Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 21
TỈ LỆ TÁI PHÁT CỦA BỆNH NHÂN HẸP ĐỘNG MẠCH NỘI SỌ 
CÓ TRIỆU CHỨNG VỚI ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA TÍCH CỰC 
TRONG VÒNG 3 THÁNG 
Phạm Nguyễn Thành Thái*, Cao Phi Phong** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Nhồi máu não là bệnh lý gây ra bởi tình trạng tắc nghẽn động mạch não cấp tính dẫn đến tình 
trạng suy giảm tức thời dòng máu nuôi tại vùng nhu mô não, chiếm 80–85% các trường hợp đột quỵ. Trên thế 
giới đã có nhiều nghiên cứu về đột quỵ tái phát ở nhóm bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ (ĐMNS). Hẹp động 
mạch nội sọ là một trong các nguyên nhân của đột quỵ thiếu máu não và là cơ thế đột quỵ phổ biến nhất hiện 
nay, nguy cơ đột quỵ hàng năm từ 10 đến 20%, nguy cơ nhiều hơn ở bệnh nhân có độ hẹp cao (70-99%), do đó 
cần có chiến lược phòng ngừa đột quỵ thứ phát hiệu quả. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ nhồi máu não tái phát của bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ có triệu 
chứng với điều trị nội khoa tích cực trong vòng 3 tháng. Tìm các yếu tố liên quan đến nhồi máu não tái phát của 
bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ có triệu chứng với điều trị nội khoa tích cực trong vòng 3 tháng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 256 người bệnh 
hẹp động mạch nội sọ có triệu chứng với điều trị nội khoa tích cực trong vòng 3 tháng từ tháng 8/2017 đến 
tháng 5/2018. 
Kết quả: Tỉ lệ nhồi máu não tái phát là 11,3% (29/256). Có 5 bệnh nhân tử vong, 2 bệnh nhân bị xuất huyết 
não và 3 bệnh nhân bị xuất huyết tiêu hóa. Nhồi máu não tái phát có liên quan đến nơi cư trú và đường huyết 
sau khi phân tích đa biến. 
Kết luận: Tỉ lệ nhồi máu não tái phát còn tương đối ở bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ mặc dù đã được điều 
trị nội khoa tích cực. Do đó tất cả bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ có triệu chứng cần có thái độ tích cực từ phía 
nhân viên y tế, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân trong điều trị thuốc, thay đổi lối sống. 
Từ khóa: nhồi máu não tái phát, hẹp động mạch nội sọ có triệu chứng 
ABSTRACT 
THE PREVALENCE OF RECURRENT CEREBRAL INFARCTION 
OF INTRACRANIAL ARTERY STENOSIS PATIENTS WITH MEDICA TREATMENT 
Pham Nguyen Thanh Thai, Cao Phi Phong 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 21-27 
Background: Cerebral infarction is the largest group (80-85%) and is followed by primary intracerebral 
haemorrhage and subarachnoid haemorrhage. Among these hospitalizations, stroke/TIA represented costly, but 
potentially preventable, complications. Intracranial artery stenosis is a common cause of cerebral infarction. 
Patients with at least 70% stenosis of a major intracranial artery had an increased risk of recurrent stroke in the 
territory of the stenosis compared with patients with 50–69%, preventive strategies are needed. 
Objectives: To estimate the prevalence of recurrent cerebral infarction of intracranial artery stenosis 
patients with medical treatment in 3 months. To determine factors related to the prevalence of recurrent cerebral 
infarction of intracranial artery stenosis patients with medical treatment in 3 months. 
*Bệnh viện Nhân dân 115 **Bộ môn Thần kinh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS CK2. Phạm Nguyễn Thành Thái ĐT: 0918439902 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 22
Method: A cross-sectional study was conducted from August 2017 to May 2018 in 256 intracranial artery 
stenosis patients with medical treatment in Nhan dan 115 hospital, Ho Chi Minh City. 
Results: The prevalence of recurrent cerebral infarction of intracranial artery stenosis patients with medical 
treatment was 11.3% (29/256). Multivariate regression analysis yielded living’s location and glucose’s level are 
independent predictors for recurrent cerebral infarction. 
Conclusions: The prevalence of recurrent cerebral infarction of intracranial artery stenosis patients with 
medical treatment was relatively significant, and further multicenter studies are needed. 
