Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 150
THỰC TRẠNG XỬ TRÍ SUY THAI CẤP TRONG CHUYỂN DẠ 
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG. 
Vũ Văn Du*, Vũ Bá Quyết* 
TÓM TẮT 
Mở đầu và mục tiêu: Suy thai cấp tính trong chuyển dạ đòihỏiphảixửtrícấpcứu, tùy theo từng điều kiện cụ 
thể mà có các biện pháp xử trí khác nhau. Vìvậy, chúngtôitiếnhànhnghiêncứuvớimụctiêu: Đánhgiáthựctrạngxử 
trí suy thai cấp trong chuyển dạ. 
Phương pháp nghiên cứu: 145 sản phụ được chẩn đoán suy thai cấp tính từ tháng 01/2012 - 08/2012. Thiết 
kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. 
Kết quả: Đa phần là nhóm thai đủ tháng (37-41 tuần) có 104 trường hợp chiếm tỷ lệ 71,8%, thấp nhất là 
nhóm thai non tháng (<37 tuần) với tỷ lệ 3,4%.Điều trị nội khoa là điều trị triệu chứng, gồm các biện pháp thở 
oxy, nằm nghiêng trái là 2 biện pháp hay được áp dụng, truyền glucoza và giảm co không được sử dụng.Về xử trí 
sản, biện pháp được sử dụng là mổ lấy thai (67,61%) và forceps (32,39%). Không có mối liên quan giữa phương 
pháp mổ lấy thai và chỉ số Apgar. 
Kết luận: Điều trị suy thai là sự kết hợp giữa nội khoa và sản khoa. Điều trị nội khoa có 2 biện pháp thở oxy, 
nằm nghiêng trái hay được áp dụng, truyền glucoza. Mổ lấy thai (67,61%) và forceps (32,39%) là 2 biện pháp xử 
trí sản được sử dụng. 
Từ khóa: suy thai cấp, xử trí, Bệnh viện Phụ sản Trung ương. 
ABSTRACT 
EVALUATION TREATMENT THE ACUTE FETAL DISTRESS DURING LABOR AT VIETNAM 
NATIONAL HOSPITAL OF OBSTETRICS AND GYNECOLOGY 
Vu Van Du, Vu Ba Quyet 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 150 - 153 
Background &Objectives: The acute fetal distress during labor requires urgent treatment, depending 
on the specific conditions that having different treatments. We conducted a study with objective: To 
assessment evaluation treatment the acute fetal distress during labor.Comment on management of acute 
fetal distress during labor. 
Subjects and Methods:145 women at deliverywere diagnosed of acute fetal distress in the period from 
01/2012 - 08/2012. Study design: A cross sectional study. 
Results:Women in survey are mostly full-term pregnancy (37-41 weeks) with 104 cases (71,8%), the lowest 
is pre-term pregnancy (<37 weeks) with 3,4%, medical treatment is symptomatic treatment, includingoxygen 
therapy, lying on the left are often applied, glucose infusion and reduced contraction are not used. The delivery 
interventions were used were cesarean section (67.61%) and forceps (32.39%). No association between cesarean 
delivery method and Apgar score. 
Conclusion: Treatment of fetal distress is a combination of internal medicine and obstetrics. Medical 
treatment with 2 oxygen therapy, lying on the left or apply, glucose infusion. Cesarean section (67.61%) and 
forceps (32.39%) are used. 
