Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 38
THỰC TRẠNG BÁN THUỐC KHÁNG SINH ĐIỀU TRỊ 
VIÊM ĐƯỜNG HÔ HẤP TRÊN Ở TRẺ EM TẠI HUYỆN PHÚ HÒA, 
TỈNH PHÚ YÊN, NĂM 2018 
Đào Thanh Liêm*, Trương Phi Hùng*, Tô Gia Kiên* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tổ chức Y tế Thế giới xếp Việt Nam vào nhóm các nước có tỉ lệ kháng kháng sinh cao nhất thế 
giới. Trong đó, việc bán thuốc kháng sinh không có chỉ định của bác sĩ tại các nhà thuốc là nguyên nhân hàng 
đầu. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ nhà thuốc bán thuốc kháng sinh không có chỉ định của bác sĩ, và mô tả thực hành 
bán thuốc trong điều trị viêm đường hô hấp trên ở trẻ em. 
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 63 nhà thuốc tư nhân trên địa bàn huyện 
Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Định vị GPS được dùng để xác định vị trí các nhà thuốc. Hai tình huống giả định gồm 
viêm họng và cảm lạnh ở trẻ em được sử dụng. Dữ kiện thu thập gồm vị trí nhà thuốc; đặc điểm của nhân viên 
nhà thuốc như trình độ chuyên môn, chứng chỉ hành nghề, nơi đào tạo chuyên môn, thời gian hành nghề; thực 
hành bán thuốc và loại thuốc kháng sinh. 
Kết quả: Tỉ lệ bán thuốc kháng sinh không có chỉ định của bác sĩ là 93,7% trong trường hợp viêm họng và 
88,9% trong trường hợp cảm lạnh. Amoxicillin là loại kháng sinh được bán nhiều nhất (23,7% và 25,0%). Tỉ lệ 
nhà thuốc để người mua tự quyết định liều dùng chiếm 44,4% và 50,8%. 
Kết luận: Đa số các nhà thuốc tư nhân chưa chấp hành các quy định của Bộ Y tế trong việc bán thuốc kháng 
sinh. Nghiên cứu mô tả tình hình bán thuốc kháng sinh không kê toa giúp đề xuất các biện pháp quản lí phù hợp. 
Từ khóa: viêm đường hô hấp trên, kháng sinh, nhà thuốc tư nhân, GPS, Epicollect5 
ABSTRACT 
THE SITUATION OF SELLING ANTIBIOTICS FOR TREATING CHILDREN WITH UPPER 
RESPIRATORY INFECTIONS AT DRUGSTORES IN PHU HOA DISTRICT, PHU YEN PROVINCE, 
IN 2018 
Dao Thanh Liem, Truong Phi Hung, To Gia Kien 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 ‐ No 2‐ 2019: 38‐43 
Background: World Health Organization grouped Vietnam into countries with the highest prevalence of 
antibiotic resistance. Selling antibiotics without prescription was the most leading cause. 
Objectives: This study determined the percentage of private drugstores selling antibiotics without 
prescriptions and described selling practice of druggists for treating children with upper respiratory infections. 
Method: A cross-sectional study was conducted on 63 private drugstores in Phu Hoa district, Phu Yen 
province. GPS navigation system was used to locate drugstores. Two role plays included a child having a sore 
throat and a cold. Data on locations, characteristics of druggists such as professional qualifications, licenses, 
training institutions, years of experiences, selling practice and types of antibiotics. 
Results: The percentage of drugstores selling antibiotics without prescription was 93.7% for a child with 
sorethroat and 88.9% for a child with a cold. Amoxicillin was the most selling antibiotic (23.7% and 25%). The 
percentage of drugstores asking a client for doses was 44.4% and 50.8%. 
*Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Đào Thanh Liêm ĐT: 0379898406 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 39
Conclusion: Most of the drugstores did not fully follow the Ministry of Health’s regulations in selling 
antibiotics. The study described the situation of selling antibiotics without prescription that suggested properly 
managerial solutions. 