Keyword: recurrent cerebral infarction, intracranial artery stenosis patients 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhồi máu não là bệnh lý gây ra bởi tình 
trạng tắc nghẽn động mạch não cấp tính dẫn đến 
tình trạng suy giảm tức thời dòng máu nuôi tại 
vùng nhu mô não, chiếm 80–85% các trường hợp 
đột quỵ, bởi đây là căn bệnh phổ biến, mang tính 
toàn cầu, có tỉ lệ tử vong cao, để lại nhiều di 
chứng nặng nề cả về thể xác lẫn tinh thần, thực 
sự là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Chính vì 
vậy, dự phòng đột quỵ, bao gồm cả đột quỵ tái 
phát mới mang lại nhiều lợi ích hơn(2,10,12). 
Hẹp động mạch nội sọ (ĐMNS) là một trong 
các nguyên nhân của đột quỵ thiếu máu não và 
là cơ thế đột quỵ phổ biến nhất hiện nay(9). Các 
yếu tố nguy cơ quan trọng của hẹp ĐMNS bao 
gồm tuổi, tăng huyết áp, đái tháo đường. Bệnh 
xơ vữa động mạch nội sọ có nguy cơ đột quỵ 
hàng năm từ 10 đến 20%, nguy cơ nhiều hơn ở 
bệnh nhân có độ hẹp cao (70-99)(4). 
Ở Việt Nam, đã có nhiều tiến bộ đạt được 
trong chẩn đoán, điều trị, dự phòng nhồi máu 
não nhờ hiểu rõ những yếu tố nguy cơ, cơ chế 
bệnh sinh. Nhưng thực tế vẫn còn nhiều vấn đề 
mà chúng ta cần phải quan tâm như: tỉ lệ tái phát 
và yếu tố nguy cơ liên quan tái phát. Vì vậy 
nhận diện sớm và chẩn đoán nhồi máu não là rất 
quan trọng để bắt đầu điều trị nội khoa tích cực 
phù hợp để phòng ngừa tái phát(3). 
Tại Khoa Bệnh lý Mạch máu não bệnh viện 
Nhân dân 115 theo nghiên cứu sổ bộ RES-Q từ 
tháng 10/2017 đến 12/2017 nguyên nhân do bệnh 
lý mạch máu lớn chiếm tỷ lệ 15%. Đến nay hàng 
ngày chúng tôi vẫn còn gặp đáng kể những 
trường hợp tái phát ở bệnh nhân có hẹp ĐMNS. 
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỉ lệ 
nhồi máu não tái phát và tìm các yếu tố liên 
quan đến nhồi máu não tái phát của bệnh nhân 
hẹp ĐMNS có triệu chứng với điều trị nội khoa 
tích cực trong vòng 3 tháng. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỉ lệ nhồi máu não tái phát của bệnh 
nhân hẹp ĐMNS có triệu chứng với điều trị nội 
khoa tích cực trong vòng 3 tháng. 
Tìm các yếu tố liên quan đến nhồi máu não 
tái phát của bệnh nhân hẹp ĐMNS có triệu 
chứng với điều trị nội khoa tích cực trong 
vòng 3 tháng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
256 bệnh nhân hẹp ĐMNS có triệu chứng 
(nhồi máu não và cơn thoáng thiếu máu não) 
nhập viện khoa bệnh lý mạch máu não Bệnh 
viện nhân dân 115 theo dõi điều trị nội khoa tích 
cực trong vòng 3 tháng kể từ ngày khởi 
phát bệnh. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Bệnh nhân hẹp ĐMNS có triệu chứng nhập 
viện Khoa Bệnh lý Mạch máu não Bệnh viện 
nhân dân 115 theo dõi điều trị trong vòng 3 
tháng kể từ ngày khởi phát bệnh, có triệu chứng 
bao gồm: 
Nhồi máu não hoặc cơn thiếu máu não 
thoáng qua. 
Vị trí hẹp ĐMNS: ĐM cảnh trong đoạn trong 
sọ, ĐM não trước, ĐM não giữa, ĐM thân nền, 
ĐM đốt sống. 
Mức độ hẹp: ≥50% đến 99%. 
Điều trị nội khoa tích cực: 
Điều trị 1: Kháng kết tập tiểu cầu kép + Statin 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 23
liều cao. 
Hoặc Điều trị 2: Kháng kết tập tiểu cầu kép + 
Statin liều thấp. 
Hoặc Điều trị 3: Kháng kết tập tiểu cầu đơn + 
Statin liều cao. 
Hoặc Điều trị 4: Kháng kết tập tiểu cầu đơn + 
Statin liều thấp. 
Bệnh nhân hoặc gia đình đồng ý tham gia 
nghiên cứu. 
Tiêu chí loại ra 
Bệnh nhân xuất huyết não, dị dạng mạch 
máu não, phình động mạch não. 