Keywords: acute fetal distress, treatment, Vietnam National hospital of Obstetrics and Gynecology 
* Bệnh viện Phụ sản Trung Ương 
Tác giả liên lạc: TS. Vũ Văn Du ĐT: 0913585435 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 151
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Suy thai xảy ra trong khi có thai thường 
không đột ngột gọi là suy thai mạn tính, 
thường có liên quan rất nhiều tới vấn đề dinh 
dưỡng của thai. Trái lại, suy thai xảy ra trong 
quá trình chuyển dạ thường là suy thai cấp 
tính. Các trường hợp suy thai mạn có thể 
nhanh chóng trở thành suy thai cấp tính trong 
chuyển dạ. Suy thai cấp tính trong chuyển dạ 
là nguyên nhân của 1/3 số trường hợp tử vong 
chu sinh. Theo nghiên cứu của Hyattsvill tại 
Hoa Kỳ năm 1994, tỷ lệ tử vong vì suy thai cấp 
tính là 17,3/100.000 trẻ đẻ ra sống, nghiên cứu 
của Phạm Thị Thanh Mai năm 1998 tại bệnh 
viện Phụ sản Trung ương, tỷ lệ trẻ đẻ ra ngạt 
là 1%(7,8). Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của Y học, 
cùng với sự ra đời của các phương tiện thăm 
dò hiện đại trong sản khoa như Monitoring 
sản khoa, siêu âm, soi ốiđã giúp cho các 
thầy thuốc sản khoa chẩn đoán sớm và điều trị 
kịp thời suy thai(1,2,3). Phương pháp điều trị suy 
thai cấp tính bao gồm sự kết hợp giữa điều trị 
nội khoa và sản khoa. Tùy theo tình trạng thai 
nhi và tình trạng người mẹ mà thầy thuốc có 
chỉ định thích hợp(5). Vì vậy chúng tôi tiến 
thành nghiên cứu nhằm: nhận xét thái độ xử 
trí suy thai cấp trong chuyển dạ tại bệnh viện 
Phụ sản Trung ương. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
145 trường hợp được chẩn đoán suy thai cấp 
tính trong chuyển dạ được chỉ định mổ lấy thai 
hoặc forceps tại BVPSTW từ tháng 01-08/2012 
Tiêu chuẩn chọn đối tượng 
Các sản phụ có: chu kì kinh nguyệt đều 
(trường hợp nhớ chính xác ngày đầu của kỳ kinh 
cuối) hoặc tuổi thai khẳng định bằng siêu âm 
trong quý 1 của thai kỳ (trường hợp không nhớ 
chính xác ngày đầu của kỳ kinh cuối); chỉ có 1 
thai trong tử cung; chuyển dạ thực sự; không 
mắc các bệnh nhiễm trùng; không dùng thuốc 
ảnh hưởng đến nhịp tim thai; nước ối xanh lẫn 
phân su; nhịp tim thai biến đổi >160 lần/phút 
hoặc <120 lần/phút; có dấu hiệu suy thai trên 
monitor với DIP I, DIP II, DIP biến đổi; đồng ý 
tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các sản phụ có thai non hoặc già tháng; có 
chẩn đoán suy thai không điển hình; có khó 
khăn trong giai đoạn 2 của cuộc chuyển dạ. 
Phương pháp nghiên cứu 
Loại hình nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang 
Cách chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện những bệnh nhân thỏa 
mãn tiêu chuẩn chọn bệnh trong thời gian 
nghiên cứu. 
Phân tích và xử lý số liệu 
Tất cả các số liệu đều được ghi lại trong 
phiếu theo dõi nghiên cứu và nhập bằng phần 
mềm Epi - Info 2002 và phân tích, xử lý số liệu 
bằng phần mềm SPSS 13. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm tuổi thai 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
 41 tuần 
71,8% 
3,4% 
24,8% 
Biểu đồ 1: Phân bố tuổi thai 
Phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu có 
tuổi thai từ 37-41 tuần tuổi. 
Phương pháp xử trí suy thai 
Trong các trường hợp điều trị suy thai, mổ 
lấy thai đơn thuần có 56 trường hợp chiếm 
38,62%, Forceps đơn thuần có 3 trường hợp 
% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 152
chiếm 2,06%. Trong điều trị kết hợp có: nằm 
nghiêng trái, thở oxy kết hợp mổ lấy thai có 41 
trường hợp chiếm 28,27%, nằm nghiêng trái, 
thở oxy kết hợp với forceps có 33 trường hợp 
chiếm 22,75%. 
Bảng 1: Phương pháp xử trí suy thai 
Phương pháp điều trị n % 
Điều trị đơn 
thuần 
Giảm co (1) 0 0 
Thở oxy (2) 0 0 
Nằm nghiêng trái (3) 0 0 
Mổ lấy thai (4) 56 38,62 
Forceps (5) 3 2,06 
Điều trị kết 
hợp 
2+5 11 7,58 
2+3+5 33 22,75 
2+3+4 41 28,27 
1+2+4 1 0,72 
Tổng số 145 100 
Bảng 3. Phân bố tỷ lệ phương pháp điều trị thai suy 
theo chỉ số Apgar 
Phương 
pháp điều trị 
Chỉ số Apgar 
Tổng số 
(Tỷ lệ %) 
Apgar < 7 Apgar ≥ 7 
n % n % 
Mổ lấy thai 8 8,16 90 91,84 98 
Forceps 7 14,89 40 85,11 47 
p p > 0,05 
Trong nhóm mổ lấy thai có 8 trường hợp chỉ 
số Apgar < 7 điểm chiếm tỷ lệ 8,16%; nhóm 
forceps có 7 trường hợp Apgar < 7 điểm chiếm tỷ 
lệ 14,89%.Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
với p > 0,05. 