Keywords: upper respiratory infection, antibiotics, simulated client, private drugstores, GPS, Epicollect5 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đề kháng kháng sinh là vấn đề rất được 
quan tâm trên thế giới. Dự đoán tới năm 2050, 
GDP thế giới sẽ bị tiêu tốn một trăm nghìn tỉ 
USD, và có tới 10 triệu người chết mỗi năm do 
tình trạng kháng kháng sinh gây ra; đặc biệt, 
nơi chịu hậu quả nặng nề nhất là châu Á với 
4,7 triệu người chết mỗi năm(9). 
Ở Việt Nam, theo báo cáo vào năm 2010, tình 
trạng kháng kháng sinh đã ở mức độ cao(14). Hầu 
hết các cơ sở khám, chữa bệnh đang phải đối 
mặt với tốc độ lan rộng các vi khuẩn kháng với 
nhiều loại kháng sinh(3). Mức độ và tốc độ kháng 
thuốc ngày càng gia tăng, đang ở mức báo 
động(3). 88% kháng sinh ở thành thị và 91% 
kháng sinh ở nông thôn được bán tại các nhà 
thuốc tư nhân không có chỉ định của bác sĩ(7), đây 
là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới tình trạng đề 
kháng kháng sinh cao trong cộng đồng(14). 
Ngày 21 tháng 6 năm 2013, Bộ trưởng Bộ Y 
tế đã phê duyệt “Kế hoạch hành động quốc gia 
về chống kháng thuốc” giai đoạn 2013‐2020(3), 
hiện tại đã hơn 4 năm từ khi bắt đầu, nhưng 
chưa có báo cáo về việc thực hiện đúng việc bán 
thuốc kháng sinh “an toàn và hợp lí” theo mục 
tiêu của kế hoạch hành động quốc gia. 
Nhiễm trùng đường hô hấp trên như cảm 
lạnh, viêm họng và một số bệnh khác là lí do 
phổ biến nhất để tìm đến sự chăm sóc sức khỏe 
cho trẻ em tại Việt Nam(13,15) chiếm tỉ lệ 20%(6). Đa 
số nhiễm trùng đường hô hấp trên là do siêu vi, 
lành tính và tự khỏi(8,15). Nhiều nghiên cứu đã chỉ 
ra rằng, kháng sinh không có tác dụng, hoặc tác 
dụng rất khiêm tốn trong điều trị cảm lạnh và 
viêm họng(10,11,15,16), thậm chí còn có thể gây ra tác 
dụng phụ đáng kể(10). Trong một nghiên cứu tại 
vùng nông thôn Trung Quốc vào năm 2015, có 
tới 55% cơ sở khám chữa bệnh bán kháng sinh 
cho bệnh cảm lạnh mặc dù 83% các bác sĩ tại đây 
đã được tập huấn về cách sử dụng kháng sinh(17). 
Tại vùng nông thôn Việt Nam, vẫn chưa có báo 
cáo nào về thực hành điều trị cảm lạnh và viêm 
họng tại trẻ em. 
Để có được dữ liệu về tình hình bán thuốc 
kháng sinh giúp cung cấp thông tin cho các 
nhà quản lí. Nghiên cứu “Thực trạng bán 
thuốc kháng sinh điều trị viêm đường hô hấp 
trên cho trẻ em không có chỉ định của bác sĩ tại 
huyện phú hòa, tỉnh phú yên, năm 2018” được 
tiến hành sẽ cho cái nhìn chi tiết hơn về thực 
hành bán thuốc của các nhà thuốc tư nhân tại 
đây. Trong vấn đề điều trị viêm đường hô hấp 
trên ở trẻ em tại các nhà thuốc tư nhân, nghiên 
cứu sẽ thực hiện các mục tiêu: (1) xác định tỉ lệ 
nhà thuốc bán thuốc kháng sinh không có chỉ 
định của bác sĩ; (2) xác định những loại kháng 
sinh nào được bán nhiều nhất; (3) mô tả thực 
hành bán thuốc của nhân viên nhà thuốc trong 
điều trị viêm đường hô hấp trên cho trẻ em. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 
những nhà thuốc tây tư nhân tại huyện Phú 
Hòa, tỉnh Phú Yên từ tháng 4 năm 2018 đến 
tháng 7 năm 2018. Kỹ thuật chọn mẫu toàn bộ tất 
cả các nhà thuốc có đăng kí hoạt động với Phòng 
Y tế tới tháng 5 năm 2018. Những nhà thuốc 
không mở cửa và không tìm thấy trong thời gian 
nghiên cứu sẽ bị loại ra. 
