Tiểu luận Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế tại Việt Nam

Tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế tại Việt Nam: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ************** TIỂU LUẬN KINH TẾ §ÇU T¦ ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM MỤC LỤC PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1. Khái quát quan niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế Trong kinh tế học, tăng trưởng kinh tế được biểu hiện phổ quát là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Trong kinh tế học phương Tây, tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự gia tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP bình quân đầu người. Tuy nhiên, để phán ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP theo thời gian hoặc mức tăng GDP bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh t...

doc50 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ************** TIỂU LUẬN KINH TẾ §ÇU T¦ ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM MỤC LỤC PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1. Khái quát quan niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế Trong kinh tế học, tăng trưởng kinh tế được biểu hiện phổ quát là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Trong kinh tế học phương Tây, tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự gia tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP bình quân đầu người. Tuy nhiên, để phán ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP theo thời gian hoặc mức tăng GDP bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian. Nhà kinh tế học người Mỹ Walter Wiliam Rostow đã dùng khái niệm tăng trưởng trong một lý thuyết tổng quát về phát triển. Ông chia tiến trình phát triển của xã hội loài người thành năm giai đoạn tăng trưởng từ xã hội truyền thống đến xã hội hiện đại. Quan niệm của W. W. Rostow nhấn mạnh đến nội dung kinh tế của tiến trình phát triển, coi tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển. Và cũng chính vì vậy, nó đã làm nảy sinh nhiều vấn đề và nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển, trong đó có công bằng xã hội vì công bằng xã hội là một nội dung quan trọng của phát triển. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô hình kinh tế. Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nong phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mô hình này không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng. Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực nông nghiệp và công nhiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực kinh tế. Tiêu biểu cho mô hình hai khu vực là mô hình Lewis, Tân cổ điển và Harry T. Oshima. Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)). Mô hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ công nghệ. Mô hình Sung Sang Park nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc gia cho đầu tư con người. Mô hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L). Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các trường phái trên đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế). Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng. Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."[1] Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô. Vốn (hay còn gọi là Tư bản): là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi.... Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, môi trường, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn. Phát triển kinh tế là phải nói đến các yếu tố như công bằng xã hội, vấn đề môi trường, phúc lợi xã hội, tuổi thọ trung bình,... Trong kinh tế học, các công trình nghiên cứu cũng như các báo cáo phát triển chính thức ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế, người ta thường sử dụng một số công cụ và thước đo chủ yếu như: Đường cong Lorenz; Hệ số Gini; Mức độ nghèo khổ; Mức độ thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người; Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp; Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống. Trong thời gian gần đây, một thước đo được sử dụng nhiều là Chỉ số phát triển con người (HDI), do Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra và sử dụng lần đầu tiên năm 1990. Chỉ số này trải từ 0 (mức độ phát triển con người thấp nhất) đến 1 (mức độ phát triển con người cao nhất) và là trung bình cộng của các chỉ số tuổi thọ, trình độ giáo dục và thu nhập. 1.2. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư Khái niệm đầu tư Theo luật đầu tư năm 2005, Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư; Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam; Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư Trong kinh tế “Đầu tư” được hiểu là sự chi tiêu mà kết quả làm tăng tài sản cho nền kinh tế (giá trị của những tài sản mua đi bán lại giữa các thực thể kinh tế với nhau không được coi là đầu tư đối với nền kinh tế). Vì vậy, có những trường hợp đối với một cá nhân, hoặc của một tổ chức nào đó là đầu tư, nhưng xét trên phạm vi toàn nền kinh tế thì đó không phải là đầu tư nếu quá trình đầu tư đó không tạo thêm tài sản mới. (ví dụ: một người bỏ ra một khoản tiền để mua một ngôi nhà của người khác để ở thì hành vi mua bán đó không được tính là đầu tư trên phạm vi toàn nền kinh tế). Các nhà kinh tế vĩ mô chia đầu tư thành 3 loại chính như sau: đầu tư vào tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh; đầu tư vào tài sản lưu động và đầu tư vào nhà ở. Đầu tư tài sản cố định là sự bỏ vốn ra để xây dựng nhà máy, cơ sở hạ tầng và mua sắm trang, thiết bị và các tài sản đủ tiêu chuẩn là TSCĐ của các đơn vị sản xuất kinh doanh (làm tăng thực sự tài sản sản xuất). Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính là những tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên và có thời gian sử dụng trên 1 năm. Đầu tư tài sản lưu động là sự bỏ vốn ra để làm tăng thêm giá trị hàng hoá tồn kho của các doanh nghiệp, bao gồm cả nguyên, nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm tồn kho. Đầu tư nhà ở là sự bỏ vốn ra của các hộ gia đình, các chủ đất để xây dựng nhà ở mới dùng để ở và cho thuê. Tuy nhiên có những ý kiến cho rằng đầu tư xây dựng nhà ở không thuộc phạm vi đầu tư trên phương diện toàn nền kinh tế. Người ta cho rằng nhà ở thuộc tài sản tiêu dùng của các hộ gia đình. Nhưng trong cuốn sách xuất bản lần thứ 3, của N.Gregory Mankiw, Tiến sỹ kinh tế của trường Đại học Harvard coi đầu tư nhà ở thuộc phạm trù đầu tư của nền kinh tế. Đồng thời thuật ngữ “Investment” của nhiều nước hiện nay vẫn bao gồm cả lĩnh vực đầu tư về nhà ở. Vì vậy, trong bài viết này, nội dung đầu tư  được đề cập đến cả lĩnh vực đầu tư  vào nhà ở vì nhà ở được coi là tài sản cố định của nền kinh tế (khác với các tài sản dùng trong tiêu dùng của hộ gia đình khác mặc dù về giá trị và thời gian sử dụng trên một năm, nhưng không được coi là tài sản cố định của nền kinh tế).    Việc phân định ranh giới giữa tài sản cố định và tài sản lưu động không phải lúc nào cũng rõ ràng, đôi khi cũng gây lúng túng cho người thu thập và xử lý thông tin, chẳng hạn đối với thiết bị, máy móc, đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định nhưng chúng chưa được đưa vào sản xuất, vẫn nằm trong kho của các đơn vị thì được xếp vào nhóm tài sản lưu động. Vốn đầu tư Luật đầu tư 2005 đã định nghĩa: Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. Vốn nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước. Vốn đầu tư là toàn bộ các chi phí bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư. Như vậy theo quan điểm kinh tế vĩ mô vốn đầu tư trong kinh tế bao gồm ba nội dung chính là: Vốn đầu tư làm tăng tài sản cố định; Vốn đầu tư tài sản lưu động và Vốn đầu tư vào nhà ở. Chỉ tiêu “Vốn đầu tư” với nội dung như trên là rất cần thiết cho việc tính toán các chỉ tiêu liên quan như: tích luỹ tài sản, vốn hiện có,... và dùng trong phân tích về hiệu quả của đầu tư và các phân tích khác có liên quan đến vốn đầu tư, đồng thời khái niệm này cũng bảo đảm phạm vi của chỉ tiêu trong so sánh quốc tế.    Trước những năm 2000, do chế độ và điều kiện hạch toán, chỉ tiêu “vốn đầu tư cơ bản” hay thường gọi là “vốn đầu tư xây dựng cơ bản” được sử dụng phổ biến. Nhưng từ năm 2000 trở lại đây do thay đổi cơ chế quản lý, chế độ và điều kiện hạch toán, đồng thời do quan điểm của các nhà lãnh đạo, chỉ tiêu “Vốn đầu tư phát triển” đã trở thành một chỉ tiêu thay thế chỉ tiêu “vốn đầu tư XDCB” (trong niêm giám của ngành thống kê hiện nay chỉ công bố số liệu của chỉ tiêu “vốn đầu tư phát triển”). Do vậy, phần này tôi muốn so sánh nội dung của hai chỉ tiêu “Vốn đầu tư cơ bản” và “Vốn đầu tư phát triển” với nội dung của “Vốn đầu tư trong kinh tế”. * Vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư trong kinh tế Vốn đầu tư cơ bản (hay vẫn quen gọi là vốn đầu tư XDCB) là toàn bộ chi phí dành cho việc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho nền kinh. Nội dung của vốn đầu tư cơ bản gồm: các khoản chi phí cho khảo sát thiết kế và xây lắp nhà cửa và vật kiến trúc; mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc; chi phí trồng mới cây lâu năm; mua sắm súc vật đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định và một số chi phí khác phát sinh trong quá trình tái sản xuất tài sản cố định. Vốn đầu tư cơ bản không bao gồm chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định của các cơ sở sản xuất; chi phí khảo sát thăm dò chung không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng một công trình cụ thể. Vốn đầu tư cơ bản gồm: vốn đầu tư xây lắp; vốn đầu tư mua sắm thiết bị và vốn đầu tư cơ bản khác. Vốn đầu tư xây lắp (vốn xây lắp) là phần vốn đầu tư cơ bản dành cho công tác xây dựng và lắp đặt thiết bị, máy móc gồm: vốn đầu tư dành cho xây dựng mới, mở rộng và xây dựng lại nhà cửa, vật kiến trúc; vốn đầu tư để lắp đặt thiết bị, máy móc. Vốn đầu tư mua sắm thiết bị (vốn thiết bị) là phần vốn đầu tư cơ bản dành cho việc mua sắm thiết bị, máy móc, công cụ, khí cụ, súc vật, cây con đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định bao gồm cả chi phí vận chuyển, bốc dỡ và chi phí kiểm tra, sửa chữa thiết bị máy móc trước khi lắp đặt.  Đối với các trang thiết bị chưa đủ là tài sản cố định nhưng có trong dự toán của công trình hay hạng mục công trình để trang bị lần đầu của các công trình xây dựng thì giá trị mua sắm cũng được tính vào vốn đầu tư mua sắm thiết bị. Vốn đầu tư cơ bản khác là phần vốn đầu tư cơ bản dùng để giải phóng mặt bằng xây dựng, đền bù hoa màu và tài sản của nhân dân, chi phí cho bộ máy quản lý của ban kiến thiết, chi phí cho xây dựng công trình tạm loại lớn.  Như vậy, so với tổng số vốn đầu tư trong kinh tế như trên đề cập ta thấy như sau: nội dung của “Vốn đầu tư cơ bản” là trùng với 2 nội dung chính (trong 3 nội dung) của vốn đầu tư cho nền kinh tế đó là đầu tư tài sản cố định và đầu tư xây dựng nhà. Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề còn gây tranh luận là phần vốn chi cho việc sửa chữa lớn tài sản cố định tại các doanh nghiệp có tính vào tổng vốn đầu tư trong kinh tế hay không? vì trong nội dung của vốn đầu tư cơ bản không bao gồm phần vốn này và cách tính này là hoàn toàn phù hợp với hạch toán của các doanh nghiệp hiện nay. Tại các doanh nghiệp phần vốn này không được quyết toán vào tăng tài sản của doanh nghiệp mà được tính vào phần chi phí và được phép hạch toán vào giá thành sản phẩm. Nguồn vốn sửa chữa lớn TSCĐ thường lấy từ phần trích khấu hao tài sản nên không coi là đầu tư mới trong năm.  Điều này hiện nay là mâu thuẫn với chỉ tiêu “Tích luỹ tài sản (giá trị tài sản tăng trong kỳ)” của Tài khoản quốc gia. Như vậy để có nội dung đầy đủ của chỉ tiêu vốn đầu tư trong kinh tế, chúng ta chỉ cần cộng thêm phần vốn đầu tư bổ sung tài sản lưu động (đầu tư hàng tồn kho) và phần vốn mua sắm TSCĐ không thuộc công trình xây dựng) vào vốn đầu tư cơ bản là đủ, tức là: Vốn ĐT trong kinh tế = Vốn ĐTCB (bao gồm cả vốn mua sắm TSCĐ không thuộc công trình XD) + Vốn bổ sung tài sản lưu động Vốn đầu tư phát triển và vốn đầu tư trong kinh tế Khái niệm và nội dung vốn đầu tư phát triển hiện nay còn nhiều tranh luận. Trong đó có hai khái niệm về vốn đầu tư phát triển đang sử dụng trong ngành thống kê như sau: Vốn đầu tư phát triển là những chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tăng thêm tài sản tài chính (tiền vốn); tài sản vật chất (nhà máy, thiết bị, vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu, hàng hoá, cầu cống, đường xá); tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực (trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, trình độ khoa học kỹ thuật). Vốn đầu tư phát triển gồm: vốn đầu tư XDCB và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu động bổ sung; vốn đầu tư phát triển khác. Về nội dung của vốn đầu tư XDCB và vốn lưu động bổ sung là thống nhất với phần đã nêu trên. Vốn đầu tư phát triển khác bao gồm: chi phí thăm dò, khảo sát và qui hoạch ngành, vùng lãnh thổ; chi phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, Chương trình 773 phủ xanh đất trống ven sông ven biển, Chương trình 135 hỗ trợ các xã nghèo, Chương trình sắp xếp lao động và giải quyết việc làm, chương trình giáo dục và đào tạo, chương trình y tế; Chương trình văn hoá; Chương trình phủ sóng phát thanh; chương trình mục tiêu về truyền hình; Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình; Chương trình phát triển công nghệ thông tin, chương trình hành động phòng chống ma tuý, Chương trình phòng chống HIV/AIDS, chương trình phòng chống tệ nạn mại dâm...); chi phí cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực không thuộc vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn đầu tư phát triển là vốn được bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư nhằm sau một chu kỳ hoạt động hoặc sau một thời gian nhất định thu về một giá trị nhất định lớn hơn giá trị vốn đã bỏ ra ban đầu. Nội dung của vốn đầu tư phát triển gồm: vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn đầu tư mua sắm thiết bị máy móc, tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh, vốn đầu tư cho sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn đầu tư bổ sung cho vốn lưu động và các nguồn vốn đầu tư phát triển khác như vốn đầu tư để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, cho khoa học công nghệ, cho đào tạo nguồn nhân lực con người So sánh giữa nội dung của chỉ tiêu “Vốn đầu tư trong kinh tế” và “Vốn đầu tư phát triển” ta thấy: nội dung của chỉ tiêu “Vốn đầu tư” trong kinh tế không bao gồm những phần đầu tư cho người lao động (hoặc nguồn lao động) như: Chi cho giáo dục, đào tạo nguồn lao động kể cả đào tạo của các doanh nghiệp và các đơn vị hành chính sự nghiệp; chi sự nghiệp khoa học công nghệ và chi cho nghiên cứu không trực tiếp liên quan đến công trình xây dựng nào; chi sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng,... và các khoản chi khác không được quyết toán vào tăng tài sản của nền kinh tế. 1.3 Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trường và phát triển kinh tế 1.3.1 Tốc độ tăng đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư tác động lên tăng trưởng kinh tế ở cả hai mặt; tổng cung và tổng cầu. Yếu tố đầu tư là một nhân tố của hàm tổng cầu có dạng: Y = C + I + G + X - M (4) Trong kinh tế vĩ mô cũng như trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) Y là GDP; C là tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình; I là đầu tư; G là chi tiêu dùng của nhà nước; X là xuất khẩu và M là nhập khẩu. Từ quan hệ trên ta thấy khi đầu tư (I) tăng sẽ trực tiếp làm tăng GDP. Theo Keynes thì khi đầu tư tăng một đơn vị thì sẽ làm cho GDP tăng hơn một đơn vị. Trong thực tế thì mức độ của ảnh hưởng trên còn tuỳ thuộc vào năng lực cung của nền kinh tế. Nếu năng lực cung hạn chế thì việc gia tăng tổng cầu, với bất kỳ lý do nào chỉ làm tăng giá mà thôi, sản lượng thực tế không tăng là bao. Ngược lại, nếu năng lực sản xuất (cung) dồi dào thì gia tăng tổng cầu sẽ thực sự làm tăng sản lượng, ở đây lý thuyết của Keynes được khẳng định. Các mô hình tăng trưởng đơn giản dạng tổng cung đều nhấn mạnh đến yếu tố vốn trong tăng trưởng. Mô hình Harrod - Domar (Do hai nhà kinh tế Roy Harrod của Anh và Evsey Domar của Mỹ đưa ra vào những thập niên 40 của thế kỷ 20 và được sử dụng rộng rãi cho đến ngay nay) đưa ra mối quan hệ hàm số giữa vốn (ký hiệu K) và tăng trưởng sản lượng (ký hiệu là Y). Mô hình này cho rằng sản lượng của bất kỳ một thực thể kinh tế nào - cho dù là một doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế - đều phụ thuộc vào số lượng vốn đã đầu tư đối với thực thể kinh tế đó và được biểu diễn dưới dạng hàm: Y = K/k (5) Với k là hằng số, được gọi là hệ số vốn - sản lượng (Capital - output ratio) (Gillis at al,1992, trang 43), quan hệ trên chuyển sang dạng tốc độ tăng hoặc vi phân ta có: Y(t)/Y(t0) = K(t)/Y(t0).1/k (6) => k = K(t)/Y(t0)/ Y(t)/Y(t0) (7) ở đây: t là năm tính toán; t0 là năm trước năm tính toán Người ta coi Y(t)/Y(t0) chính là tốc độ tăng GDP; K(t)/Y(t0) là tỷ lệ đầu tư của năm tính toán trên GDP của năm trước đó. Điều này có nghĩa để đạt được tốc độ tăng trưởng nào đó thì nền kinh tế phải đầu tư theo một tỷ lệ nhất định nào đó từ GDP; khi chuyển sang dạng tốc độ hệ số k gọi là hệ số ICOR (incremental capital - output ratio); hệ số này cho biết để tăng thêm một đồng GDP thì cần tăng thêm bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Có một thời gian rất nhiều người thích sử dụng cách tính ICOR theo công thức này và họ đơn giản lấy Y(t)/Y(t0) là tốc độ tăng trưởng (công bố trong niên giám Thống kê) và họ rất băn khoăn không biết lấy tỷ lệ và giá gì cho phần tử số. Cách tính này là không thực tế đối với Việt Nam do nguồn số liệu không khả thi, ví dụ như họ thường lấy K là vốn từ trong Niên giám Thống kê; khái niệm vốn đầu tư trong Niên giám Thống kê thực ra không phải là vốn theo định nghĩa của các nhà kinh tế, mà cũng không hẳn là đầu tư theo SNA, nó là cái gì thì hiện nay còn đang tranh cãi! Từ quan hệ (5) cũng có thể khai triển (vi phân hai vế) với công thức tính ICOR như sau: k = (K(t)-K(t0))/ ( GDP(t)-GDP(t0)) Đặt I = K(t) - K(t0) =>k = I/( GDP(t)-GDP(t0)) (8) Công thức tính ICOR này là chuẩn tắc và truyền thống (theo từ điển các thuật ngữ kinh tế). Khi tính toán ICOR theo công thức này cần chú ý đến vấn đề giá. Hệ số ICOR cao là không hiệu quả, thấp là hiệu quả, nhưng đối với những nền kinh tế lạc hậu, hệ số này thường cũng không cao. * Vận dụng chỉ tiêu ICOR xác định nhu cầu vốn và mục tiêu tăng trưởng Vì vốn đầu tư (I) có tác dụng tác động quyết định đến tăng trưởng kinh tế (g) và mức tiết kiệm (S) là nguồn gốc của đầu tư. Ta có: g = DY/Y, (trong đó Y là chỉ tiêu kết quả sản xuất - ở đây lấy chỉ tiêu GDP), nếu gọi S là mức tiết kiệm của nền kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ trong GDP là: s = S/Y Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (S = I). Mục đích của đầu tư là tạo ra vốn sản xuất (I = DK) Từ công thức hệ số ICOR ta có: k= DK/DY = I/DY Vì g = DY/Y = (IDY)/(IY) = (I/Y):(I/DY) hay g = S/K Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau: Một là: Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Hai là: Khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra * Nhược điểm của ICOR: - Là một chỉ số đã được đơn giản hóa nên khó đánh giá các hiệu quả kinh tế - xã hội. - Đầu tư ở đây chỉ là đầu tư tài sản hữu hình, còn đầu tư tài sản vô hình, tài sản tài chính không được tính đến, nên phản ánh chưa trung thực ảnh hưởng của đầu tư tới thu nhập quốc dân. - Chỉ số này không biểu hiện được rõ ràng trình độ kỹ thuật của phía sản xuất, vì ICOR là tỷ lệ đầu tư/sản lượng gia tăng. Chẳng hạn một bên có kỹ thuật sản xuất kém hơn, với một lượng đầu tư tương đối cũng có thể cải thiện chỉ số ICOR xấp xỉ với bên có trình độ kỹ thuật cao hơn, do kỹ thuật càng cao thì càng chậm cải tiến. Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hoá. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, hoặc lỗ nhiều. Có những trường hợp đầu tư chưa đem lại hiệu quả ngay như đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Chính do đặc điểm có độ trễ trong hiệu quả đầu tư nên Hệ số ICOR thường được dự tính cho các kế hoạch phát triển dài hạn, thường là 5 năm. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được thể hiện thông qua hệ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio). Hệ số ICOR là tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng (còn gọi là hệ số đầu tư tăng trưởng). Hệ số ICOR cho biết muốn có một đồng tăng trưởng thì phải cần bao nhiều đồng vốn đầu tư. Hệ số ICOR biểu hiện mối quan hệ giữa mức tăng sản lượng đầu ra (kỳ t) và mức đầu tư của kỳ (t-1) và được tính bằng công thức: Hệ số ICOR phụ thuộc vào nguồn dự trữ và công nghệ sản xuất. ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng đắt.  Hệ số ICOR ở một số nước có xu hướng tăng và ICOR ở các nước phát triển thường cao hơn ở các nước đang phát triển. Số liệu thống kê cho thấy hệ số ICOR thường nằm trong khoảng 3 và 4 trong thế kỷ 19, nhưng hệ số ICOR khác nhau đáng kể giữa các ngành kinh tế. Mức tăng trưởng tiềm năng được tính bằng cách chia tỷ lệ đầu tư cho hệ số ICOR. Ví dụ một nước dùng 12% tổng thu nhập vào đầu tư mới, và cần 3 đồng đầu tư để tăng 1 đồng kết quả/năm, khi đó tốc độ tăng trưởng sẽ là 4% (12%/3). Nếu hệ số ICOR cao hơn, giả dụ cần 4 đồng đầu tư mới để tăng 1 đồng kết quả/năm, khi đó  mức tăng trưởng sẽ là 3% (12%/4). Cần lưu ý rằng một nền kinh tế mạnh  thường “sống bằng” 80% kết quả, 20% còn lại có thể dùng để đầu tư mới và làm tăng mức tăng trưởng. Vì vậy một trong số nhân tố quyết định  mức tăng trưởng là quy mô và sử dụng thặng dư xã hội. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao hơn tốc độ tăng dân số thì sản lượng bình quân đầu người không tăng. Nếu ta muốn tính tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người thì phải trừ đi mức tăng dân số từ mức tăng trưởng kinh tế. Vì vậy theo ví dụ trên mức tăng trưởng 4%, mức tăng dân số là 2% /năm sẽ có mức tăng trưởng trên 1 đồng đầu tư chỉ là 2%. Tăng trưởng kinh tế hoạt động như lợi ích kết hợp. Một nền kinh tế có sản lượng bình quân đầu người tăng ở mức 2%/năm sẽ gấp đôi sản lượng bình quân đầu người trong vòng 36 năm. Nếu tốc độ tăng giảm xuống còn 1,5%, sẽ cần 48 năm để gấp đôi sản lượng. Nếu tốc độ tăng trưởng tăng lên 2,5%/năm sẽ cần khoảng 29 năm. Vì vậy, việc tăng hoặc giảm tốc độ tăng trưởng có ý nghĩa khi xét tác động của nó trong vòng 3 hoặc 4 thập kỷ (nguyên tắc 72 là phương pháp nhanh nhất để tính tác động của tăng trưởng tích luỹ. Đơn giản, lấy 72 chia cho mức tăng trưởng hàng năm  ta sẽ có kết quả là số năm cần để gấp đôi mức sản lượng bình quân đầu người). Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế bắt đầu khi có đầu tư đủ để chuyển mức tăng trưởng kinh tế trên mức tăng dân số và duy trì được sự tăng trưởng. Rostow, một  sử gia kinh tế đã phát triển thuyết “giai đoạn” phát triển kinh tế, ông gọi điểm bắt đầu quan trọng là giai đoạn “cất cánh” và từ cất cánh được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên Rostow đã cố gắng để chứng tỏ rằng phần còn lại của quá trình phát triển kinh tế chắc chắn sẽ xảy ra (ít hoặc nhiều) khi giai đoạn “cất cánh” đã xảy ra, một gợi ý cho rằng từ “cất cánh” không hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử. Một nhà kinh tế khác gọi giai đoạn bắt đầu này là “sự đâm chồi”- bằng chứng của các dấu hiệu tăng trưởng đầu tiên. Cần xét đến một số khía cạnh ít mang tính số lượng hơn của việc tăng trưởng. Một thời kỳ dài của tăng trưởng bền vững dẫn đến sự tăng trưởng bình thường. Các nhà lập chính sách hy vọng sẽ có tăng trưởng liên tục và sẽ sửa đổi chính sách nếu không tăng trưởng. Nếu thặng dư xã hội, hệ số ICOR và mức tăng trưởng kinh tế kết hợp mang lại cho xã hội tốc độ tăng trưởng 0,5%/năm / vốn đầu tư tăng trưởng, điều chắc chắn là không một ai muốn có tốc độ tăng trưởng này. Nếu tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức 0,5%/năm thì phải cần tới 144 năm để gấp đôi thu nhập từ 1 đồng vốn. [4]. 1.3.2. Mối quan hệ giữa cơ cấu đầu tư và tốc độ tăng trưởng Các nhà kinh tế đều thừa nhận đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế, muốn có tăng trưởng phải có đầu tư. Tuy nhiên cơ cấu đầu tư (đầu tư vào đâu) là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Các nhà kinh tế đều đồng ý với nhau rằng cần có một cơ cấu đầu tư hợp lý, để tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý. Thuật ngữ "hợp lý" ở đây được hiểu là cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế như thế nào để đảm bảo được tốc độ phát triển nhanh và bền vững. Mặc dù đồng ý với nhau như vậy nhưng các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về cách thức tạo ra một cơ cấu đầu tư "hợp lý". Có một số quan điểm chủ yếu sau đây: + Quan điểm của trường phái tân cổ điển Quan điểm này cho rằng Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế trong quá trình phân bổ nguồn lực (Vốn, lao động...) mà sự vận động của thị trường sẽ thực hiện tốt hơn vai trò này. Trường phái này khẳng định một trong những ưu điểm của kinh tế thị trường đó là sự phân bổ nguồn lực một cách tự động dưới sự tự điều khiển của thị trường. Các doanh nghiệp với mục đích tối đa hoá lợi nhuận sẽ tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt nhất cho mình. Tuy nhiên giả thiết của trường phái tân cổ điển là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đó là thị trường mà người bán và người mua không ai kiểm soát và có khả năng kiểm soát giá cả và có đầy đủ thông tin trong cả hiện tại và tương lai. Trong thực tế giả định này là một điều phi thực tế, nhất là về thông tin. + Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của chính phủ Quan điểm nay cho rằng do thị trường không hoàn hảo, nhất là đối với các nước đang phát triển, nên tự vận động của thị trường sẽ không mang lại kết quả tối ưu. Thông tin không hoàn hảo có thể dẫn đến sản xuất và đầu tư quá mức. Mặt khác, ở hầu hết các nước đang phát triển, kinh tế còn lạc hậu, phụ thuộc vào nông nghiệp, nếu để thị trường tự vận động sẽ không tạo ra sự phát triển mạnh mẽ. Nhà nước cần tạo ra sự khởi động ban đầu để hình thành nên các ngành công nghiệp. Sự can thiệp của Nhà nước trong việc phân bổ nguồn lực cho công nghiệp là cần thiết. Sở dĩ phải phát triển công nhiệp bởi đây là khu vực có thể tăng năng suất nhanh nhất do ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật, ngoài ra khu vực này còn tạo ra kích thích cho toàn nền kinh tế. Vì lý do đó mà các nước đang phát triển chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp, hay còn gọi là quá trình công nhiệp hoá. Tuy nhiên, ở nhiều nước sự can thiệp quá mức của nhà nước vào quá trình công nghiệp đôi khi không hiệu quả. Rất nhiều ngành công nghiệp được hình thành theo ý chí chủ quan của một số nhà lãnh đạo, chứ không dựa trên các phân tích kinh tế kỹ càng. Tham nhũng, các hoạt động tìm kiếm đặc lợi càng làm cho vấn đề thêm nghiêm trọng, lúc đó nền kinh tế chịu sự rủi ro rất cao của những quyết định sai. + Quan điểm về tăng trưởng cân đối Theo Rosenstain - Rodan, khái niệm tăng trưởng cân đối được đưa ra nhằm mô tả sự tăng trưởng cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế. Ông đề nghị đầu tư nên hướng một lúc vào nhiều ngành để tăng cung cũng như kích thích cầu cho nhiều sản phẩm. Sự phát triển trong công nghiệp chế biến đòi hỏi một lượng đầu tư trong một thời gian dài; từ đó phát sinh sự phát triển song song cả hàng hoá phục vụ sản xuất cũng như phục vụ tiêu dùng. Ý tưởng về cú huých lập luận rằng gia tăng mạnh mẽ về đầu tư sẽ dẫn đến mức tiết kiệm tăng lên do gia tăng trong thu nhập. Theo Rosenstain - Rodan, mục đích của viện trợ nước ngoài cho các nước kém phát triển là đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế tới một điểm mà ở đó tốc độ tăng trưởng kinh tế mong muốn có thể đạt được trên nền tảng tự duy trì, không phụ thuộc vào nguồn tài trợ bên ngoài. Theo Nurske: ông ủng hộ sự phát triển cân đối, sản xuất hàng loạt nhiều loại sản phẩm để gia tăng cầu, lúc đó sẽ khai thác được "lợi thế về qui mô", như vậy hiệu quả đầu tư mới cao và đẩy nhanh tốc độ phát triển. + Tăng trưởng không cân đối Hirschman (1958) đưa ra một mô hình mang tính trái ngược. Ông cho rằng sự mất cân đối giữa cung và cầu tạo ra động lực cho nhiều dự án mới. Theo cách tiếp cận này vốn đầu tư cần được nhà nước phân phối cho những ngành công nghiệp trọng điểm, nhằm tạo ra cơ hội ở những ngành khác trong nền kinh tế; khái niệm về "liên hệ ngược" và "liên hệ xuôi" cũng ra đời từ ông này. Hai khái niệm này được tính toán từ mô hình I/O. Ông cho rằng sự mất cân đối này sẽ tạo ra sự phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, nhiều định chế của cơ chế thị trường chưa hoàn chỉnh, nên các điều kiện của thị trường cạnh tranh hoàn hảo rõ ràng là chưa đáp ứng được. Mặt khác, nền kinh tế của ta đang ở mức phát triển thấp, chịu ảnh hưởng của một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung... Tất cả những đặc tính đó cho thấy Nhà nước cần đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, không thể để thị trường tự thân vận động. PHẦN II. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 2.1 Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và đầu tư tròng vòng 5 năm trở lại đây – những kết quả đạt được Ở góc độ toàn nền kinh tế, hệ số ICOR biểu hiện tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng GDP. ở nước ta tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP còn thấp so với các quốc gia trong khu vực. Vấn đề đặt ra là phải có các chính sách và biện pháp để tăng huy động vốn  (cả về số lượng và tỷ lệ) và đặc biệt quan trọng là phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Hệ số ICOR năm 1991 của Việt Nam là 0,39, tức là để có 1 đồng tăng trưởng cần phải đầu tư 0,39 đồng vốn. Đến năm 2001, số liệu này là 3,82. Thực tế cho thấy càng tiếp cận sâu rộng với thị trường thế giới thì lợi thế cạnh tranh ban đầu sẽ giảm đi (tài nguyên phong phú, lao động rẻ). Nếu không phát huy được lợi thế cạnh tranh ban đầu và không tạo được những lợi thế cạnh tranh mới thì khó có thể đạt được mức tăng trưởng mong muốn. Đầu tư vốn cho khoa học công nghệ là một hướng đầu tư quan trọng và mang tính đặc thù. Vốn đầu tư cho công nghệ sẽ mang lại hiệu quả cao trong phát triển dài hạn, tuy nhiên đây cũng là lĩnh vực đầu tư có nhiều rủi ro. ở các nước mới thực hiện công nghiệp hoá, chính phủ đóng vai trò hỗ trợ chính trong phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay ở nước ta quy định sử dụng 2% tổng ngân sách cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, nhưng trong thực tế chỉ đạt 1%, (chiếm 0,2% GDP). Đây là một tỷ lệ rất thấp và bất hợp lý so với tỷ lệ 2,5-3% ở các nước công nghiệp phát triển . Theo phân tích của Báo đầu tư thì nguyên nhân của đầu tư kém hiệu quả ở nước ta hiện nay, trước hết là do việc chọn và quyết định dự án đầu tư. Nếu thời kỳ 1991-1997, hệ số ICOR  là 2,6 thì hiện nay đã tăng lên khoảng 8,0. Cùng một đơn vị vốn có thể tạo ra những mức sản lượng rất khác nhau, phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu suất của một đơn vị vốn có thể giảm nếu việc quản lý lực lượng làm việc không hiệu quả hoặc không bảo đảm đủ nguyên vật liệu cho sản xuất, đồng thời cũng bị những ràng buộc về lực lượng lao động. Vì những lý do này mà mức sản lượng thu được từ một lượng vốn sẽ rất khác nhau giữa các nước. So sánh mang tính quốc tế về hệ số ICOR sẽ gặp  khó khăn trong việc tính sự thay đổi về vốn. Ví dụ, trong liên doanh liên kết đầu tư ở  nước ta phần góp vốn đầu tư của nước chủ nhà thường tính bằng giá trị đất đai, nhà xưởng và thực tế ở nước ta giá đất quá đắt và thay đổi rất nhanh. Hoặc trong đầu tư xây dựng cơ bản thì chi phí cho giải phóng mặt bằng chiếm một phần rất lớn và chi phí này tăng lên theo giá đất đai ... do vậy cũng gây khó khăn cho việc xác định giá trị đầu tư.  Mặc dù có những khó khăn trong việc tính vốn đầu tư cũng như các yếu tố thuộc lĩnh vực quản lý, thì  hệ số ICOR vẫn được sử dụng là một số đo hiệu quả đầu tư và so sánh hiệu quả đầu tư ở các nước khác nhau. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền kinh tế của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế và từng đơn vị kinh tế. Việc đầu tư vào đâu, đầu tư bao nhiêu và đầu tư vào thời điểm nào để đạt được hiệu qủa kinh tế cao là những vấn đề mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, xây dựng dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ. Đầu tư và tăng trưởng đang trở thành vấn đề kinh tế quan trọng hiện nay của đất nước. Tăng thêm vốn đầu tư và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đầu tư và tăng trưởng sẽ mang lại hiệu quả nếu có những giải pháp thích hợp  Chỉ số ICOR đo lường hiệu quả đầu tư, tính trên lượng vốn cần tăng thêm để đạt mức gia tăng một đơn vị sản lượng, chính là thông số biểu hiện cụ thể nhất của thể trạng sức khỏe nền kinh tế. Chỉ so ICOR cao đồng nghĩa với hiệu suất kinh tế thấp, nói lên tính cách “tinh và gọn” của hệ thống. Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm 2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến 43.1%, còn theo ước tính sơ bộ đến hết tháng 8 năm 2009 tỷ lệ này là 43,9%. Dù đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ từ 6 - 8.5%, và dự kiến, năm 2009, mức tăng trưởng cao của Việt Nam cũng chỉ dừng ở 5,2%, do đó, hệ số ICOR luôn ở mức cao. ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Ngay từ năm 2007, khi hệ số ICOR của Việt Nam dừng ở mức 5-6, đã có những cảnh báo về sự lãng phí trong đầu tư và hiệu quả thấp trong sử dụng nguồn lực của Việt Nam.  Ông Trần Đức Nguyên, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, đã phân tích: chỗ yếu của nền kinh tế nước ta là tăng trưởng kém chất lượng. Hệ số ICOR của nước ta trong các năm 2001-2007 là 5,2 nghĩa là cần 5,2 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP, cao gấp rưỡi đến gấp hai nhiều nước xung quanh trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Các nước làm giỏi, ICOR của họ thời kỳ đầu CNH là trên dưới 3. Tăng trưởng GDP và ICOR một số nước Đông Á Quốc gia Giai đoạn GDP (%) Đầu tư/GDP ICOR Hàn quốc 1961 –  1980 7,9% 23,3 3,0 Đài Loan 1961 – 1980 9,7% 26,2 2,7 Indonesia 1981 – 1995 6,9% 25,7 3,7 Thái Lan 1981 – 1995 8,1% 33,3 4,1 Trung Quốc 2001 – 2006 9,7% 38,8 4,0 Việt Nam 2001 – 2006 7,6% 39,1 5,1 Nguồn World Bank  Năm 2007, vốn đầu tư thực hiện so với GDP là 45,6%, nếu hạ được hệ số ICOR xuống, bước đầu ở mức 4,5 thì tốc độ tăng GDP của Việt Nam đã là 10%.  Dù các chuyên gia quan ngại và lên tiếng cảnh báo từ lâu nhưng, đến 2008, chỉ số ICOR Việt Nam lại vượt ngưỡng, lên mức 6,66. Và năm 2009, một lần nữa, chỉ số ICOR ở mốc mới. Theo tính toán của Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội, hệ số ICOR năm 2009 của Việt Nam đã lên tới 8, mức cao nhất từ trước tới nay.  Cho rằng chỉ số ICOR tuyệt đối chỉ mang tính tham khảo, vì có thể có sự khác nhau trong cách tính, tuy nhiên, ông Trần Sĩ Chương, chuyên gia kinh tế độc lập, quan ngại, chỉ so với năm 2008, hệ số ICOR năm 2009 đã tăng 17,5%. “Những nỗ lực của chúng ta trong việc nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế đã không mang lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí còn khiến tình hình kém hơn". Điều này đồng nghĩa với việc trong cuộc "so găng" với các đối thủ trong khu vực, với thể trạng kinh tế yếu như hiện nay, nếu các nước chỉ cần một lần có thể nhấc được mục tiêu, thì Việt Nam phải tốn sức gấp đôi, thậm chí gấp ba.   ICOR của Việt Nam qua các giai đoạn Giai đoạn ICOR 1991 – 1995 3,5 1996 – 2000 4,8 2001 – 2003 5,24 2004 – 2006 5,04 2007 – 2008 6,15 2009 (dự tính) 8  Nguồn TCTK  Đặt trong tương quan với việc Việt Nam tụt hạng về năng lực cạnh tranh theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, cũng như của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, việc hệ số ICOR tăng thể hiện rõ xu hướng đi xuống của nền kinh tế.  Để đảm bảo hiệu quả đầu tư, có hai yếu tố cân nhắc: đầu tư đúng đối tượng, và môi trường kinh doanh liên tục được cải thiện (tính cạnh tranh) để tiền rót vào được sử dụng hiệu quả. Đáng tiếc, soi vào thực tế Việt Nam , cả hai yếu tố đó đều có vấn đề.  Cụ thể: "Danh chính, ngôn thuận thì mọi việc làm mới thuận. Việt Nam nói là kích cầu, nhưng thực chất lại dùng kích cung để thông qua đó hy vọng đẩy cầu lên. Cầu có thật thì cung mới có thật. Trong bối cảnh khủng hoảng, các DN co cụm, kích cung chỉ có thể mang lại hiệu quả giới hạn. Rút cuộc, bỏ ra lượng vốn lớn, nhưng chúng ta không tăng được sự linh hoạt của thị trường, kéo theo đó là hiệu quả đầu tư giảm đi".  Đặc biệt, đối tượng thụ hưởng chính của các chính sách kích cầu của Chính phủ là khối các DNNN, khu vực vốn được nhiều ưu đãi và gây nhiều quan ngại cho các kinh tế gia Việt Nam Đặt trong tương quan với việc Việt Nam tụt hạng về năng lực cạnh tranh theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, cũng như của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, việc hệ số ICOR tăng thể hiện rõ xu hướng đi xuống của nền kinh tế.  Để đảm bảo hiệu quả đầu tư, có hai yếu tố cân nhắc: đầu tư đúng đối tượng, và môi trường kinh doanh liên tục được cải thiện (tính cạnh tranh) để tiền rót vào được sử dụng hiệu quả. Đáng tiếc, soi vào thực tế Việt Nam , cả hai yếu tố đó đều có vấn đề. Năm Chỉ tiêu kinh tế Đầu tư 2006 Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%. Trong 8,17% tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ đóng góp 3,34 điểm phần trăm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%, thấp hơn mức tăng 4% của năm 2005, chủ yếu do tốc độ tăng của ngành nông nghiệp và thuỷ sản chậm lại vì ảnh hưởng của thời tiết bất thường và dịch bệnh. Khu vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng thấp hơn mức tăng của năm ngoái do sản xuất công nghiệp giảm (dầu thô khai thác đạt 17 triệu tấn, thấp hơn mức 18,5 triệu tấn của năm 2005; công nghiệp chế biến và điện, nước, ga cũng giảm so với mức tăng trưởng năm trước. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó một số ngành có tỷ trọng lớn duy trì được mức độ tăng cao như thương nghiệp; vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch; khách sạn, nhà hàng;  tài chính ngân hàng, bảo hiểm. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52% trong năm nay; khu vực dịch vụ tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02% xuống còn 20,40%. Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2006 ước tính bằng 110,2% dự toán cả năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 103%; thu từ dầu thô bằng 126%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 106,3%; thu viện trợ bằng 148%. Chi ngân sách Nhà nước năm 2006  bằng 108,4% dự toán cả năm, bảo đảm được các kế hoạch chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm bằng mức dự toán cả năm, trong đó 74,2% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 25,8% từ nguồn vay nước ngoài Thực hiện vốn đầu tư năm 2006 theo giá thực tế ước tính đạt 398,9 nghìn tỷ đồng, bằng 105,9% kế hoạch năm, trong đó vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng 50,1%, bằng 103,2%; vốn ngoài Nhà nước chiếm 33,6%, bằng 105,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 16,3%, bằng 116,1%. Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước năm 2006 ước tính thực hiện 64,1 nghìn tỷ đồng, bằng 114,1% kế hoạch cả năm, trong đó vốn đầu tư do trung ương quản lý xấp xỉ 18 nghìn tỷ đồng, bằng 103,3%; vốn do địa phương quản lý 46,1 nghìn tỷ đồng, bằng 119%. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2006 tiếp tục phát triển. Tính từ đầu năm đến 18/12/2006, cả nước có 797 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 7,57 tỷ USD, bình quân 1 dự án đạt 9,5 triệu USD. Cũng đến thời điểm trên, còn có 486 lượt dự án được tăng vốn với số vốn tăng thêm 2,36 tỷ USD; tính chung cả cấp mới và tăng vốn đến 18/12/2006 đạt 9,9 tỷ USD và như vậy cả năm 2006 sẽ đạt trên 10 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay và cũng là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm 2006. Trong tổng vốn đăng ký thuộc các dự án ĐTNN được cấp phép năm nay, công nghiệp và xây dựng chiếm 68,4%; dịch vụ chiếm 30%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 1,6%. Có 43 tỉnh, thành phố có dự án đầu tư nước ngoài mới cấp phép trong năm 2006, trong đó có 12 tỉnh, thành phố có số vốn đăng ký từ 100 triệu USD trở lên. Có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ được cấp giấy phép đầu tư vào Việt Nam trong năm 2006 2007 Theo ước tính sơ bộ, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 8,48% so với năm 2006, đạt kế hoạch đề ra (8,2-8,5%), gồm có khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,41% (kế hoạch 3,5-3,8%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,6% đạt kế hoạch đề ra (10,5-10,7%); khu vực dịch vụ tăng 8,68% vượt kế hoạch đề ra (8,0-8,5%). Tăng trưởng kinh tế năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực (Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á-ADB thì năm 2007 kinh tế Trung Quốc tăng 11,2%; Việt Nam tăng 8,3%; Xin-ga-po tăng 7,5%; Phi-li-pin tăng 6,6%; In-đô-nê-xi-a tăng 6,2%; Ma-lai-xi-a tăng 5,6%; Thái Lan tăng 4%). Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% tổng sản phẩm trong nước (đạt kế hoạch đề ra 40% GDP) và tăng 15,8% so với năm 2006, trong đó vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn và tăng 8,1%; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% và tăng 24,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và tăng 17,1%. Trong vốn nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sánh nhà nước (gồm vốn dự án và chương trình mục tiêu) ước tính thực hiện 97 nghìn tỷ đồng, bằng 101,6% kế hoạch năm, trong đó vốn do địa phương quản lý 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng 107,2%, vốn trung ương quản lý đạt thấp hơn so với dự toán, chỉ bằng 92,2%; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ước tính 40,3 nghìn tỷ đồng, đạt kế hoạch năm và vốn của các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức nhà nước khác khoảng 62,7 nghìn tỷ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn cấp phép mới là 17,86 tỷ USD 2008 Tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%, nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn. Tổng sản phẩm trong nước năm 2008 Tốc độ tăng so với năm trước (%) Đóng góp của mỗi khu vực vào tăng trưởng 2008 (Điểm %) 2006 2007 2008 Tổng số 8,23 8,48 6,23 6,23 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 3,69 3,40 3,79 0,68 Công nghiệp và xây dựng 10,38 10,60 6,33 2,65 Dịch vụ 8,29 8,68 7,20 2,90 Xét theo ngành kinh tế, mức tăng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2008 cao hơn mức tăng năm 2007 và 2006, chủ yếu do sản xuất nông nghiệp được mùa, sản lượng lúa cả năm tăng 2,7 triệu tấn so với năm 2007 và là mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây. Tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng năm nay đạt mức thấp hơn mức tăng của năm 2007, chủ yếu do sản xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều so với năm trước (giá trị tăng thêm giảm 3,8%); công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm công nghiệp nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm 2007; đặc biệt giá trị tăng thêm của ngành xây dựng năm nay không tăng, trong khi năm 2007 ngành này tăng ở mức 12%. Hoạt động của khu vực dịch vụ tuy ổn định hơn so với khu vực công nghiệp và xây dựng nhưng giá trị tăng thêm vẫn tăng thấp hơn mức tăng 8,7% của năm trước. Xét theo các yếu tố sử dụng GDP năm 2008 thì tốc độ tăng của tích luỹ tài sản cố định, tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu theo giá so sánh 1994 đều giảm so với mức tăng của năm 2007. Tốc độ tăng tích lũy tài sản cố định năm 2008 giảm mạnh, từ mức 24,4% của năm 2007 xuống còn 4,1%. Tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng năm 2008 giảm cả ở khu vực nhà nước và hộ gia đình so với tốc độ tăng của năm 2007, trong đó tiêu dùng cuối cùng của khu vực nhà nước giảm từ 8,9% năm 2007 xuống 7,5% năm 2008; tốc độ tăng tiêu dùng của khu vực hộ gia đình giảm từ 10,7% xuống còn 8%. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2008 theo giá so sánh tăng thấp so với năm 2007, chỉ ở mức 5,6%. So với GDP, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng 69,5% và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng 84%. Điều này cho thấy kinh tế Việt Nam hiện đang là nền kinh tế có độ mở lớn và tốc độ mở nhanh, do đó dễ bị ảnh hưởng từ những biến động của thị trường thế giới. GDP tính theo giá thực tế năm 2008 tăng cao; với mức tăng trưởng và tăng giá khác nhau ở ba khu vực nên cơ cấu kinh tế năm 2008 tăng ở khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản và giảm ở khu vực công nghiệp, xây dựng. Tuy nhiên, xu hướng này chỉ là tạm thời trong bối cảnh đặc biệt của năm 2008 với sự tăng chậm lại của khu vực công nghiệp, xây dựng và giá nông lâm thuỷ sản tăng cao. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,99% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,91%; khu vực dịch vụ chiếm 38,1% Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn và giảm 11,4%; khu vực ngoài Nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và tăng 42,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,8% và tăng 46,9%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 Nghìn tỷ đồng Cơ cấu (%) So với cùng kỳ năm trước (%) TỔNG SỐ 637,3 100,0 122,2 Khu vực Nhà nước 184,4 28,9 88,6 Khu vực ngoài Nhà nước 263,0 41,3 142,7 Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 29,8 146,9 Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước đạt 100,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư cả nước, bằng 102,8% kế hoạch năm. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do trung ương quản lý đạt 34,2 nghìn tỷ đồng, bằng 103% kế hoạch, trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 2881,4 tỷ đồng, bằng 172,9%; Bộ Giao thông Vận tải đạt 6612,6 tỷ đồng, bằng 105,3%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đạt 451,1 tỷ đồng, bằng 102,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 1132,5 tỷ đồng, bằng 101,1%; Bộ Công Thương đạt 237,7 tỷ đồng, bằng 100,3%; Bộ Y tế đạt 932 tỷ đồng, bằng 100%; riêng Bộ Xây dựng chỉ đạt 219,9 tỷ đồng, bằng 62,6%. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính thực hiện 66,7 nghìn tỷ đồng, bằng 102,7% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có số vốn thực hiện lớn là: thành phố Hồ Chí Minh đạt 9,9 nghìn tỷ đồng, bằng 112,1% kế hoạch; Hà Nội đạt 6,3 nghìn tỷ đồng, bằng 73,4%; Đà Nẵng đạt 2,6 nghìn tỷ đồng, bằng 108,5%; Bà Rịa-Vũng Tàu đạt 2,1 nghìn tỷ đồng, bằng 104,9%; Nghệ An đạt 1,5 nghìn tỷ đồng, bằng 107,1%; Hải Phòng đạt 1458,5 tỷ đồng, bằng 103,5%; Bình Dương đạt 1291,8 tỷ đồng, bằng 104,6%; Lâm Đồng đạt 1200,9 tỷ đồng, bằng 152,3%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm nay tiếp tục đạt kết quả cao. Trong tháng 12/2008, cả nước có 112 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới với tổng số vốn đăng ký 1254 triệu USD, nâng tổng số dự án cấp phép từ đầu năm đến 19/12/2008 lên 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Bình quân vốn đăng ký của một dự án năm nay đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân 12,5 triệu USD/dự án của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm 2008, các dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự án và 51,7% về vốn đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án được cấp giấy phép mới năm nay tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 252,1 triệu USD, chiếm 0,4%. Năm 2008 cả nước có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án được cấp phép mới, trong đó Ninh Thuận có số vốn đăng ký dẫn đầu với 9,8 tỷ USD, chiếm 16,3% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Bà Rịa-Vũng Tàu 9,3 tỷ USD, chiếm 15,5%; thành phố Hồ Chí Minh 8,9 tỷ USD, chiếm 14,7%; Hà Tĩnh 7,9 tỷ USD, chiếm 13,1%; Thanh Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 10,3%; Phú Yên 4,3 tỷ USD, chiếm 7,2%; Hà Nội 3,1 tỷ USD, chiếm 5,1%. Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Ma-lai-xi-a là nhà đầu tư lớn nhất với 14,9 tỷ USD, chiếm 24,8% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Đài Loan 8,6 tỷ USD, chiếm 14,3%; Nhật Bản 7,3 tỷ USD, chiếm 12,1%; Xin-ga-po 4,5 tỷ USD, chiếm 7,4%; Bru-nây 4,4 tỷ USD, chiếm 7,3%; Ca-na-đa 4,2 tỷ USD, chiếm 7%. 2009 Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%. Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2009 có thể đưa ra một số nhận xét, đánh giá như sau: - Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành công lớn. - Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng 6,04%, cao hơn tốc độ tăng 5,98% của quý III/2008 và quý IV/2009 tăng 6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89% của quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề ra, được triển khai trong năm vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả. Tổng sản phẩm trong nước năm 2009 theo giá so sánh 1994 2008 2009 Tổng số 6,18 5,32 A. Phân theo khu vực kinh tế Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 4,07 1,83 Công nghiệp và xây dựng 6,11 5,52 Dịch vụ 7,18 6,63 B. Phân theo quý trong năm Qúy I 7,49 3,14 Qúy II 5,72 4,46 Qúy III 5,98 6,04 Qúy IV 5,89 6,90 Với mục tiêu ưu tiên là ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong năm qua Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,8% tổng vốn và tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và giảm 5,8%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 Nghìn tỷ đồng Cơ cấu (%) So với cùng kỳ năm trước (%) TỔNG SỐ 704,2 100,0 115,3 Khu vực Nhà nước 245,0 34,8 140,5 Khu vực ngoài Nhà nước 278,0 39,5 113,9 Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 181,2 25,7 94,2 Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước đạt 153,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, bằng 106,8% kế hoạch năm. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do Trung ương quản lý đạt 63,9 nghìn tỷ đồng, bằng 112,8% kế hoạch, trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 3715,9 tỷ đồng, bằng 125,8%; Bộ Giao thông Vận tải đạt 10924,6 tỷ đồng, bằng 113,9%; Bộ Công Thương đạt 252,2 tỷ đồng, bằng 106%; Bộ Y tế đạt 1065,1 tỷ đồng, bằng 105,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 787,2 tỷ đồng, bằng 102,5%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đạt 541,1 tỷ đồng, bằng 100,5%; riêng Bộ Xây dựng mới đạt 828,5 tỷ đồng, bằng 91,9% kế hoạch năm 2009. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính thực hiện 89,9 nghìn tỷ đồng, bằng 102,9% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có số vốn thực hiện lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh đạt 14 nghìn tỷ đồng, bằng 101,4% kế hoạch; Hà Nội đạt 10,7 nghìn tỷ đồng, bằng 91,7%; Đà Nẵng đạt 3,8 nghìn tỷ đồng, bằng 113,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, bằng 96,5%; Bình Dương đạt 2,4 nghìn tỷ đồng, bằng 106,4%; Thừa Thiên - Huế đạt 2,3 nghìn tỷ đồng, bằng 214%; Hà Tĩnh đạt 2,2 nghìn tỷ đồng, bằng 72,2%; Hải Phòng đạt 2 nghìn tỷ đồng bằng 117,8%. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2009 đạt thấp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 15/12/2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 21,5 tỷ USD, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm: Vốn đăng ký của 839 dự án được cấp phép mới đạt 16,3 tỷ USD (giảm 46,1% về số dự án và giảm 75,4% về vốn); vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5,1 tỷ USD, giảm 1,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2009 ước tính đạt 10 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2008. Trong năm 2009, lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 7,4 tỷ USD vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới, chiếm 45,1% tổng vốn đăng ký mới; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống 5 tỷ USD, chiếm 30,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo với 2,2 tỷ USD, chiếm 13,6%. Trong năm 2009, có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án được cấp phép mới, trong đó một số nhà đầu tư lớn là: Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký mới là 5,9 tỷ USD chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký mới; Đảo Cay-man 2 tỷ USD, chiếm 12,3%; Sa-moa 1,7 tỷ USD, chiếm 10,4%; Hàn Quốc 1,6 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 9,8%. Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đăng ký tăng thêm năm 2009, Hoa Kỳ dẫn đầu với 3,9 tỷ USD, chiếm 75% tổng vốn đăng ký tăng thêm. Năm 2009 cả nước có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Quảng Nam có vốn đăng ký dẫn đầu với 4,2 tỷ USD, chiếm 25,4% tổng vốn đăng ký mới; Bà Rịa-Vũng Tàu 2,9 tỷ USD, chiếm 17,5%; Đồng Nai 2,3 tỷ USD, chiếm 14,1%; Bình Dương 2,2 tỷ USD, chiếm 13,2%; Phú Yên 1,7 tỷ USD, chiếm 10,3% 2010 Kinh tế nước ta quý I/2010 đạt mức tăng trưởng khá, hầu hết các ngành, lĩnh vực đang phục hồi rõ rệt. Tuy nhiên, một số cân đối vĩ mô có biểu hiện chưa ổn định. Trước tình hình đó, ngày 06/4/2010, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 18/NQ-CP về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010. Các ngành, các cấp, các địa phương đã và đang khẩn trương xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện ngay các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất theo hướng đảm bảo chất lượng và hiệu quả, ngăn ngừa lạm phát cao Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện tháng 4/2010 ước tính đạt 10,4 nghìn tỷ đồng, bằng 8,3% kế hoạch năm, bao gồm: Vốn trung ương đạt 3 nghìn tỷ đồng, bằng 8,1%; vốn địa phương đạt 7,4 nghìn tỷ đồng, bằng 8,4%. Tính chung 4 tháng đầu năm, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện đạt 33,4 nghìn tỷ đồng, bằng 26,7% kế hoạch năm, gồm có: - Vốn trung ương quản lý đạt 10,1 nghìn tỷ đồng, bằng 27% kế hoạch năm, trong đó: Vốn đầu tư thực hiện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đạt 1208 tỷ đồng, bằng 37,9% kế hoạch năm; Bộ Xây dựng 314 tỷ đồng, bằng 31,7%; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch 152 tỷ đồng, bằng 25,9%; Bộ Công Thương 1040 tỷ đồng, bằng 25,7%; Bộ Giao thông Vận tải 1687 tỷ đồng, bằng 25,4%; Bộ Y tế 285 tỷ đồng, bằng 22,7%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 218,3 tỷ đồng, bằng 21,4% kế hoạch năm. - Vốn địa phương quản lý đạt 23,3 nghìn tỷ đồng, bằng 26,6% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có tiến độ thực hiện nhanh là: Ninh Bình đạt 871,7 tỷ đồng, bằng 54,1% kế hoạch năm; Hoà Bình 490 tỷ đồng, bằng 46,3%; Đà Nẵng 1800 tỷ đồng, bằng 43,6%; Hải Phòng 670 tỷ đồng, bằng 40,4%; Bắc Ninh 460 tỷ đồng, bằng 38,1%. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/4/2010 đạt 5,9 tỷ USD, bằng 74,3% cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 263 dự án được cấp phép mới đạt 5,6 tỷ USD, tuy giảm 19,6% về số dự án nhưng tăng 58,5% về số vốn so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bổ sung của 92 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 325 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đầu năm ước tính đạt 3,4 tỷ USD, tăng 36% so với cùng kỳ năm 2009. Trong 4 tháng đầu năm, cả nước có 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Quảng Ninh có số vốn đăng ký lớn nhất với 2147 triệu USD, chiếm 38,3% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Nghệ An 1003,7 triệu USD, chiếm 17,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu 902,6 triệu USD, chiếm 16,1%; thành phố Hồ Chí Minh 445,2 triệu USD, chiếm 8%; Quảng Ngãi 340 triệu USD, chiếm 6,1%; Hà Tĩnh 157,4 triệu USD, chiếm 2,8%. Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam 4 tháng đầu năm, Hà Lan là nhà đầu tư lớn nhất với 2147 triệu USD, chiếm 38,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Nhật Bản 1047,2 triệu USD, chiếm 18,7%; Hoa Kỳ 961 triệu USD, chiếm 17,2%; Hàn Quốc 692 triệu USD, chiếm 12,4%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 204,5 triệu USD, chiếm 3,7%; Xin-ga-po 147,1 triệu USD, chiếm 2,6%; Đài Loan 146,1 triệu USD, chiếm 2,6%... Nguồn: Cổng thông tin kinh tế - VNEP 2.2 Tác động của Đầu tư nước ngoài đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong hơn 20 năm qua: Trong suốt 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã không ngừng được mở rộng và phát triển, trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế, góp phần tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Tính đến nay, cả nước có khoảng 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 98 tỷ USD. Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ USD. Riêng năm 2007, thu hút ĐTNN đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, gần bằng tổng mức đầu tư nước ngoài của 5 năm 2001 – 2005 và chiếm tới gần 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất, chiếm 61% tổng vốn đăng ký, lĩnh vực dịch vụ chiếm 34,4% tổng vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 4,6 % tổng vốn ĐTNN đăng ký. Đến nay, ĐTNN đã trải rộng khắp 64 tỉnh, thành phố cả nước, trong đó tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế – xã hội chung và các vùng phụ cận. Vùng trọng kinh tế điểm phía Bắc thu hút trên 24 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 27% tổng vốn đăng ký cả nước; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút 44,87 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 54% tổng vốn đăng ký; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút được 8,6 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước. Sau 20 năm mở cửa thu hút ĐTNN, hiện có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó, các nước và vùng lãnh thổ thuộc châu á chiếm 69% tổng vốn đầu tư đăng ký; thuộc châu Âu chiếm 24% (riêng EU chiếm 10%); các nước châu Mỹ chiếm 5% (riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%). Hiện có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư đăng ký trên 1 tỷ USD tại Việt Nam. Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký đạt trên 13 tỷ USD, thứ 2 là Singapore đạt 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài Loan đạt 10,5 tỷ USD, thứ 4 là Nhật Bản đạt trên 9 tỷ USD, thứ năm là BritishVirginIslands gần 8 tỷ USD. Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực nói trên có khoảng 50% dự án triển khai với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 30 tỷ USD, chiếm 36,1% tổng vốn đăng ký, trong đó, bên nước ngoài chiếm 89,5% tổng vốn thực hiện. Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, Singapore đứng thứ 2 (đạt 3,8 tỷ USD), Đài Loan đứng thứ 4 (đạt 3 tỷ USD), Hàn Quốc đứng thứ 4 (đạt 2,7 tỷ USD). Trong 20 năm qua, ĐTNN đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển dịch từ một nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường. Đó là: Thứ nhất, ĐTNN đã đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế: từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP trong giai đoạn 1991 – 1995, khu vực có vốn ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm 1996 – 2000. Trong thời kỳ 2001 – 2005, tỷ trọng trên đạt trung bình là 14,6% (năm 2005 khoảng 15,5% GDP) và trong hai năm 2006 và 2007 tỷ trọng này đạt 17% GDP. Từ giá trị doanh thu đạt 4,1% tỷ USD của 5 năm 1991 – 1995 đã tăng gấp 6,5 lần trong giai đoạn 1996 – 2000, tổng giá trị doanh thu. Giai đoạn 2001 – 2005 tổng giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD, tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm trước. Trong hai năm 2006, 2007 tổng giá trị doanh thu đạt 69 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu (không kể dầu thô) của khu vực có vốn ĐTNN cũng gia tăng nhanh chóng, từ mức 1,2 tỷ USD của thời kỳ 1991 – 1995 đã tăng gấp hơn 8 lần trong giai đoạn 1996 – 2000. Trong 5 năm 2001 – 2005, giá trị xuất khẩu đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước. Năm 2006 giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt (kể cả dầu thô) đạt 22,6 tỷ USD, chiếm trên 56,5 tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2007, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 19,7 triệu USD và đạt 27,3 tỷ USD nếu tính cả dầu thô, chiếm 56,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Thứ hai, ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển toàn xã hội và tăng trưởng kinh tế đất nước: Trong thời kỳ 1991 -1995 tỷ trọng ĐTNN trong đầu tư xã hội chiếm 30%, là mức cao nhất cho đến nay. Giai đoạn 1996 – 2000 chiếm 23,4%. Giai đoạn 2001 – 2005 và hai năm 2006 – 2007 chiếm khoảng 16,7%. Có thể lý giải điều này do sự lớn mạnh của khu vực đầu tư tư nhân trong nước kể từ Quốc hội ban hành Luật Doanh nghiệp (năm 1999 và năm 2005). Thứ ba, ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp: Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN giai đoạn 1996 – 2000 cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004. Đến nay, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN chiếm khoảng 35% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Đặc biệt ở một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc…) tỷ lệ này đạt đến 65-70%. ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới. ĐTNN đã kích thích lĩnh vực dịch vụ Việt Nam nâng cao chất lượng và phát triển nhanh hơn, nhất là trong các ngành viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản, giao thông vận tải tài chính, ngân hàng… Thứ tư, ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy… Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn ĐTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. Thứ năm, tác động lan toả của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế: Thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN đến các thành phần khác của nền kinh tế. Sự lan toả này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Thứ sáu, ĐTNN đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô, đồng thời góp phần quan trọng trong tạo ra việc làm cho người lao động: Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô này đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm (2001-2005), thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt gần đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng năm 2007, nguồn thu ngân sách của khu vực ĐTNN vượt 1,5 tỷ USD. Ngoài ra, ĐTNN cũng tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc, nguyên vật liệu… Thứ bảy, ĐTNN góp phần giúp Việt Nam tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996 – 2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007. Thứ tám, ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới của Việt Nam: ĐTNN đã góp phần quan trọng và tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy mạnh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Đồng thời, đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà ĐTNN, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện. Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, hoạt động ĐTNN tại Việt Nam trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại cần giải quyết. Vốn ĐTNN tăng nhanh, đặc biệt là trong các năm trong năm 2006 và 2007, vốn thực hiện tăng qua các năm nhưng chậm nên khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện ngày càng giãn ra; ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn thấp; đầu tư từ các nước phát triển có thể mạnh về công nghệ như Hoa Kỳ, một số quốc gia thuộc EU… tăng chậm; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN còn hạn chế; đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao tuy ngày càng gia tăng nhưng vẫn chậm… Điều này đòi hỏi nước ta cần phải có các giải pháp tổng thể để khắc phục dần những tồn tại nêu trên trong thời gian tới. 2.3 Những tồn tại về tình hình đầu tư trong quá phát triển kinh tế của Việt Nam  Tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí… đã và đang tác động mạnh tới hiệu quả đầu tư của nhiều dự án hiện nay, và nếu tình hình này không được cải thiện sẽ không chỉ ảnh hưởng tới việc thu hút đầu tư mà cả kêu gọi tài trợ, viện trợ. - Vốn đầu tư tăng nhưng hấp thụ vốn thấp: Theo báo cáo nghiên cứu đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 - 2010, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã nhận định: Mục tiêu kế hoạch về đầu tư cho 3 năm 2006 - 2008 chắc chắn sẽ hoàn thành vượt mức cả về tổng vốn đầu tư lẫn tính theo GDP. Điều này có nghĩa là nền kinh tế đang ngày càng dựa nhiều hơn vào đầu tư, chứ không dựa vào tăng thêm số người lao động, nâng cao năng suất để tăng trưởng. Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước vẫn là nguồn lực lớn nhất. Đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm tỷ trọng tăng dần từ 23,3% lên 29,3% năm 2007. Đáng chú ý là thời gian gần đây các tập đoàn kinh tế và nhiều DNNN khác có xu thế mở rộng đầu tư kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Trong khi đó, công tác giám sát, nhất là về tài chính cũng như năng lực quản trị rủi ro của các tập đoàn đó không theo kịp. Một vấn đề dễ nhận thấy là tăng trưởng đầu tư trong thời gian gần đây chủ yếu dựa vào khu vực FDI. Kể từ năm 2006 đến nay, dòng FDI vào Việt Nam tăng đột biến, hàng năm luôn đạt kỷ lục so với các năm trước. Năm 2007, FDI đăng ký đạt 21,3 tỷ USD, vậy mà riêng 9 tháng đầu năm 2008 con số này đã lên tới 57,1 tỷ USD, cao gấp 2,7 lần FDI cả năm 2007. Tương tự, vốn FDI thực hiện năm 2007 đạt trên 129,3 nghìn tỷ VND, chiếm 24,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn FDI thực hiện năm 2008 ước đạt 143 nghìn tỷ, cao hơn rất nhiều so với các năm trước. Điều đáng nói là chính dòng vốn FDI tăng đột biến đã làm bộc lộ khả năng hấp thụ vốn chưa cao của nền kinh tế, mà chủ yếu là do yếu kém về thể chế, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực có kỹ năng. Đây đang là những “nút thắt cổ chai” đối với việc triển khai các dự án FDI. Hiệu quả đầu tư thấp: Không khó để nhận ra rằng hiệu quả đầu tư các dự án hiện nay ở Việt Nam là thấp, đặc biệt là hiệu quả vốn đầu tư của khu vực nhà nước, trong khi đó khu vực này đang chiếm gần nửa tổng đầu tư toàn xã hội (41 - 46%). Tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, sử dụng vốn kém hiệu quả, chậm tiến độ thi công hoặc nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản… chưa được cải thiện Điều đó có nghĩa là để tạo ra cùng một năng lực sản xuất, nhà nước phải bỏ ra nhiều kinh phí hơn và nhập khẩu nhiều đầu vào cho đầu tư hơn. Hiệu quả thấp trong đầu tư công đã được xác định là một trong những lý do chủ yếu dẫn tới lạm phát cao trong hai năm qua. Đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và ngoài nhà nước, các dự án đầu tư không hiệu quả là các dự án không tận dụng được lợi thế của nền kinh tế, không phù hợp với lợi ích quốc gia. Tuy nhiên đó là những yếu tố mang tính khách quan, còn yếu tố mang tính chủ quan của tình trạng yếu kém, thiếu hiệu quả trong đầu tư và xây dựng chủ yếu là do công tác quy hoạch, vấn đề phân cấp đầu tư và công tác quản lý, giám sát, thanh kiểm tra. Bộ KH-ĐT cho biết, chất lượng công tác quy hoạch ở Việt Nam chưa cao, chưa có tầm nhìn dài hạn. Quy hoạch thường thiếu sự gắn kết giữa các ngành, chồng chéo và thiếu đồng bộ. Đặc biệt, lập quy hoạch và thực hiện quy hoạch ở ta không liên quan đến nhau. Trong phân cấp đầu tư thì năng lực quản lý của cơ quan được phân cấp, quyền gắn với trách nhiệm được phân cấp và chế tài kiểm tra giám sát là ba điều kiện tiên quyết để phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng có hiệu quả thì đã bị xem nhẹ hoặc lãng quên. Cả khi trách nhiệm về việc ra quyết định phê duyệt dự án sai cũng ít khi bị truy cứu trách nhiệm và có biện pháp xử lý thích đáng. Trong thời gian gần đây, phân cấp quản lý đầu tư làm nảy sinh xu hướng muốn thu hút nhiều vốn FDI hơn vì đó thường được coi là thành tích của địa phương, các tỉnh cũng kỳ vọng là các dự án sẽ đóng góp nhiều cho ngân sách tỉnh mình. Tuy nhiên, theo một con số được công bố trên báo chí, đến năm 2007, khoảng 70% nhà đầu tư ở TPHCM báo cáo lỗ. Hiệu quả đầu tư thấp còn có nguyên nhân rất lớn từ phía công tác quản lý, thanh tra, giám sát trong đầu tư và xây dựng ở các ngành, các cấp rất yếu kém. Bộ KH-ĐT cũng thừa nhận rằng phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ quản lý đầu tư và xây dựng còn kém, thường lợi dụng những kẽ hở của cơ chế chính sách, lợi dụng chức quyền, vị trí công tác để trục lợi bất chính nhưng lại chưa được xử lý triệt để. Rõ ràng, với tình trạng đó, chúng ta không thể kỳ vọng vẫn trở thành một nước có môi trường đầu tư tốt và kêu gọi được nhiều các nguồn tài trợ, viện trợ. Lời giải cho bài toán này có lẽ phải bắt đầu từ việc xem lại cơ chế chính sách trong quản lý đầu tư và tính nghiêm minh trong việc thực thi pháp luật. Rào cản trong lĩnh vực đầu tư Trong quá trình đổi mới, vốn đầu tư của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ từ năm 1996 đến nay ở cả quy mô tuyệt đối và tỷ lệ so với GDP; năm 1996 tỷ lệ vốn đầu tư chỉ chiếm 32,1%, đến năm 2004 tổng mức đầu tư toàn xã hội đã chiếm 36,3% GDP - Đây là mức cao so với nhiều quốc gia khác. Điều này chứng minh rằng tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu do tăng mạnh mức đầu tư. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn còn những rào cản cho tăng trưởng của nền kinh tế và cho chính lĩnh vực đầu tư. Sự khép kín trong lĩnh vực đầu tư từ ngân sách nhà nước Một trong những rào cản lớn trong lĩnh vực đầu tư hiện nay đó là tình trạng khép kín trong đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn nhà nước, việc tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh tại các bộ, các ngành, các địa phương chưa rõ ràng, rành mạch. Như vậy sẽ tạo rào cản đối với các thành phần kinh tế khác nhau tham gia đầu tư, hạn chế tính minh bạch và công khai trong hoạt động đầu tư. Từ đó nẩy sinh tiêu cực và là nguồn gốc phát sinh thất thoát và lãng phí trong đầu tư từ nguồn vốn nhà nước. Tính khép kín trong đầu tư hiện nay thể hiện từ khâu quy hoạch cho đến công tác chuẩn bị, thẩm định dự án, ban hành các định mức trong đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thi công, giám sát thi công. Hiện nay công tác quy hoạch chưa tốt, thiếu tính khác quan và khoa học, ảnh hưởng đến chủ trương đầu tư chung. Trong khi đó việc phê duyệt các dự án phụ thuộc vào các bản quy hoạch này. Chính vì vậy dẫn đến 2 vấn đề: một là: Các tổng công ty doanh nhiệp nhà nước dùng quy hoạch để xin vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc xin các khoản ưu đãi khác; hai là: nhiều doanh nghiệp không thực hiện được kế hoạch đầu tư của mình do không đúng quy hoạch. Tính khép kín và cục bộ trong đầu tư cũng dẫn đến việc lồng ghép các quy hoạch như quy hoạch ngành, quy hoạch vùng lãnh thổ cũng như quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng,... còn nhiều bất cập. Sự gắn kết quy hoạch của từng vùng và quy hoạch chung của cả nước chưa tốt, dẫn đến sự bất đồng quan điểm giữa các bộ, ngành và địa phương. Không ít dự án quy hoạch đã được xác định nhưng thiếu căn cứ kinh tế xã hội tin cậy như ngành điện, xi măng. Nhiều dự án quy hoạch kết cấu hạ tầng chưa có tầm nhìn xa, như giao thông, cảng biển, sân bay... Một số cảng và sân bay xây dựng quá gần nhau, có cảng vừa xây xong đã có kế hoạch di dời. Bệnh sính thành tích cũng dẫn đến việc kế hoạch lập ra mang tính chủ quan. Vấn đề này thực ra không chỉ là rào cản đối với quá trình đầu tư, mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng. Bởi vì, sự khép kín trong quy hoạch và trong chuẩn bị thực hiện đầu tư chính là nguồn gốc của tiêu cực và hậu quả là sự thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Đầu tư dàn trải và nợ đọng vốn đầu tư Tình trạng dàn trải đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước của các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố đang là một vấn đề bức xúc trong lĩnh vực đầu tư, nó đã tạo ra một rào cản lớn cho sự phát huy hiện quả đầu tư, năng lực sản xuất. Tình trạng này tích tụ nhiều năm, gây lãng phí cực lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, không được khắc phục mà có chiều hướng gia tăng. Biểu hiện là số dự án B,C (do các bộ, ngành, địa phương quản lý) tăng dần qua các năm; năm 2002 tăng 675 dự án so với năm 2001; năm 2003 tăng 2.978 dự án so với 2002 và năm 2004 tăng 1759 dự án so với 2003. Trong khi bình quân vốn bố trí cho các dự án qua các năm có xu hướng giảm dần: Năm 2001 là 5,33 tỷ đồng/dự án; năm 2002 còn 5,3 tỷ đồng/dự án; năm 2003 là 4,43 tỷ đồng/dự án; năm 2004 còn 4,33 tỷ đồng/dự án. Việc đầu tư dàn trải chính là rào cản ảnh hưởng tới thời gian thi công công trình, làm cho nhiều dự án dở dang, chậm đưa vào sử dụng nên không phát huy hiệu quả đầu tư. Đến năm 2004, cả nước có 1.430 dự án nhóm B và C vượt quá thời gian quy định (Trung ương 255 dự án và địa phương 1.175 dự án). Trong đó 250 dự án nhóm B kéo dài quá 4 năm, 1.180 dự án nhóm C kéo dài quá 2 năm. Theo kết luận của Uỷ ban Thường vụ quốc hội, số dự án, công trình sử dụng vốn đầu tư trong cân đối ngân sách nhà nước tăng lên qua các năm không tương xứng với tốc độ tăng của vốn đầu tư; nhiều dự án, công trình được phê duyệt không dựa vào khả năng cân đối nguồn vốn, chưa đủ thủ tục cũng được ghi vào kế hoạch cấp vốn; việc triển khai thực hiện dự án, công trình kéo dài, không theo kế hoạch, khối lượng đầu tư dở dang nhiều (năm 2002, số dự án đầu tư dở dang chiếm tới 67,5% và năm 2003 chiếm 63,1% tổng số dự án được kiểm tra). Bên cạnh vấn đề đầu tư dàn trải, tình trạng nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng được xem là một rào cản rất lớn đối với nhiều bộ, ngành và địa phương trong thời gian tới; vấn đề nợ đọng tạo ra tình trạng dây dưa giữa nhiều chủ thể khác nhau trong nền kinh tế; chủ đầu tư nợ nhà thầu, nhà thầu nợ ngân hàng, nợ thuế nhà nước, nợ doanh nghiệp cung ứng đầu vào, nợ lương công nhân,... (hiện nay số nợ phải thu của doanh nghiệp nhà nước bằng 51% tổng số vốn và 23% tổng doanh thu của các DNNN)... Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng số nợ vốn đầu tư xây dựng cơ bản có liên quan đến nguồn vốn ngân sách đến hết năm 2003 là 11.000 tỷ đồng; trong đó, khối các bộ ngành trung ương nợ 3500 tỷ đồng; Bộ giao thông vận tải và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có số nợ vốn đầu tư xây dựng cơ bản lớn nhất. Ngoài tình trạng nợ đọng vốn đầu tư có liên quan đến nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nợ đọng lớn và kéo dài còn xẩy ra ở các dự án, công trình sử dụng các nguồn vốn khác. Tính đến 31/12/2003 đã có 1.551 dự án nợ quá hạn vốn vay của Quỹ Hỗ trợ phát triển với tổng số nợ trên 1.185 tỷ đồng, số lãi treo của các dự án này trên 950 tỷ đồng. Đầu tư dàn trải và nợ đọng vốn đầu tư là hai rào cản có quan hệ với nhau - chính vì bố trí dàn trải nên nợ đọng trong đầu tư xây dựng. Điều này chính là biểu hiện của tiêu cực. - Rào cản đối với đầu tư nước ngoài * Sự cạnh tranh về thu hút FDI ngày càng gay gắt trên thế giới và khu vực Với xu hướng toàn cầu hoá đã được định hình, sự cạnh tranh về thu hút FDI trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh dòng chảy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn chưa phục hồi sau 3 năm giảm liên tục, năm 2004 có tăng tuy nhiên chưa đạt ngưỡng của năm 2000, tính chất cạnh tranh thu hút FDI càng trở lên khốc liệt. Các nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển và đang phát triển đều tham gia vào cuộc chạy đua này. Như vậy, có thể thấy xu hướng đầu tư giữa các nước phát triển với nhau vẫn chiếm tỷ trọng lớn (xấp xỉ 70%) trong khi dòng chảy vốn đầu tư vào các nước đang phát chiển chỉ chiếm khoản 30%. Điều này cho thấy sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển sẽ khốc liệt. Thực tế cho thấy, dòng chảy vào các nước đang phát triển đã ít về quy mô nhưng cũng có sự chọn lựa rõ ràng. Khoảng 90% chảy vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Trong đó Trung quốc là một điển hình. Sau khủng hoảng, các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, nhằm cạnh tranh thu hút FDI. Các quốc gia này không chỉ là đối tác mà còn là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam. Bên cạnh đó sự ra nhập WTO của Trung Quốc và khả năng thu hút FDI rất lớn của nước này cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Thời gian qua Việt Nam với những nỗ lực rất cao trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nên đã có kết quả bước đầu, tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng môi trường đầu tư được cải thiện không chỉ được đánh giá về trạng thái trước - sau, mà còn phải đảm bảo tính hấp dẫn với các đối thủ cạnh tranh. Theo ý kiến của một giám đốc đầu tư và thương mại quốc tế của một tập đoàn lớn của Mỹ được công ty tư vấn quốc tế A.T. Kearney chọn trong hơn 1000 ý kiến điều tra về môi trường đầu tư thì: "Đối với thị trường Việt nam, chúng tôi không chắc chắn sẽ đầu tư vào thị trường này trong thời gian tới đây. Đầu tư cho các ngành công nghệ cao, chúng tôi đã có những khoản đầu tư lớn vào Châu Á, nhất là Trung Quốc, Malaysia và Singapore. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chi phí giao dịch cao, công nghệ thông tin tốn kém và Luật Thương mại chưa phát triển là những thách thức đối với chúng tôi". Chính vì vậy mà kết luận của công ty A.T.Kearney là mặc dù Việt Nam có những tiến bộ nhất định trong cải thiện môi trường đầu tư, nhưng chỉ là cải thiện so với họ trước đây, nhưng "Việt Nam không chỉ cần chạy nhanh mà còn phải chạy nhanh hơn các nước khác". Cũng theo kết quả nghiên cứu của công ty này, Việt Nam vẫn nằm trong danh sách 15 nước có thị trường hấp dẫn đầu tư nhất ở thị trường Châu Á, nhưng thứ bậc của Việt Nam vào tháng 9 năm 2004 giảm 4 bậc so với cùng thời năm 2003. Chú ý rằng ý kiến của các công ty Tư vấn tư nhân là rất quan trọng đối với nhà đầu tư. * Môi trường đầu tư kém minh bạch và thiếu nhất quán Rào cản về môi trương đầu tư của Việt Nam trong thời gian tới vẫn là: Khả năng thay đổi và khó tiên liệu về chính sách, thông tin kém minh bạch và công khai, tình trạng tham nhũng, chi phí của một số yếu tố đầu vào như cước viễn thông, điện nước, cước vận tải biển nhìn chung còn cao, dịch vụ cơ sở hạ tầng thấp. Tính nhất quán minh bạch trong chính sách đối với nhà đầu tư là một vấn đề mà các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu. Trong diễn đàn doanh nghiệp tổ chức vào năm 2004, một số nhà đầu tư khá hoang mang về khả năng những dự án khả thi của mình đột nhiên biến thành không khả thi do những thay đổi và không rõ ràng về chính sách. Báo cáo phát triển thế giới nhan đề "Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người" tiến hành điều tra 26000 doanh nghiệp ở 53 quốc gia đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư xếp sự bất định về chính sách là mối quan ngại hàng đầu của họ. Các rủi ro liên quan đến chính sách làm suy giảm nghiêm trọng động lực đầu tư. Báo cáo này đưa ra đánh giá, nâng cao khả năng tiên liệu chính sách có thể làm tăng khả năng thu hút đầu tư mới lên 30%. * Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp vừa thiếu vừa yếu Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp như đào tạo, kế toán, tư vấn thuế và tài chính, mức độ phát triển các dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp có thể được lấy làm thước đo khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ở các nước phát triển, các dịch vụ hỗ trợ phát triển chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm trong nước. Tại Singapore, tỷ lệ các ngành dịch vụ hỗ trợ phát triển chiếm hơn 15% GDP. Sự yếu kém của dịch vụ phát triển tại Việt Nam hiện nay có nhiều nguyên nhân, trong đó có hai nguyên nhân cơ bản là môi trường pháp lý tại Việt Nam chưa thuận lợi cho sự phát triển loại dịch vụ này và tính minh bạch công khai về thông tin trên thị trường còn hạn chế. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhất định trong môi trường pháp lý kinh doanh tại Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn khá nhiều tồn tại cản trở sự phát triển của các dịch vụ này. Cụ thể, vẫn còn nhiều văn bản không phù hợp Luật Doanh nghiệp như Nghị định 87/2002/DN-CP về cung ứng dịch vụ tư vấn; điều kiện tham gia thị trường còn quá cao đối với một số dịch vụ như đào tạo nghề, sở hữu trí tuệ; hướng dẫn đăng ký kinh doanh đối với một số nghề như tư vấn pháp lý, quảng cáo, tư vấn thuế và tài chính... còn thiếu rõ ràng, còn một số cản trở khác như hạn chế mức chi phí cho quảng cáo, hầu như không thừa nhận kết quả kiểm toán của các công ty tư vấn tư nhân..; cách ứng xử chưa phù hợp của các cơ quan đăng ký kinh doanh, chẳng hạn như không thụ lý hồ sơ đăng ký kinh doanh một trong những loại dịch vụ hỗ trợ kinh doanh với lý do là chưa nghe thấy bao giờ. Theo quy định hiện hành, Việt Nam vẫn chưa thừa nhận việc hành nghề tư vấn cá nhân mà yêu cầu các nhà tư vấn cá nhân phải hoạt động trong một tổ chức nào đó. Quy định này làm cho không ít chuyên gia tư vấn có kinh nghiệm và trình độ cao không được sử dụng và được chia sẻ kinh nghiệm dưới dạng tư vấn cá nhân. PHẦN III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ CHO TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 3.1 Giải pháp chung cho đầu tư phát triển Một là, tập trung hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết, góp phần tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn lực của các thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả các loại thị trường (bất động sản, vốn, dịch vụ, lao động và khoa học-công nghệ). Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Hai là, tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa hành chính theo cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý ĐTNN. Ba là, tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước… nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư trong quá trình tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam… Ban hành các chính sách thích hợp nhằm khuyến khích tư nhân, gồm cả doanh nghiệp ĐTNN tham gia tích cực vào đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Bốn là, coi trọng và tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp ĐTNN nói riêng. Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ, tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả; nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật về sở hữu trí tuệ; tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới. Năm là, tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương; triển khai nhanh việc thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm; xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại hiện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này; kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch./. 3.2 Giải pháp thu hút đầu tư vốn đầu tư nước ngoài Thứ nhất, cần sớm có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đất nước dài hạn. Việc thiếu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đất nước một cách đồng bộ và dài hạn (khoảng 50 năm) trong thời gian gần đây đã được cấp, các ngành tổng kết báo cáo là một trong những nguyên nhân rất lớn gây khó khăn, cản trở trong phát triển nói chung, tạo ra những lãng phí trong sử dụng các nguồn, trong đó có cả nguồn vốn ODA và FDI. Nhiều công trình sử dụng vốn ODA dỡ bỏ hoặc chậm trễ thi công vì nhiều nguyên nhân, nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng phát huy hiệu quả thấp vì đồng bộ do chưa có quy hoạch... Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội còn ở tầm ngắn và trung hạn (dài nhất mới chỉ là 20 năm), các quy hoạch còn thếu đồng bộ. Theo chúng tôi, cần phải có sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác xây dựng quy hoạch theo hướng tổng thể (trên phạm vi toàn quốc gia) và dài hạn. Sau khi bản quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tổng thể và dài hạn hoàn thành, Quốc hội nên công bố chúng bằng một đạo luật. Quy hoạch tổng thể sẽ là một định hướng tốt cho công tác vận động vốn ODA và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn FDI. Thứ hai, cần có chiến lược thu hút và sử dụng ODA và FDI trong từng giai đoạn một cách đồng bộ, hợplý, gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đó. Các chiến lược phát triển cụ thể là các bước đi cần thiết để đạt được mục tiêu tổng thể mà kế hoạch dài hạn đã vạch ra. Chiến lược phát triển có thể được thiết kế trong khoảng thời gian 5, 10 hay 20 năm phù hợp với từng ngành, vùng. Trong đó, chiến lược thu hút và sử dụng các nguồn vốn ODA và FDI nên theo hướng: i) Nằm trong tổng thể nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã hội của đất nước; ii) Xác lập được danh mục ưu tiên sử dụng vốn ODA và dự án kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài theo ngành và vùng kinh tế với các khối lượng cần thiết, cụ thể; iii) Đề xuất được định hướng thu hút vốn từ các đối tác quốc tế, trong đó có xác định rõ đối tác chiến lược; iv) Đưa ra được các chính sách và giải pháp ưu tiên và khuyến khích thu hút và sử dụng vốn tương đối ổn định trên nhiều giác độ như miễn giảm thuế, ưu đãi giá thuê đất...; v) Nêu rõ các biện pháp về quản lý và thực hiện trả nợ nước ngoài. Thứ ba, tiếp tục ưu tiên sử dụng vốn ODA cho các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo và y tế. Tăng cường kiểm soát quá trình sử dụng vốn, tránh thất thoát và thường xuyên đánh giá tính hiệu quả xét cả về mặt kinh tế và xã hội của các dự án khi hiệu quả sử dụng vốn ODA cao hơn so với các nguồn tài trợ khác. Trong khâu đàm phán nên xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý vốn vay và nguồn trả nợ. Thứ tư, cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có tác động ngược chiều trở thành các rào cản đầu tư. Thứ năm, cần có biện pháp thiết thực kêu gọi vốn ODA song phương từ các nước có nhiều dự án FDI ở Việt Nam. Khi Việt Nam thoát khỏi nhóm các nước nghèo và kém phát triển, vốn ODA đa phương do các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ sẽ giảm đi nhanh chóng. Do đó, cần có định hướng vận động ODA song phương ngay từ bây giờ, và nên hướng vào các nước có nhiều dự án FDI hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Cần có những giải pháp ưu đãi cho các dự án FDI của các nước tài trợ nhiều vốn ODA cho Việt Nam. Các chính sách này phải được sử dụng thật khéo léo, không để xảy ra hiện tượng các nhà đầu tư quốc tế so bì về tính không công bằng trong chính sách đối Chính phủ Việt Nam. PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO Kinh tế Việt Nam năm 2006, 2007, 2008 Do nhà xuất bản Đại Học Kinh tế Quốc Dân phát hành; Giáo trình phát triển kinh tế phát triển (Sách chuyên khảo dành cho cao học kinh tế) – NXB Lao động – Xã hội; Thời báo kinh tế các số năm 2007, 2008, 2009; Trang báo điện tử kinh tế: Cổng thông tin kinh tế trung ương – VNEP Và scác trang điện tử kinh tế khác: Bộ tài chính, tổng cục thống kê,… Tạp chí kinh tế và dự báo các số năm 2008, Tạp chí Kinh tế và Phát triển các số năm 2007, 2008, 2009

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐỀ TÀI- MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM.doc
Tài liệu liên quan