Bệnh nhân bị bệnh van tim (hẹp van 2 lá, van 
tim nhân tạo, van tim sinh học), rung nhĩ, cuồng 
nhĩ, bệnh tim bẩm sinh, bệnh cơ tim dãn nở. 
Bệnh kết hợp nặng như ung thư, xơ gan, tâm 
thần, thiểu năng trí tuệ. 
Phương pháp nghiên cứu 
Tất cả các bệnh nhân ĐMNS có triệu chứng 
nhập viện Khoa Bệnh lý Mạch máu não Bệnh 
viện nhân dân 115 được giới thiệu vào nghiên 
cứu và theo dõi điều trị nội khoa tích cực trong 
vòng 3 tháng kể từ ngày nhập viện, sử dụng bộ 
câu hỏi tự điền để ghi nhận số liệu. 
KẾT QUẢ 
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 63,24 
± 13,95 tuổi. Cao nhất là 97 tuổi và thấp nhất là 
26 tuổi. Dân tộc Kinh chiếm đa với 98,4%. Tỉ lệ 
tiền sử tăng huyết áp ghi nhận tương đối cao với 
79,3%. Tiền sử đái tháo đường là 23,4%. Ghi 
nhận có 2 trường hợp có cơn thoáng thiếu máu 
não. Tiền sử nhồi máu não chiếm tỉ lệ 10,9% mẫu 
nghiên cứu. 
Huyết áp tâm thu và tâm trương trung bình 
lúc nhập viện của là 148,20 ± 28,71 mmHg 140 
[130-160] và 83,83 ± 12,22 mmHg 80 [80-90]. 
Điểm NIHSS trung bình là 9,75 ± 5,88 điểm. 
Vị trí hẹp chủ yếu ghi nhận là ĐM não giữa 
với 67,2%. Hẹp ĐM cảnh trong đoạn trong sọ, 
ĐM đốt sống và ĐM thân nền có tỉ lệ gần tương 
đương nhau, 16,8%, 14,1% và 12,5%. Có khoảng 
78,1% mẫu nghiên cứu hẹp tuần hoàn trước và 
23,8% có hẹp tuần hoàn sau. 
Không tìm thấy mối liên quan giữa tuổi, dân 
tộc và giới tính với nhồi máu tái phát. 
Bảng 1: Đặc tính mẫu nghiên cứu (n = 256) 
Đặc tính mẫu nghiên cứu Tần số (%) 
Tuổi trung bình 63,24 ± 13,95* 
Nam giới 170 (66,4) 
Chủng tộc (Kinh) 252 (98,4) 
Tiền sử 
y khoa 
Hút thuốc lá 112 (43,8) 
Tăng huyết áp 203 (79,3) 
Đái tháo đường 60 (23,4) 
Đặt stent mạch vành 2 (0,8) 
Tiền sử 
đột quỵ 
não 
Nhồi máu não 28 (10,9) 
Cơn thiếu máu não thoáng qua 2 (0,8) 
Huyết áp tâm thu (mmHg) 148,20 ± 28,71* 
Huyết áp tâm trương (mmHg) 83,83 ± 12,22* 
NIHSS 9,75 ± 5,88 
Nồng độ LDL-C (mmol/L) 1,13 ± 0,31* 
HbA1C (n = 68) 8,51 ± 2,13 
Nồng độ glucose (mmol/L) 7,86 ± 3,63 
Vị trí hẹp 
động 
mạch 
trong sọ 
ĐM cảnh trong đoạn trong sọ 43 (16,8) 
ĐM não trước 15 (5,9) 
ĐM não giữa 172 (67,2) 
ĐM thân nền 32 (12,5) 
ĐM đốt sống 36 (14,1) 
*Trung bình ± Độ lệch chuẩn 
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tỉ 
lệ nhồi máu não tái phát với các biến số tuổi, dân 
tộc và giới tính, tiền sử y khoa, tiền sử đột quỵ, 
huyết áp, NIHSS, nồng độ LDL-C, vị trí hẹp 
động mạch nội sọ. 
Có sự khác biệt về tỉ lệ nhồi máu não tái phát 
theo nơi cư trú (p = 0,011). 
Nồng độ glucose ở những người có nhồi 
máu não tái phát cao hơn so với những người 
không có nhồi máu não tái phát, 10,15 ± 5,29 
(mmol/L) so với 7,57 ± 3,27 (mmol/L) (p=0,017). 
Nồng độ HbA1C ở những người có nhồi 
máu não tái phát cao hơn so với những người 
không có nhồi máu não tái phát, 9,72 ± 2,18 (%) 
so với 8,30 ± 2,07 (p=0,050). 