Nghiên cứu viên (NCV) đánh dấu các nhà 
thuốc có trong danh sách do Phòng Y tế cung 
cấp lên bản đồ bằng hệ thống Epicollect5, sau đó 
xuất thông tin địa lí vào Google Map để thể hiện 
vị trí nhà thuốc trên bản đồ. 
NCV giả định 2 tình huống mua thuốc điều 
trị viêm đường hô hấp trên bao gồm viêm họng 
và cảm lạnh. NCV sẽ đóng vai người đến mua 
thuốc, ghi nhận lại thông tin bằng một bảng 
kiểm soạn sẵn. Các biến số thu thập gồm các đặc 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 40
tính của nhân viên bán thuốc cho nghiên cứu 
viên như trình độ chuyên môn, chứng chỉ hành 
nghề, nơi đào tào chuyên môn, thời gian hành 
nghề. Các biến số về thực hành bán thuốc như 
hỏi thềm về triệu chứng, hỏi tiền sử dị ứng, hỏi 
tiền sử sử dụng thuốc, hỏi tiền sử bệnh, tư vấn 
nên đi khám bác sĩ, để người mua từ quyết định 
liều dùng, tư vấn cách sử dụng thuốc, tư vấn 
dinh dưỡng, tư vấn dấu hiệu cần đi khám bác sĩ, 
yêu cầu dùng đủ liều sẽ được thu thập bằng 
cách quan sát sau đó đánh dấu vào bảng kiểm 
soạn sẵn. Các biến số về thuốc mua được như 
kháng sinh, loại kháng sinh sẽ được thu thập sau 
khi phân tích thuốc được mua về. 
Tình huống 1 
NCV mua thuốc cho người thân là em bé (4 
tuổi, nam, 18 kg) bị viêm họng ngày thứ 2 với 
các triệu chứng: chảy nước mũi, ho khan, đau 
họng, đau đầu, sốt 380C. 
Tình huống 2 
NCV mua thuốc cho người thân là em bé (4 
tuổi, nam, 18 kg) bị cảm lạnh ngày thứ 3 với các 
triệu chứng: hắt hơi, nghẹt mũi, chảy nước mũi, 
ho khan, đau đầu, sốt 380C. 
Phân tích số liệu 
Thống kê mô tả sẽ được sử dụng để mô tả 
các biến số đặc điểm nhân viên nhà thuốc, đặc 
điểm thuốc kháng sinh và các tỉ lệ thực hành bán 
thuốc ở cả hai tình huống viêm họng và cảm 
lạnh. Xác định những yếu tố liên quan đến tỉ lệ 
nhà thuốc bán kháng sinh không có chỉ định của 
bác sĩ bằng kiểm định chính xác Fisher đối với 
các biến số về trình độ chuyên môn (dược 
tá/dược sĩ trung cấp/khác), chứng chỉ hành nghề 
(có/không), nơi đào tạo chuyên môn (Cao đẳng 
Y tế Phú Yên/khác); sử dụng hồi quy poisson để 
phân tích mối liên quan giữa biến số phụ thuộc 
bán thuốc kháng sinh và biến số độc lập thời 
gian hành nghề. 
Đạo đức nghiên cứu 
Các thông tin nghiên cứu được bảo mật kĩ 
càng bằng cách đối tượng nghiên cứu sẽ được 
mã hóa bằng số như tên nhà thuốc, liều thuốc 
mua từ nhà thuốc. Tên người bán thuốc được 
giữ bí mật, chỉ phục vụ cho mục đích nghiên 
cứu. Nghiên cứu được Hội Đồng Đạo Đức của 
khoa Y Tế Công Cộng Đại Học Y Dược Thành 
Phố Hồ Chí Minh thông qua, mã số 18209‐
ĐHYD kí ngày 15/5/2018. 