BÀN LUẬN 
Phân bố tuổi thai 
Cả 3 nhóm gồm non tháng, đủ tháng và già 
tháng đều có thể xảy ra nguy cơ suy thai cấp tính 
trong chuyển dạ. Đối với nhóm thai non tháng 
và thai già tháng thường có năng lượng dự trữ 
bao gồm nước và glycogen không đủ, cũng như 
sự trao đổi khí và thải trừ các chất chuyển hóa bị 
ảnh hưởng gây nên tình trạng thiếu oxy.Những 
thai này luôn bị đe dọa suy thai cấp trong 
chuyển dạ(4). Do đó, những thai non tháng và già 
tháng khi chuyển dạ đẻ cần phải theo dõi rất sát 
và nên can thiệp sớm vì nguy cơ suy thai là rất 
cao. Theo nghiên cứu của Vương Ngọc Đoàn, 
những thai non tháng nguy cơ suy thai tăng gấp 
2,82 lần so với thai đủ tháng, những thai già 
tháng nguy cơ suy thai tăng gấp 2,26 lần so với 
thai đủ tháng(9). Tuy nhiên vì nghiên cứu này của 
chúng tôi chỉ được tiến hành trên 1 nhóm duy 
nhất nên chúng tôi không có bằng chứng để 
kiểm định giả thuyết trên. 
Phương pháp xử trí thai 
Kết quả tại Bảng 2, không có trường hợp nào 
phải truyền Glucose để điều trị suy thai, đa số là 
kết hợp các biện pháp gồm: nằm nghiêng trái, 
thở oxy và foceps chiếm tỷ lệ 22,75%; nằm 
nghiêng trái, thở oxy và mổ lấy thai chiếm 
28,27%.Nghiên cứu của Vương Ngọc Đoàn cho 
thấy: điều trị kết hợp thuốc giảm cơn co TC và 
mổ lấy thai là 14 trường hợp (3,7%), thở oxy và 
mổ lấy thai 46 trường hợp (12,3%), thở oxy và 
forceps 24 trường hợp (6,4%), nằm nghiêng trái 
và mổ lấy thai 35 trường hợp (9,4%), nằm 
nghiêng trái và forceps 12 trường hợp (3,2%)(9). 
Như vậy nghiên cứu của chúng tôi cũng như tác 
giả Vương Ngọc Đoàn cho thấy điều trị suy thai 
cấp tính bao gồm điều trị nội khoa kết hợp với 
mổ lấy thai hoặc forceps(9). Thái độ xử trí sản 
khoa tuỳ thuộc vào kết quả điều trị nội khoa, nếu 
tình trạng suy thai không được cải thiện cần phải 
lấy thai ra ngay, tuỳ theo điều kiện mà có thể 
quyết định mổ lấy thai hoặc lấy thai ra bằng 
forceps. 
Phân bố tỷ lệ phương pháp điều trị thai suy 
theo chỉ số Apgar 
Điều trị bằng forceps 
Theo kết quả nghiên cứu tại Bảng 3, trong 
nhóm suy thai được điều trị bằng forceps, có 7 
trường hợp Apgar < 7 điểm chiếm tỷ lệ 14,89%, 
tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê với p > 0,05.Theo nghiên cứu của Đỗ Văn Tú, 
tỷ lệ sơ sinh đẻ forceps có chỉ số Apgar < 7 điểm 
chiếm 3,65%, theo tác giả, việc chỉ định đúng và 
các điều kiện của thủ thuật forceps được tôn 
trọng cùng với việc phát hiện sớm tình trạng suy 
thai sẽ làm giảm nguy cơ ngạt sau đẻ(6). Trong 
nghiên cứu của chúng tôi trên 47 trường hợp đẻ 
forceps, không có trường hợp nào tử vong sơ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 153
sinh, không gặp trường hợp nào sang chấn cho 
thai cũng như không gặp tai biến nặng nề cho 
mẹ. Nghiên cứu của Nguyễn Đức Hinh thấy tỷ 
lệ tử vong sơ sinh sau đẻ forceps là 2,53%, và của 
Đỗ Văn Tú năm 1998-2002 là 0,25%(10,6). Theo 
chúng tôi, sự khác biệt này là do hiện nay các sản 
phụ đến bệnh viện sớm hơn, trong quá trình 
chuyển dạ được theo dõi sát hơn bằng 
monitoring sản khoa, đồng thời những trường 
hợp tiên lượng không đẻ được đường âm đạo 
đều được chỉ định mổ lấy thai sớm. 