Không có mối liên quan giữa các cách điều 
trị nội khoa tích cực với nhồi máu não tái phát. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 24
Bảng 2: Nhồi máu não tái phát và các yếu tố liên quan 
Đặc tính mẫu nghiên cứu Tái phát (n=29) Không tái phát (n=277) p 
Tuổi trung bình 60,93 ± 15,23 63,53 ± 13,79 0,345** 
Nam giới 20 (11,8) 150 (88,2) 0,757 
Nơi cư trú (TP.HCM) 7 (5,8) 114 (94,2) 0,011 
Tiền sử y khoa 
Hút thuốc lá 16 (14,3) 96 (85,7) 0,188 
Tăng huyết áp 24 (11,8) 179 (88,2) 0,625 
Đái tháo đường 11 (18,3) 49 (81,7) 0,050 
Đặt stent mạch vành 1 (50,0) 1 (50,0) 0,214* 
Tiền sử đột quỵ não 
Nhồi máu não 5 (17,9) 23 (82,1) 0,337* 
Cơn thiếu máu não thoáng qua 0 (0) 2 (100) 1* 
Huyết áp tâm thu (mmHg) 145,86 ± 22,28 148,50 ± 29,46 0,642 
Huyết áp tâm trương (mmHg) 81,39 ± 11,87 84,14 ± 12,25 0,252 
NIHSS 8,07 ± 4,96 9,97 ± 5,96 0,101** 
Nồng độ LDL-C (mmol/L) 3,11 ± 1,09 3,40 ± 0,93 0,117 
Nồng độ glucose (mmol/L) 10,15 ± 5,29 7,57 ± 3,27 0,017 
HbA1C (n = 68) 9,72 ± 2,18 8,30 ± 2,07 0,050 
Vị trí hẹp động mạch trong sọ ĐM cảnh trong đoạn trong sọ (n = 43) 6 (14,0) 37 (86,0) 0,597 
 ĐM não giữa (n = 172) 22 (12,8) 150 (87,2) 0,291 
 ĐM đốt sống (n = 36) 4 (11,1) 32 (88,9) 1 
 ĐM thân nền (n = 32) 2 (6,3) 30 (93,7) 0,550 
Điều trị Điều trị 1 (n=111) 16 (14,4) 95 (85,6) 
0,016* 
 Điều trị 2 (n=15) 3 (20,0) 12 (80,0) 
 Điều trị 3 (n=129) 9 (7,0) 120 (93,0) 
 Điều trị 4 (n=1) 1 (100) 0 (0) 
Phép kiểm χ2, *Phép kiểm Fisher, **Phép kiểm T với phương sai đồng nhất 
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ nhồi máu não tái phát 
Theo ghi nhận của các nghiên cứu trước đó, 
tỉ lệ nhồi máu não có triệu chứng dao động từ 
20-53% tùy thuộc dân số nghiên cứu, chủng tộc 
cũng như phương pháp chọn mẫu(14). Tỉ suất 
nhồi máu não tái phát có sự thay đổi theo thời 
gian theo dõi, mức độ hẹp động mạch nội sọ. 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỉ suất 
nhồi máu não tái phát trên bệnh nhân hẹp 
ĐMNS sau khi điều trị nội khoa tích cực tại 
thời điểm 90 ngày là 11,3%. Tỉ suất nhồi máu 
não tái phát trong nghiên cứu của chúng tôi 
thấp hơn so với nghiên cứu WASID (2005), ở 
hai nhóm sử dụng aspirin và warfarin là tương 
đồng nhau, xấp xỉ 20% sau 2 năm theo dõi(6). 
Nghiên cứu SAMMPRIS (2011) ghi nhận, đối 
với nhóm điều trị nội khoa tích cực, tỉ suất tái 
phát đột quỵ xấp xỉ 5,8% sau 30 ngày, 12,2% 
sau 1 năm theo dõi(5). Mặc dù bệnh nhân trong 
nghiên cứu SAMMPRIS mức độ hẹp ĐMNS 
≥70% nhiều hơn của chúng tôi chỉ ≥50, nhưng 
chúng tôi xác định hẹp ĐMNS bằng CTA, 
MRA và DSA trong khi SAMMPRIS xác định 
mức độ hẹp bằng DSA. Sangha và cộng sự 
(2017) nghiên cứu trên nhóm bệnh nhân điều 
trị nội khoa tích cực, ghi nhận ở thời điểm 30 
ngày có 20,2% bệnh nhân đột quỵ tái phát 
trong vùng hẹp mạch máu(15). Tỉ lệ này là cao 
hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Theo Lê 
Thị Cẩm Linh (2015), 125 bệnh nhân hẹp động 
mạch nội sọ trong mẫu nghiên cứu có 26 
trường hợp có nhồi máu não trước đó chiếm tỉ 
lệ 20,8%(11). 
