Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 221
THIẾU SẮT Ở BỆNH NHÂN SUY TIM MẠN 
Nguyễn Hồng Thoại*, Trần Kim Trang* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thiếu sắt ở bệnh nhân suy tim mạn chiếm tỉ lệ từ 30 – 50%. Thiếu sắt ảnh hưởng đến rối loạn 
chức năng cơ tim, ảnh hưởng xấu đến kết cục lâm sàng. Bù sắt (ferric carboxymaltose) giúp cải thiện khả năng 
gắng sức, chất lượng cuộc sống, giảm tỷ lệ nhập viện, tuy nhiên tỷ lệ bệnh nhân suy tim mạn thiếu sắt được điều 
trị còn thấp. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thiếu sắt trên bệnh nhân suy tim mạn. Đánh giá mối liên quan giữa thiếu sắt với 
các đặc điểm của suy tim mạn qua so sánh hai nhóm có và không có thiếu sắt. Khảo sát tỉ lệ bệnh nhân suy tim 
mạn thiếu sắt được điều trị. 
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả 138 bệnh nhân suy tim mạn từ tháng 
4 đến hết tháng 8 năm 2018 tại khoa Nội Tim Mạch, bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: Tỷ lệ thiếu sắt ở bệnh nhân suy tim mạn là 47,8%. Sau khi phân tích đa biến, giới nữ, nồng độ 
CRP và creatinin máu có liên quan đến tình trạng thiếu sắt. Không bệnh nhân nào được điều trị bù sắt nội viện. 
Kết luận: Tỷ lệ thiếu sắt khá cao nhưng không bệnh nhân nào được điều trị nội viện. Nhiều đặc điểm lâm 
sàng có liên quan đến tình trạng thiếu sắt. 
Từ khóa: thiếu sắt tuyệt đối, thiếu sắt tương đối, suy tim mạn, ferric carboxymaltose 
ABSTRACT 
IRON DEFICIENCY IN PATIENT WITH CHRONIC HEART FAILURE 
Nguyen Hong Thoai, Tran Kim Trang 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 221-225 
Background: The rate of iron deficiency in chronic heart failure fluctuates from 30% to 50%. Iron deficiency 
affects myocardial dysfunction and is related to worse clinical outcomes. Using ferric carboxymaltose can improve 
exertional capacity, quality of life, hospital readmission rate. Unfortunately, the number of treated iron deficiency 
in patients with chronic heart failure remained low. 
Objective: To determine the rate of iron deficiency in chronic heart failure patients and evaluate the relation 
between iron deficiency and characteristics of chronic heart failure by comparing iron deficiency group and non-
iron deficiency group. We also want to determine the rate of chronic heart failure patients with iron deficiency 
treated with iron. 
Subjects and method: A cross-sectional study with 138 chronic heart failure patients. 
Results: The rate of iron deficiency in chronic heart failure is 47.8%. After multivariable analyses, female, 
CRP and creatinine are found to be related to iron deficiency status. No inpatient was treated with iron. 
Conclusion: Rate of iron deficiency was high in patients with chronic heart failure, but no inpatient 
treatment was noted. Many clinical features were elated to iron deficiency status. 
Key words: Absolute iron deficiency, functional iron deficiency, heart failure, ferric carboxymaltose 
*Bộ môn Nội Tổng quát - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Hồng Thoại ĐT: 0767107164 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Nội Khoa 222
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Suy tim là hậu quả sau cùng của các bệnh lý 
tim mạch và ngày càng trở nên phổ biến. Ở bệnh 
nhân suy tim, thiếu sắt có tần suất 30 – 50%, 
nhưng thường bị bỏ qua(3). Thiếu sắt cũng rất 
thường gặp ở bệnh nhân nhập viện vì đợt mất 
bù cấp của suy tim mạn, kể cả bệnh nhân (BN) 
không thiếu máu với tỉ lệ 69% ở nam và 75% ở 
nữ. Thiếu sắt góp phần làm rối loạn chức năng 
cơ tim và cơ ngoại vi, liên quan kết cục lâm sàng 
xấu, tăng nguy cơ tử vong, độc lập với nồng độ 
hemoglobin(2). Trong một loạt các nghiên cứu 
ngẫu nhiên có so sánh với giả dược trên bệnh 
nhân suy tim và thiếu sắt, bù sắt tĩnh mạch cải 
thiện khả năng gắng sức, phân độ suy tim theo 
NYHA, phân suất tống máu, chức năng thận 
và chất lượng cuộc sống(3). ESC 2016 khuyến 
cáo nên tầm soát thiếu sắt trên bệnh nhân 
suy tim mạn bằng việc theo dõi các thông số 
sắt (ferritin huyết thanh, độ bão hòa 
transferrin) cho tất cả bệnh nhân suy tim. 