Điều trị bằng mổ lấy thai 
Theo kết quả nghiên cứu tại Bảng 3, trong 
nhóm suy thai được điều trị bằng mổ lấy thai, có 
8 trường hợp Apgar < 7 điểm chiếm tỷ lệ 8,16%, 
tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê với p > 0,05. Điều này có thể lý giải là do trên 
lâm sàng những trường hợp điều trị nội khoa 
không kết quả, không thể theo dõi đẻ đường 
dưới được, nếu đủ điều kiện như CTC mở hết, 
đầu đã lọt thì nhanh chóng lấy thai ra bằng 
forceps. Nếu không đủ điều kiện làm forceps thì 
cũng nhanh chóng mổ lấy thai. Trên thực tế, 
trước một trường hợp được chẩn đoán suy thai 
người thầy thuốc thường nhanh chóng tìm biện 
pháp lấy thai ra bằng mổ lấy thai để hạn chế tối 
đa nguy cơ trẻ đẻ ra có chỉ số Apgar thấp. Bên 
cạnh đó, nhờ sự phát triển của các phương tiện 
cận lâm sàng như Monitoring. Việc chẩn đoán 
suy thai cũng được phát hiện sớm hơn. Do vậy 
tỷ lệ mổ đẻ do nguyên nhân suy thai tăng lên, 
góp phần làm tăng tỷ lệ mổ lấy thai nói chung. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu trên 145 trường hợp suy thai 
cấp tính tại bệnh viện Phụ Sản Trung ương từ 
tháng 01/2012 - 08/2012, chúng tôi rút ra được kết 
luận như sau: 
- Các biện pháp thở oxy, nằm nghiêng trái là 
2 biện pháp hay được áp dụng, truyền glucoza 
và giảm co không được sử dụng. 
- Về xử trí sản, biện pháp được sử dụng là 
mổ lấy thai (67,61%) và forceps (32,39%). 
- Không có mối liên quan giữa phương pháp 
mổ lấy thai và chỉ số Apgar 
Việc xử lý suy thai cấp trong chuyển dạ là 1 
điều rất quan trọng chính vì thế cần xây dựng 
tiểu chuẩn chẩn đoán suy thai cấp sao phù hợp 
để có biện pháp xử trí đúng đắn và kịp thời. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ashford L (2002), “ Hidden suffering: disabilities from 
pregnancy and childbirth in less developed countries”. Policy 
Brief: Population Reference Bureau. Washington DC 
2. Aziken M, Omo-Aghoja L, Okonofua F (2007), Perceptions and 
attitudes of pregnant women towards caesarean section in 
urban Nigeria. Acta Obstet Gynecol Scand, 86: 42- 47 
3. Black RE, Morris SS, Bruce J (2003), Where and why are 10 
million children dying every year? Lancet, 361: 2226-2234 
4. Bộ môn Phụ sản – Trường Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 
(2007). “Sản phụ khoa tập I”, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, tr 
426-432. 
5. Chigbu CO, Iloabachie GC (2007), The burden of caesarean 
section refusal in a developing country setting, BJOG, 114:1261- 
1265 
6. Đỗ Văn Tú (2003), Nhận xét tình hình đẻ Forceps – giác hút tại 
khoa sản bệnh viện Bạch Mai trong 5 năm 1998-2002, Luận văn 
tốt nghiệp bác sỹ y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội 
7. Hyattsvill (1994), National centre for Health statistics. Annual 
summary of births, divorces and deaths: Unaited State, Monthly 
vital statistic report; vol 42 N 13. Public Service. 
8. Phạm Thị Thanh Mai (1998), “Nhận xét các yếu tố gây bệnh và 
tử vong sơ sinh tại viện bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh năm 1998”, 
Tạp chí thông tin Y dược tháng 12, tr.254. 
9. Vương Ngọc Đoàn (2005), Nghiên cứu một số yếu tố liên quan 
và biện pháp xử trí suy thai tại bệnh viện Phụ Sản Trung Ương 
năm 2004-2005, Luận văn Thạc sĩ Y học trường Đại học Y Hà Nội, 
Hà Nội 
Ngày nhận bài báo: 18/10/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 03/11/2016 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2017