Nhồi máu não tái phát và đặc điểm mẫu 
nghiên cứu 
Đặc điểm tuổi, giới tính và mối liên quan đến 
nhồi máu não tái phát 
Tuổi là một trong những yếu tố nguy cơ 
quan trọng đối với cả hẹp động mạch nội sọ lẫn 
động mạch ngoại sọ. Tác giả Ritz K. và cộng sự 
(2014)(15), ghi nhận có sự tăng lên về mức độ và tỉ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 25
lệ hẹp ĐMNS theo độ tuổi thông qua các nghiên 
cứu hình ảnh học và giải phẫu tử thi. 
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là là 
63,24 ± 13,95 tuổi, trong đó độ tuổi từ 65 tuổi trở 
lên chiếm 46,9%. Tuổi trung bình mẫu nghiên 
cứu của chúng tôi tương đồng với một số nghiên 
cứu trước đó như SSYLVIA (2004)(16), WASID 
(2005)(6) và SAMMPRIS (2011)(5) của tác giả 
Chimiwitz M.I. và cộng sự khi tuổi trung bình 
của mẫu nghiên cứu dao động từ 60 – 65 tuổi. 
Điều này cho thấy, hẹp ĐMNS xảy ra ở độ tuổi 
từ 60 tuổi trở lên là chủ yếu. 
Bên cạnh độ tuổi, giới tính cũng là một trong 
những yếu tố nền tảng quan trọng cần được chú 
ý đánh giá đối với bệnh nhân. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, tỉ lệ nam giới chiếm 66,4%, cao 
hơn khoảng 2 lần so với nữ giới. Tỉ lệ nữ giới 
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với 
nghiên cứu SSYLVIA (2004) ghi nhận 82% mẫu 
nghiên cứu là nữ giới(16). Tỉ lệ nữ giới trong 
nghiên cứu WASID (2005) và nghiên cứu 
SAMMPRIS là khoảng 60% ở các nhóm can thiệp 
khác nhau trên cùng đối tượng bệnh nhân hẹp 
ĐMNS(5,6). Sự khác biệt trong nghiên cứu của 
chúng tôi so với các nghiên cứu trước đó có thể 
do thiết kế nghiên cứu và cách lấy mẫu. Trong 
các nghiên cứu trước đó, thiết kế chủ yếu là thiết 
kế can thiệp ngẫu nhiên có nhóm chứng, do đó, 
việc chọn mẫu được kiểm soát nghiêm ngặt(5,7,16). 
Đặc điểm dân tộc, nơi ở và mối liên quan đến 
nhồi máu não tái phát 
Nghiên cứu ghi nhận có 98,4% mẫu nghiên 
cứu thuộc dân tộc Kinh, điều này do đặc điểm 
bệnh nhân đến khám từ dân cư xung quanh 
bệnh viện và các tỉnh lân cận, nơi tập trung chủ 
yếu của người Kinh hơn so với các dân tộc khác. 
Theo tổng quan nghiên cứu trong nghiên 
cứu của Ritz K (2014), ghi nhận có sự khác biệt 
về bệnh lý mạch máu não theo các dân tộc khác 
nhau. Người Mỹ da trắng có tình trạng bệnh ít 
hơn cũng như mức độ nhẹ hơn so với người Mỹ 
gốc Phi và người Châu Á(14). Đối với với bệnh 
nhân nhồi máu não có triệu chứng hoặc cơn 
thiếu máu não thoáng qua, người Châu Á và 
người Hispanic chịu ảnh hưởng nhiều nhất, kế 
đến là người Mỹ gốc Phi và cuối cùng là Mỹ da 
trắng, có sự thay đổi ngược lại đối với tình trạng 
thương tổn động mạch ngoại sọ về vấn đề 
này(14). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng 
tôi, chưa tìm thấy sự ảnh hưởng của yếu tố dân 
tộc đối với nhồi máu não tái phát. Kết quả này 
lại tương đồng với nghiên cứu của Water M.F. 
(2016) trên nhóm đối tượng điều trị nội khoa tích 
cực trong nghiên cứu SAMMPRIS, khi nhóm da 
trắng và nhóm không da trắng không khác biệt 
về tỉ lệ nhồi máu não tái phát(18). 