KẾT QUẢ 
Theo danh sách đăng kí từ Phòng Y tế huyện 
Phú Hòa, có tổng cộng 73 nhà thuốc tư nhân. 
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu không 
thể tìm thấy 3 nhà thuốc, có 7 nhà thuốc không 
mở cửa trong thời gian nghiên cứu, còn lại 63 
nhà thuốc được tiến hành nghiên cứu. 
Hình 1: Bản đồ phân bố các nhà thuốc tư nhân trên 
địa bàn huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. 
Các kết quả của nghiên cứu được trình bày 
cụ thể lần lượt trong các bảng 1, 2, 3, 4. 
Bảng 1: Đặc tính của nhân viên nhà thuốc trong cả 
hai trường hợp viêm họng và cảm lạnh 
Đặc điểm Trường hợp 
viêm họng (n=63) 
Trường hợp cảm 
lạnh (n=63) 
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) 
Trình độ người bán thuốc 
Dược tá 19 30,2 20 31,7 
Dược sĩ trung cấp 31 49,2 32 50,8 
Khác 13 14,6 11 17,5 
Chứng chỉ hành nghề 
Có 51 81,0 53 84,1 
Không 12 19,0 10 15,9 
Nơi được đào tạo về chuyên môn 
Cao đẳng Y tế Phú 
Yên 
49 77,7 50 79,3 
Nơi khác 14 22,3 13 20,7 
Thời gian hành nghề 
(năm) 
7(5-10) 
a 
7(4-10) 
a
a: Trung vị (Khoảng tứ phân vị) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 41
Bảng 2: Đặc điểm thuốc kháng sinh được bán 
Đặc điểm Trường hợp viêm 
họng (n=63) 
Trường hợp cảm 
lạnh (n=63) 
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) 
Kháng sinh 
Có 59 93,7 56 88,9 
Không 4 6,3 7 11,1 
Các loại thuốc kháng sinh 
Amoxicillin 14 23,7 14 25,0 
Cefalexin 9 15,3 10 17,8 
Cefadroxil 6 10,2 5 8,9 
Cefuroxime 6 10,2 6 10,7 
Cefixime 9 15,3 8 14,3 
Khác 15 25,3 13 23,3 
Bảng 3: Đặc điểm thực hành bán thuốc 
Các tỉ lệ về thực 
hành bán thuốc 
Trường hợp viêm 
họng (n=63) 
Trường hợp cảm 
lạnh (n=63) 
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) 
Hỏi triệu chứng 
bệnh 
37 58,7 43 68,3 
Hỏi tiền sử dị ứng 4 6,3 2 3,2 
Hỏi tiền sử sử dụng 10 15,9 9 14,3 
Các tỉ lệ về thực 
hành bán thuốc 
Trường hợp viêm 
họng (n=63) 
Trường hợp cảm 
lạnh (n=63) 
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) 
thuốc 
Hỏi tiền sử bệnh 4 6,3 0 0 
Tư vấn nên đi khám 
bác sĩ 
1 1,6 0 0 
Để người mua quyết 
định liều dùng 
28 44,4 32 50,8 
Tư vấn cách sử 
dụng thuốc 
41 65,1 40 63,5 
Tư vấn dinh dưỡng 6 9,5 12 19,0 
Tư vấn dấu hiệu cần 
đi khám bác sĩ 
8 12,7 5 7,9 
Yêu cầu dùng đủ 
liều 
6 9,5 3 4,8 
Kiểm định chính xác Fisher cho thấy không 
có mối liên quan giữa trình đồ người bán thuốc, 
chứng chỉ hành nghề, nơi được đào tạo chuyên 
môn với bán thuốc kháng sinh. Hồi quy poisson 
cho thấy không có mối liên quan giữa thời gian 
hành nghề với bán thuốc kháng sinh (Bảng 4). 
