một đài thận mà góc độ tạo 
nên với máy soi thận không cho phép gắp được sỏi. 
Trong những trường hợp này chúng tôi chờ sau 1 tuần 
cho đường hầm thận ra da được tạo nên và chúng tôi 
soi thận lại lần 2 để gắp sỏi. Nếu lần 2 vẫn không lấy 
được sỏi, một thời gian sau chúng tôi chuyển bệnh 
nhân sang tán sỏi ngoài cơ thể. Vấn đề sẽ trở nên dễ 
dàng hơn khi chúng ta có máy soi thận mềm. 
Biến chứng sau lấy sỏi thận qua da 
- Chảy máu thứ phát 4 trường hợp, sau khi rút ống 
thông thận ra da. Chúng tôi đã mổ lại 3 trường hợp: 2 
trường hợp may cầm máu vết lấy sỏi, 1 trường hợp 
cắt bán phần thận và 1 trường hợp được điều trị bảo 
tồn, vết mổ tự cầm máu được. 
- Tràn máu màng phổi trái 1 trường hợp, bệnh 
nhân được đặt dẫn lưu màng phổi và tình trạng khó 
thở cải thiện. Một tuần sau bệnh nhân được rút ống 
dẫn lưu màng phổi. 
- Tổn thương đại tràng phải 1 trường hợp. Bệnh 
nhân được đặt ống thông dẫn lưu trực tiếp ra da, thay 
ống thông nhỏ dần và cuối cùng rút hẳn, vết thương 
tự lành mà không cần can thiệp phẫu thuật. Bệnh 
nhân được nuôi ăn bằng đường tĩnh mạch và dùng 
kháng sinh phổ rộng. Sau 12 ngày điều trị bệnh nhân 
được bình phục. 
- 2 bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết được điều trị 
tại khoa hồi sức trong 5 ngày. Bệnh nhân được điều 
trị bằng dịch truyền, kháng sinh đặc hiệu. Sau 5 ngày 
bệnh nhân hết sốt được chuyển về khoa. 
BÀN LUẬN 
Phương pháp lấy sỏi thận và niệu quản trên qua 
da ngày nay đã trở thành phương pháp hàng đầu để 
điều trị sỏi thận lớn mà không thể tán sỏi ngoài cơ 
thể được(3). Kết hợp với tán sỏi bằng siêu âm, thuỷ 
động lực hay cơ học giúp tán vỡ sỏi ra thành từng 
mảnh nhỏ để có thể gắp được qua ống Amplatz có 
đường kính 1cm, phương pháp lấy sỏi qua da đã 
chứng minh được hiệu quả qua tỷ lệ thành công cao 
của các tác giả từ 85-95% đến gần 100%(6) với tỷ lệ 
tổn thương dưới 10%(8). 
Lợi điểm của phương pháp này là giảm đau đớn 
trong thời gian hậu phẫu, nhờ vậy bệnh nhân có thể 
trở lại làm việc sớm hơn, bệnh nhân không chịu vết 
mổ hở mà sau này sẽ gây cảm giác tê rần khó chịu 
kéo dài và còn vấn đề thẩm mỹ vết mổ. Mặt khác 
phương pháp lấy sỏi qua da còn tỏ ra trội hẳn so với 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 247
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
mổ hở trong trường hợp sỏi thận tái phát, vì đối với 
lấy sỏi qua da sỏi mổ lần đầu hay tái phát không khác 
nhau như mổ hở, sỏi tái phát sẽ khó khăn hơn nhiều. 
Tuy nhiên ngày nằm viện của bệnh nhân trong loạt 
nghiên cứu này chưa ngắn hơn mổ hở (trung bình 6 
ngày so với của các tác giả khác trung bình 4 ngày) có 
thể do kinh nghiệm tích lũy chưa nhiều bằng các tác 
giả, sỏi niệu ở Việt Nam tỏ ra cứng hơn so với bệnh 
nhân các nơi trên thế giới, phương tiện phẫu thuật 
cũng không đầy đủ và nhất là ngày nằm viện của các 
trường hợp biến chứng đã đưa tỷ lệ ngày nằm viện 
kéo dài ra. 