Đặc điểm thói quen hút thuốc lá 
Tỉ lệ hút thuốc ghi nhận trong nghiên cứu là 
43,8%. Tuy nhiên, tỉ lệ hút thuốc lá trong nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả 
nghiên cứu của Waters M.F. (2016), khi tỉ lệ bệnh 
nhân hẹp ĐMNS điều trị nội khoa tích cực có 
hút thuốc lá, từng hút hay đã bỏ là 65,6%(18). Hút 
thuốc lá đối với việc nhồi máu não và nhồi máu 
não tái phát hiện chưa phát hiện có mối liên 
quan hoặc chưa xác định được cơ chế gây bệnh. 
Tiền sử đột quỵ và mối liên quan đến nhồi 
máu não tái phát 
Đối với tiền sử đột quỵ não, ghi nhận có 2 
trường hợp có cơn thiếu máu não thoáng qua 
(0,8%), tình trạng nhồi máu não xảy ra ở 10,9% 
mẫu nghiên cứu. Theo kết quả nghiên cứu của 
Trương Lê Tuấn Anh, Vũ Anh Nhị (2009) tỉ lệ 
tiền sử cơn thoáng thiếu máu não và nhồi máu 
não là 16,67%(17). Nghiên cứu trước đó trên bệnh 
nhân hẹp ĐMNS điều trị nội khoa tích cực của 
Water M.F. (2016), tỉ lệ bệnh nhân có tiền sử cơn 
thiếu máu não thoáng qua chiếm 33% và đột quỵ 
não chiếm 67%(18). Tỉ lệ này cao hơn so với 
nghiên cứu của chúng tôi. Việc đánh giá về tiền 
sử đột quỵ là cần thiết, giúp tiên lượng về khả 
năng tái phát đột quỵ của bệnh nhân. 
Trong nghiên cứu đang tiến hành, chưa ghi 
nhận có mối liên quan giữa tiền sử đột quỵ và 
việc nhồi máu não tái phát. Kết quả của tác giả 
Đinh Hữu Hùng ghi nhận cho thấy rằng, những 
người có tiền sử đột quỵ có nguy cơ tái phát đột 
quỵ cao hơn so với những người không có đột 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 26
quỵ trước đó và số lần đột quỵ trước đó càng 
nhiều, nguy cơ tái phát càng cao(7). 
Chúng tôi không ghi nhận có mối liên quan 
giữa tiền sử nhồi máu não hay cơn thoáng thiếu 
máu não với nhồi máu não tái phát ở bệnh nhân 
hẹp ĐMNS. 
Đặc điểm vị trí hẹp ĐM và mối liên quan đến 
nhồi máu não tái phát 
Trong nghiên cứu của chúng tôi vị trí hẹp 
ĐM thuộc tuần hoàn trước chiếm tỉ lệ 76,2%, 
tuần hoàn sau là 21,9% cũng tương đương với 
Lê Thị Cẩm Linh là 80% và 20%(11), của Cao Phi 
Phong và cộng sự (2010) là 75% và 25%(1). Bên 
cạnh đó, nghiên cứu ghi nhận động mạch não 
giữa chiếm đa số (75,9%) ở những người có nhồi 
máu não tái phát, kế đến là động mạch cảnh 
trong và đoạn trong sọ với 20,7%. 
Vị trí hẹp ĐM trong SAMMPRIS (2011) của 
nhóm điều trị nội khoa chủ yếu là tuần hoàn 
trước, trong đó bao gồm ĐM não giữa và ĐM 
cảnh trong đọan trong sọ chiếm tỉ lệ 46,3% và 
21,6%, trong khi ĐM thân nền và ĐM đốt sống 
là 22,5% và 9,7%(5). Mối liên quan này cũng 
tìm thấy đối với 29 trường hợp nhồi máu não 
tái phát của chúng tôi: hầu hết mẫu nghiên 
cứu có vị trí hẹp chủ yếu là hẹp tuần hoàn não 
trước với 79,3%. 
Đặc điểm điều trị thuốc kháng kết tập tiểu cầu 
và mối liên quan đến nhồi máu não tái phát 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, điều trị 
thuốc kháng kết tập tiểu cầu có sự tương đồng ở 
nhóm liều đơn so với nhóm liều kép, 50,8% so 
với 49,2%. Mặc dù điều trị kháng kết tập tiểu cầu 
kép đã được khuyến cáo theo AHA và phác đồ 
của khoa, nhưng tùy theo mức độ nặng và thể 
tích vùng nhồi máu có thể ảnh hưởng đến tình 
trạng chuyển dạng xuất huyết mà các bác sĩ có 
thể lựa chọn điều trị kháng kết tập tiểu cầu đơn 
hay kép. Thật vậy, mức độ nặng theo thang 
điểm NIHSS trung bình là 9,75 ± 5,88 điểm, chủ 
yếu là trung bình và nặng, 59,0% với 19,1%. 