Bảng 4: Mối liên quan giữa tỉ lệ bán thuốc kháng sinh không có chỉ định của bác sĩ và các đặc điểm của nhân viên 
bán thuốc 
Đặc điểm Trường hợp viêm họng (n=63) Giá trị p Trường hợp cảm lạnh (n=63) Giá trị p 
Có kháng sinh 
(n=59, 93,7%) 
n% 
Không có kháng 
sinh (n=4, 6,3%) 
n% 
Có kháng sinh 
(n=56, 88,9%) 
n% 
Không có kháng sinh 
(n=7, 11,1%) 
n% 
Trình độ người bán thuốc 
Dược tá 19 (100,0) 0 (0,0) 0,431 
a
 19 ( 95,0) 1 (5,0) 0,582 
a
Dược sĩ trung cấp 27 (90,0) 3 (10,0) 26 (83,9) 5 (16,1) 
Khác 13 (92,9) 1 (7,1) 11 (91,7) 1 (8,3) 
Chứng chỉ hành nghề dược 
Có 48 (94.1) 3 (5,9) 1,000 
a
 47 (88,7) 6 (11,3) 1,000 
a
Không 11 (91.7) 1 (8,3) 9 (90,0) 1 (10,0) 
Nơi được đào tạo chuyên môn 
Cao đẳng y tế Phú Yên 45 (91,8) 4 (8,2) 0,567 
a
 44 (88,0) 6 (12,0) 1,000 
a
Khác 14 (100,0) 0 (0,0) 12 (92,3) 1 (7,7) 
Thời gian hành nghề 7 (5-12) 
c 
6 (4,5-8) 
c 
0,842 
b 
6,5 (4-12,5) 
c 
7 (6-10) 
c 
0,828 
b
a: Kiểm định chính xác Fisher, b: Hồi quy poisson 
BÀN LUẬN 
Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Phú Yên sử 
dụng định vị GPS để ghi nhận thông tin vị trí 
nhà thuốc và sử dụng phương pháp giả định 
tình huống để đánh giá thực trạng bán thuốc 
kháng sinh điều trị viêm đường hô hấp trên ở trẻ 
em. So với các nước trên thế giới khi sử dụng 
tình huống giả định về nhiễm trùng đường hô 
hấp để khảo sát về kháng sinh, tỉ lệ bán thuốc 
kháng sinh là khá cao(5,19). Sự khác biệt xảy ra có 
thể giải thích do kiến thức và thái độ của nhân 
viên nhà thuốc đối với tình huống nhiễm trùng 
hô hấp tại các quốc gia là khác nhau. Theo Luật 
Dược năm 2016, điều 42 có quy định rõ rằng, các 
cơ sở bán lẻ thuốc chỉ được bán thuốc kê đơn khi 
có đơn thuốc(4), mà kháng sinh lại là thuốc kê 
đơn(4). Trong một nghiên cứu tại Hà Nội vào 
năm 2001, tỉ lệ bán thuốc kháng sinh không có 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 42
đơn của bác sĩ trong tình huống nhiễm trùng hô 
hấp ở trẻ em là 83%(12), còn tại huyện Phú Hòa, 
con số này đều cao hơn trong cả hai tình huống 
viêm họng và cảm lạnh, thậm chí cao hơn 10% 
trong tình huống viêm họng (93,7%). Có thể 
nhận thấy, việc sử dụng kháng sinh trong cộng 
đồng vẫn chưa hợp lí, các nhà thuốc vẫn bán 
kháng sinh không cần đơn thuốc của bác sĩ cho 
dù đã triển khai Kế hoạch hành động quốc gia 
về chống kháng thuốc từ năm 2013(3). 