Những sỏi nằm ở đài giữa và đài trên gây khó khăn 
cho PNL và đòi hỏi nhiều phương tiện dụng cụ hơn như 
máy soi thận mềm. Sỏi niệu quản lưng đòi hỏi phải có 
máy soi thận mềm để có thể gắp được sỏi ra. 
Việc áp dụng PNL cho những sỏi san hô làm gia 
tăng tỷ lệ sỏi sót, tuy nhiên nếu kết hợp với tán sỏi 
ngoài cơ thể sẽ đưa tỷ lệ thành công lên hơn 90%(11). 
Chống chỉ định duy nhất của lấy sỏi thận qua da 
là bệnh lý rối loạn đông máu. Bệnh nhân dùng 
những loại thuốc làm thay đổi sự đông máu phải 
ngưng thuốc trong một thời gian trước, như vậy mới 
có thể tránh được biến chứng chảy máu do lấy sỏi 
thận qua da. 
Nguy cơ chảy máu có thể xảy đến trong lúc chọc 
dò thận, trong quá trình tán sỏi. Trong trường hợp 
trước, chọc dò làm tổn thương mạch máu lớn của 
cuống thận do định vị hướng chọc dò không chính 
xác. Còn chảy máu trong khi tán sỏi thường do sỏi 
cứng, chấn động của mảnh sỏi vụn làm rách chủ mô 
thận và chảy máu. Trong trường hợp chảy máu do 
tổn thương mạch máu liên thùy hay mạch máu gần 
cuống thận trong lúc nong đường vào thận thường 
gây chảy máu ồ ạt, nếu có thể chụp động mạch thận 
làm thuyên tắc nhánh mạch máu tổn thương, còn 
khi chuyển mổ hở may cầm máu hoặc đôi khi phải 
cắt bán phần hoặc toàn phần thận. Vì thế chúng tôi 
thường chọn điểm chọc dò ở bờ ngoài thận nơi mạch 
máu đã chia nhỏ, ít nguy cơ chảy máu hơn(1). Mặt 
khác chọn đường vào từ cực dưới cũng ít mạch máu 
hơn so với cực trên. Theo F. J. B. Sampaio, tỷ lệ tổn 
thương mạch máu khi chọc dò đài thận trên là 26%, 
đối với đài thận giữa là 23% và đài thận dưới là 13%(5). 
Tổn thương màng phổi thường gặp phải khi điểm 
chọc dò trên xương sườn 12 để đi vào đài thận trên(4), 
Young và cộng sự đã thực hiện 115 trường hợp lấy sỏi 
thận qua da qua đường trên xương sườn 12 và ghi 
nhận biến chứng 8,7% tràn dịch màng phổi(4). Để 
tránh tổn thương màng phổi, chúng tôi chọc dò dưới 
xương sườn 12 với sự trợ giúp của bác sĩ gây mê bóp 
bóng cho thận xuống thấp để có thể đi vào đài thận 
trên được, hoặc chúng tôi dùng kỹ thuật chọc dò trực 
tiếp đài trên với tia X thẳng trục với kim chọc dò(8). Xử 
trí tổn thương này cũng với dẫn lưu màng phổi. 
Tổn thương đại tràng dễ gặp phải khi điểm chọc 
dò bên ngoài đường nách sau. Tuy nhiên với tổn 
thương này, thường là tổn thương đại tràng sau phúc 
mạc, chúng tôi điều trị bảo tồn, dẫn lưu tổn thương, 
nuôi ăn bằng dịch truyền. Sau 5-7 ngày vết thương 
đại tràng sẽ lành mà không cần phải mổ hở(7). Theo 
Leduc(9) tổn thương đại tràng có thể tránh được khi 
điều khiển trục dò tìm đài thận cạnh đại tràng. Có 
thể dùng siêu âm khảo sát xem có đại tràng nằm 
chen vào trên đường chọc dò. 