Những người dùng kháng kết tập tiểu cầu đơn 
có điểm NIHSS cao hơn so với sử dụng kháng 
kết tập tiểu cầu kép, p<0,001 Đồng thời điểm 
mRS lúc nhập viện trung bình là 3,11 ± 1,28 điểm 
và mRS ≥3 chiếm 72,7%. Tuy nhiên, việc tỉ lệ sử 
dụng liều đơn và kép tương đồng nhau chứng tỏ 
phương pháp điều trị nội khoa tích cực hiện tại, 
mặc dù tốt hơn so với can thiệp mạch (theo 
SAMMPRIS)(5), vẫn còn nhiều điểm cần nghiên 
cứu thêm để có thể có liều điều trị phù hợp nhất 
và đạt hiệu quả nhất. 
Thuốc điều trị chủ yếu là aspirin và 
clopidogrel (80,1% và 61,3%), Một số trường hợp 
có sử dụng cilostazol (7,4%). Ngoài ra, trong 
nghiên cứu đang tiến hành, liều điều trị trung 
bình là khoảng 120,24 ± 35,01 mg, dao động từ 
80-162 mg. Kết quả này tương đồng với liều 
aspirin sử dụng trong nghiên cứu CLAIR (2010) 
từ 75-160 mg/ngày(19). Bên cạnh đó, đối với việc 
sử dụng kháng kết tập liều kép, phối hợp aspirin 
và clopidogrel được cho là có lợi hơn so với 
aspirin đơn thuần(19). Có thể thấy, điều trị kháng 
kết tập tiểu cầu trong nghiên cứu của chúng tôi 
hoàn toàn tương đồng với hướng dẫn điều trị 
trong nước cũng như ngoài nước. 
Đặc điểm điều trị thuốc statin và mối liên 
quan đến nhồi máu não tái phát 
Rối loạn lipid trong máu là yếu tố nguy cơ 
được biết trong bệnh lý xơ vữa động mạch vành 
và nhồi máu cơ tim, nhưng vai trò của nó trong 
xơ vữa động mạch nội sọ ít rõ ràng hơn(14). Đến 
nay SPARCL là nghiên cứu duy nhất dành riêng 
cho việc đánh giá nhồi máu não tái phát do giảm 
tích cực cholesteron. Sau 4,9 năm theo dõi, tỉ lệ 
đột quỵ tái phát ở nhóm điều trị với atorvastatin 
80 mg là 11,2% thấp hơn so với nhóm điều trị với 
giả dược là 13,1% (p = 0,003). Atorvastatin cho 
thấy lợi ích ở tất cả các nhóm tuổi, giới, đặc biệt 
là đối với phân nhóm đột quỵ thiếu máu não(8). 
JUPITER là một thử nghiệm lâm sàng phân 
nhóm ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm, dùng 
rosuvastatin 20 mg/ngày hoặc placebo nhằm 
khảo sát liệu việc điều trị rosuvastatin 
20mg/ngày trong thời gian 5 năm. Thời gian 
trung vị là 1,9 năm, nghiên cứu JUPITER đã cho 
thấy: điều trị với rosuvastatin 20mg làm giảm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 27
được 48% nguy cơ đột quỵ 20% nguy cơ tử vong 
chung(13). Điều này cho thấy vai trò của statin 
liều cao trong dự phòng nhồi máu não và nhồi 
máu não tái phát. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ nhồi máu não tái phát còn tương đối ở 
bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ mặc dù đã 
được điều trị nội khoa tích cực. Do đó tất cả 
bệnh nhân hẹp động mạch nội sọ có triệu chứng 
cần có thái độ tích cực từ phía nhân viên y tế, 
bệnh nhân, người nhà bệnh nhân trong điều trị 
thuốc, thay đổi lối sống. Bệnh nhân cần được 
kiểm soát chặt chẽ các yếu tố nguy cơ và kiểm 
tra định kỳ mức độ hẹp động mạch nội sọ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cao Phi Phong, Phan Đăng Lộc (2010). "Tần suất và tiên lượng 
hẹp động mạch nội sọ ở bệnh nhân thiếu máu não cấp". Y học 
TP.HCM, 16(1), pp.299-305. 
2. Caplan LR (1998). "Prevention of strokes and recurrent strokes". 
J Neurol Neurosurg Psychiatry, 64 (6), pp. 716. 