Thuốc kháng sinh phổ biến nhất là 
Amoxicillin trong hai tình huống viêm họng và 
cảm lạnh (23,7% và 25%). Theo các nghiên cứu 
sử dụng tình huống giả định tại Malaysia (năm 
2014) và Libya (năm 2017), Amoxicillin cũng là 
kháng sinh được sử dụng nhiều nhất, tuy nhiên 
tại các nước này, Amoxicillin được sử dụng 
nhiều hơn với tỉ lệ 35% tại Malaysia(2) và 53,5% 
tại Libya(1). Sự khác biệt này có thể là vị sự khác 
nhau về đối tượng nghiên cứu, trong các nghiên 
cứu tại Malaysia và Libya, ngoài đối tượng là 
nhà thuốc thì còn có các phòng khám đa khoa 
(nơi có bác sĩ chẩn đoán và kê đơn)(1,2). 
Trong một nghiên cứu sử dụng tình huống 
giả định bệnh tiêu chảy ở người lớn tại thành 
phố Hồ Chí Minh vào năm 2007, tỉ lệ khai thác 
thêm các triệu chứng bệnh tại quận 2, quận 5, 
quận Phú Nhuận lần lượt là 15,38%; 28,85% và 
34,58%(18). Có thể thấy tỉ lệ khai thác thêm về 
triệu chứng trong nghiên cứu tại huyện Phú 
Hòa cao hơn từ 2‐3 lần. Tuy nhiên, cũng thật 
khó để so sánh hai nghiên cứu với nhau vì sự 
khác nhau trong tình huống giả định (tiêu 
chảy người lớn và viêm họng/cảm lạnh trẻ 
em), cần có thêm những nghiên cứu với tình 
huống giả định tương tự để so sánh. Đáng chú 
ý, 44,4% nhà thuốc trong tình huống viêm 
họng và 50,8% nhà thuốc trong tình huống 
cảm lạnh cho người mua tự quyết định cho bé 
dùng bao nhiêu liều thuốc với các câu hỏi mà 
nhân viên hay hỏi NCV thường gặp như 
“muốn cho bé uống mấy ngày?”, “muốn cho 
bé uống mấy liều?”. Giải thích cho điều này có 
thể là do nhân viên nhà thuốc muốn cho người 
mua tự điều chỉnh theo khả năng tài chính của 
bản thân mình, tuy nhiên điều này là rất nguy 
hiểm. Để người mua, những người không am 
hiểu về thuốc, tự quyết định liều dùng có thể 
dẫn tới việc điều trị không hiệu quả, còn có thể 
gây ra việc đề kháng kháng sinh do không đủ 
liều lượng yêu cầu, nói cách khác, nhân viên 
bán thuốc phải là người quyết định cho người 
mua sử dụng thuốc bao nhiêu liều. 
Trong nghiên cứu này, các đặc điểm của 
nhân viên như trình độ, có chứng chỉ hành nghề, 
nơi đào tạo, thời gian hành nghề đã được xác 
định là không có mối liên quan đối với việc thực 
hành bán kháng sinh điều trị viêm đường hô 
hấp trên cho trẻ em không có chỉ định của bác sĩ 
tại các nhà thuốc tư nhân. 
Có thể kết luận rằng, đa số các nhân viên bán 
thuốc tại các nhà thuốc còn chưa chấp hành đầy 
đủ các quy định của Bộ Y tế trong việc bán thuốc 
kháng sinh và trong quá trình thực hành bán 
thuốc. Do đó, cần cải thiện và nâng cao thực 
hành bán thuốc của các nhân viên tại các nhà 
thuốc, song song với yêu cầu tự giác tuân thủ 
quy định của Bộ Y tế trong việc bán thuốc kháng 
sinh. Kết quả nghiên cứu này cung cấp số liệu 
cần thiết giúp cho các cơ quan chức năng đánh 
giá thực trạng bán thuốc kháng sinh từ đó đề ra 
biện pháp quản lí tốt hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahmed EA, Ahmed NA (2017). “Antibiotic prescribing for 
upper respiratory tract infections by Libyan community 
pharmacists and medical practitioners: An observational 
study”. Libyan journal of Medical Sciences, 1 (2): 31‐35. 