KẾT LUẬN 
Ngày nay, với sự phát triển của các kỹ thuật nội 
soi, lấy sỏi qua da trở thành phương pháp hàng đầu 
trong việc điều trị sỏi thận và sỏi niệu quản lưng(3) 
nhất là khi kết hợp với tán sỏi ngoài cơ thể giúp cho 
tỷ lệ hết sỏi lên tới 100%(6). Theo E. M. Mc Dougall tất 
cả các bác sĩ niệu khoa đều phải nắm vững kỹ thuật 
này(4). Như vậy, sau này với thêm những dụng cụ mới 
như máy soi thận mềm, chúng ta hy vọng công việc 
điều trị cho bệnh nhân sỏi niệu sẽ dùng những 
phương pháp nội soi ít xấm lấn và giảm thiểu phương 
pháp mổ hở. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Atony T. Young. Percutaneous Nephrostomy: Puncture 
Techniques. In: Atlas of Endourology Eds. Kurt 
Amplatz-Paul H. Lange. Year Book Medical Publishers, 
Inc. Ch. 6, p.55, 1986. 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 248 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học 
7. Jill M. Gerspach, Gary C. Bellman, Marshall L. Stoller 
and Peter Fugelso. Conservative management of colon 
injury following percutaneous renal surgery. In: 
Urology 49, 831-836, 1997. 
2. Brian S. Niles, Arthurn D. Smith. Technique of 
Antegrade Nephrostomy. In: Atlas of Uro. Clin. North 
Am. vol 4, No 1, 1996. 
3. E. James Seidmon. Percutaneous Nephrostolithotomy 
and the application of ultrasonic Lithotripsy and 
electro hydraulic Lithotripsy. In Current Urologic 
Therapy 3. Ed. E. J. Seidmon. p.178, W. B. Saunders 
3rd ed. 1994. 
8. Keith N. Van Arsdalen and Jay B. Levy. Urolithiasis. 
In: Clinical Manual of Urology. Eds. Philip M. Hanno 
and Alan J. Wein. Ch. 9, p. 229- 245 Mc Graw Hill Inc. 
2nd ed. 1994. 
4. Elspeth M. Mc Dougall, Evangelos N. Liatsikos, Caner 
Z. Dinlenc and Arthur D. Smith: Percutaneous 
approaches to the upper urinary tract. In Campbell’s 
Urology. Eds. Walsh, Retik, Vaughan and Wein. Ch.98, 
p.3320-3357. Saunders 8th ed. 2002. 
9. Leduc (A.), Carion (G.), Cortesse (A.), Teillac (P.). La 
chirurgie rénale percutanée. Analyse de cent cas de 
néphrolithotomies percutanées. Ann. Urol., 18, 381-
383, 1984. 
10. M. Marberger. Percutaneous stone manipulation. In: 
Stone Surgery Eds. M. Marberger, J. M. Fitzpatrick, A. 
D. Jenkins anf C. Y. C. Pak. ch. 5, p.51. Churchill 
Livingstone, 1990 
5. Francisco J. B. Sampaio. Renal anatomy. Endourologic 
Considerations. In: Urol. Clin. North Am. vol 27, No 4, 
2000. 
6. J. Patrict Spirnak and Martin I. Resnick. Stone 
treatment. Ch.16, p. 695-741. In Aldult and Pediatric 
Urology. Eds. J. Y. Gillenwater, J. T. Grayhach, S. S. 
Howard J. W. Duckett. Mosby 3rd ed. 1996 
11. Ph. Ballanger. Résultats de l’extraction percutanée des 
calculs du rein et de l’uretère. A propos de 124 cas. J. 
d’Urologie. No 1, P. 11-16, 92,1986. 
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 249
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tinh_hinh_lay_soi_than_va_nieu_quan_qua_da_cho_398_benh_nhan.pdf tinh_hinh_lay_soi_than_va_nieu_quan_qua_da_cho_398_benh_nhan.pdf