3. Chamorro A, Vila N, Saiz A, Alday M, Tolosa E (1995). "Early 
anticoagulation after large cerebral embolic infarction: a safety 
study". Neurology, 45 (5), pp. 861-5. 
4. Chaturvedi S, Turan TN, Lynn MJ, Kasner SE, Romano J, 
Cotsonis G et al (2007). "Risk factor status and vascular events in 
patients with symptomatic intracranial stenosis". Neurology, 69 
(22), pp. 2063-8. 
5. Chimowitz MI, Lynn MJ, Derdeyn CP et al. (2011). "Stenting 
versus Aggressive Medical Therapy for Intracranial Arterial 
Stenosis". N Engl J Med, 365 (11) 
6. Chimowitz MI, Lynn MJ, Howlett-Smith H, Stern BJ, Hertzberg 
VS, Frankel MR et al (2005). "Comparison of warfarin and 
aspirin for symptomatic intracranial arterial stenosis". N Engl J 
Med, 352 (13), pp. 1305-16. 
7. Đinh Hữu Hùng (2014). “Nguy cơ tái phát sau đột quỵ thiếu 
máu não cục bộ cấp theo phân tầng một số yếu tố liên quan”. 
Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. 
8. Goldstein LB, Amarenco P, Zivin J, Messig M, Altafullah I, 
Callahan A et al (2009). "Statin treatment and stroke outcome in 
the Stroke Prevention by Aggressive Reduction in Cholesterol 
Levels (SPARCL) trial.". Stroke, 40 (11), pp. 3526-31. 
9. Gorelick PB, Wong KS, Bae HJ, Pandey DK (2008). "Large artery 
intracranial occlusive disease: a large worldwide burden but a 
relatively neglected frontier". Stroke, 39 (8), pp. 2396-9. 
10. Hankey GJ (2010). "Ischaemic stroke--prevention is better than 
cure". J R Coll Physicians Edinb, 40 (1), pp. 56-63. 
11. Lê Thị Cẩm Linh (2015). “Đánh giá các yếu tố nguy cơ, đặc điểm 
lâm sàng và hình ảnh học ở bệnh nhân nhồi máu não do xơ vữa 
mạch máu lớn”. Luận văn Tốt nghiệp Bác sĩ nội trú, Đại học Y 
Dược TP.Hồ Chí Minh. 
12. Mendis S (2005). "WHO study on Prevention of REcurrences of 
Myocardial Infarction and StrokE (WHO-PREMISE)". Bull World 
Health Organ, 83 (11), pp. 820-829. 
13. Mora S, Ridker PM (2006). "Justification for the Use of Statins in 
Primary Prevention: An Intervention Trial Evaluating 
Rosuvastatin (JUPITER)—Can C-Reactive Protein Be Used to 
Target Statin Therapy in Primary Prevention?". The American 
Journal of Cardiology, 97 (2A), pp. 33A-41A. 
14. Ritz K, Denswil NP, Stam OC, van Lieshout JJ, Daemen MJ 
(2014). "Cause and mechanisms of intracranial atherosclerosis". 
Circulation, 130 (16), pp. 1407-14. 
15. Sangha RS, Naidech AM, Corado C, Ansari SA, Prabhakaran S 
(2017). "Challenges in the Medical Management of Symptomatic 
Intracranial Stenosis in an Urban Setting". Stroke, 48 (8), pp. 
2158-2163. 
16. SSYLVIA Study Investigators (2004). "Stenting of Symptomatic 
Atherosclerotic Lesions in the Vertebral or Intracranial Arteries 
(SSYLVIA): study results". Stroke, 35 (6), pp. 1388-92. 
17. Trương Lê Tuấn Anh, Vũ Anh Nhị (2009). "Khảo sát hẹp động 
mạch nội sọ bằng siêu âm màu xuyên sọ ở bệnh nhân thiếu máu 
não cục bộ cấp", Y học TP.Hồ Chí Minh, 13 (1). 
18. Waters MF, Hoh BL, Lynn MJ, Kwon HM, Turan TN, Derdeyn 
CP et al (2016). "Factors Associated With Recurrent Ischemic 
Stroke in the Medical Group of the SAMMPRIS Trial". JAMA 
Neurol, 73 (3), pp. 308-15. 
19. Wong KS, Chen C, Fu J, Chang HM, Suwanwela NC, Huang YN 
et al (2010). "Clopidogrel plus aspirin versus aspirin alone for 
reducing embolisation in patients with acute symptomatic 
cerebral or carotid artery stenosis (CLAIR study): a randomised, 
open-label, blinded-endpoint trial". Lancet Neurol, 9(5), pp. 489-97. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019