2. Alamin H, Mohamed I (2014). “Antibiotics Dispensing for 
URTIs by Community Pharmacists (CPs) and General Medical 
Practitioners in Penang, Malaysia: A Comparative Study using 
Simulated Patients (SPs)”. Journal of Clinical & Diagnostic 
Research, 8 (1): 119‐123. 
3. Bộ Y tế (2013). “Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng 
thuốc, Quyết định số 708/QĐ‐BYT ngày 02 tháng 3 năm 2015”, 
tr.15‐16. 
4. Bộ Y Tế (2016). “Luật Dược 2016”, Hà Nội, tr.17‐18. 
5. Chang J, Ye D, Lv B, Jiang M (2015). “Sale of antibiotics 
without a prescription at community pharmacies in urban 
China: a multicentre cross‐sectional survey”. Journal of 
Antimicrobial Chemotherapy, 72 (4): 1235‐1242. 
6. Committee for Population, Family and Children (2003). 
“Vietnam Demographic and Health Survey 200”, Hanoi, pp.96‐97. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 43
7. Do TN, Nguyen KC, Nguyen PH, Nguyen QH, Nguyen TN 
(2014). “Antibiotic sales in rural and urban pharmacies in 
northern Vietnam: an observational study”. BMC Pharmacol 
Toxicol, 15 (6): 50. 
8. Hersh AL, Jackson MA, Hicks LA (2013). “Principles of 
judicious antibiotic prescribing for upper respiratory tract 
infections in pediatrics”. Pediatrics, 132 (6): 1146‐54. 
9. Jim O (2014). “The Review on Antimicrobial Resistance: 
Tackling a crisis for the health and wealth of nations”. The UK 
Prime Minister, pp.13. 
10. Kenealy T, Arroll B (2013) “Antibiotics for the common cold 
and acute purulent rhinitis”. Cochrane Database Systematic 
Review, 6:CD000247. 
11. Nguyen GJ, Tan S, Vu AN, Del MCB (2015). “Antibiotics for 
preventing recurrent sore throat”. Cochrane Database Systematic 
Review, 14(7): CD008911. 
12. Nguyen KC, Mattias L, Torkel F (2001). "Management of 
childhood acute respiratory infections at private pharmacies in 
Vietnam". Sage journals, 35 (10): 1283‐1288. 
13. Nguyen QH, Mattias L, Nguyen KC, Bo E, Nguyen VT (2009). 
“Antibiotics and paediatric acute respiratory infections in rural 
Vietnam: health‐care providers’ knowledge, practical 
competence and reported practice”. Tropical Medicine & 
International Health, 14 (5): 16. 
14. Nhóm nghiên cứu Quốc gia của Việt nam‐ GARP (2010) “Hợp 
tác toàn cầu về kháng kháng sinh”. CDDEP 
15. Phạm Thị Minh Hồng (2006). “Viêm hô hấp trên”. In: Hoàng 
Trọng Kim. Nhi Khoa Chương trình Đại học, Tập 1, tr.306‐315. 
Nhà xuất bản Y học, thành phố Hồ Chí Minh. 
16. Spinks A, Glasziou PP, Del MCB (2013) “Antibiotics for sore 
throat”. Cochrane Database Systematic Review, 11: CD000023. 
17. Sun Q, Dyar OJ, Zhao L, Tomson G, Nilsson LE, Grape M, 
Song Y, Yan L, Lundborg CS (2015). “Overuse of antibiotics for 
the common cold ‐ attitudes and behaviors among doctors in 
rural areas of Shandong Province‐ China”. BMC Pharmacology 
and Toxicology, 16(6): 10.1186/s40360‐015‐0009‐x. 
18. Vương Thuận An, Trần Thiện Thuần (2007). “Thực hành bán 
thuốc điều trị tiêu chảy tại các nhà thuốc tây tư nhân TP.HCM 
năm 2007”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 12 (1): 43‐48. 
19. Woranuch S, Virasakdi C, Sanguan L, Payom W (2010). “Client 
and pharmacist factors affecting practice in the management of 
upper respiratory tract infection presented in community 
pharmacies: a simulated client study”. International Journal of 
Pharmacy Practice, 16 (4): 10‐12. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019