Bù sắt bằng đường tĩnh mạch nên được thực 
hiện ở bệnh nhân suy tim với phân suất 
tống máu giảm và thiếu sắt (ferritin huyết 
thanh <100µg/L, hoặc 100<ferritin<299µg/L 
và độ bão hòa transferrin <20%) nhằm cải 
thiện triệu chứng suy tim, khả năng gắng 
sức và chất lượng cuộc sống(10). 
Mục tiêu nghiên cứu 
Khảo sát tình trạng thiếu sắt trên BN suy 
tim mạn với 3 mục tiêu chuyên biệt là: 
Xác định tỷ lệ thiếu sắt trên BN suy tim mạn. 
Đánh giá mối liên quan giữa thiếu sắt 
với các đặc điểm của suy tim mạn qua so 
sánh hai nhóm có và không có thiếu sắt. 
Khảo sát tỉ BN suy tim mạn thiếu sắt được 
điều trị (ferric carboxymaltose, sắt uống). 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Đối tượng nghiên cứu 
BN được chẩn đoán suy tim mạn. 
Phương pháp chọn mẫu 
Thuận tiện. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân ≥ 18 tuổi được chẩn đoán suy tim 
mạn từ trước, nhập khoa Nội tim mạch Bệnh 
viện Chợ Rẫy trong thời gian nghiên cứu từ 
tháng 4 đến hết tháng 8 năm 2018. 
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các bệnh lý ảnh hưởng đến quá trình 
chuyển hóa sắt như bệnh lý ác tính đã biết trước, 
suy thận nặng cần lọc máu, bệnh lý huyết học 
như ung thư máu, loạn sinh tủy, viêm gan cấp, 
viêm gan mạn. 
Có tình trạng xuất huyết cấp. 
Có tình trạng nhiễm trùng và CRP >10mg/L. 
Đã được truyền máu hay dùng EPO trước đó. 
Phụ nữ có thai và cho con bú. 
Cỡ mẫu 
  ≥     / 
 
 (1 −  )
  
Trong đó: n là cỡ mẫu, chọn d (là sai số cho phép là) 0,1 
α là 0,05 tương ứng với Z_(1- α/2) = 1,96 
Dựa vào nghiên cứu của Ijsbrand T. Klip 
(2013) (6), n = 1506, tỉ tệ thiếu sắt chung cho dân 
số suy tim là 50%. 
  ≥
 .    ×  .  × . 
 .  
=97 
Cỡ mẫu cho nghiên cứu ít nhất là 97 bệnh nhân. 
KẾT QUẢ 
Qua 138 bệnh nhân. 
Tỷ lệ thiếu sắt ở bệnh nhân suy tim mạn 
Là 47,8%, trong đó thiếu sắt tuyệt đối chiếm 
13%, thiếu sắt tương đối chiếm 34,8%. 
Bảng 1. Các xét nghiệm đánh giá tình trạng sắt 
Xét nghiệm Thiếu sắt* Không thiếu sắt* 
Ferritin (ng/mL) 150,9 (92,6–205,8) 402,8 (301,85–597,15) 
Độ bão hòa 
transferrin (%) 
10,32 (4,49–13,91) 20,21 (12,55 – 26,68) 
Mối liên quan giữa thiếu sắt với các đặc điểm 
của suy tim mạn 
Các đặc điểm bao gồm giới tính, phân độ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 223
suy tim theo NYHA, tình trạng thiếu máu, các 
xét nghiệm huyết học, nồng độ creatinin máu, 
BNP và CRP giữa hai nhóm thiếu sắt và không 
thiếu sắt khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. 
Ngoài ra, các yếu tố tuổi, thuốc điều trị suy tim 
(ACEi/ARB, ức chế beta, kháng aldosteron, lợi 
tiểu, statin, kháng đông, kháng tiểu cầu), bệnh lý 
đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh mạch vành, 
natri máu và phân suất tống máu thất trái không 
có sự khác biệt giữa hai nhóm. 
Bảng 2. Liên quan với giới tính 
Giới 
Thiếu sắt 
(n, %) 
Không thiếu sắt 
(n, %) 
p OR 
KTC 
95% 
Nữ 46 (69,7) 31 (43,1) 
0,002 
3,0
4 
1,507 – 
6,14 Nam 20 (30,3) 41 (56,9) 
Tổng cộng 66 (100) 72 (100) 
Bảng 3. Liên quan với phân độ suy tim theo NYHA 
Độ suy tim 
NYHA 
Thiếu sắt 
(n, %) 
Không thiếu 
sắt (n, %) 
p OR 
KTC 
95% 
II 15 (22,7) 30 (41,7) 0,01
8 
2,4
3 
1,16 – 
5,1 III, IV 51 (77,3) 42 (58,3) 
Tổng cộng 66 (100) 72 (100) 
Bảng 4. Liên quan với các xét nghiệm huyết học 
Các xét 
nghiệm 
Thiếu sắt* Không thiếu sắt* p 
HGB (g/L) 114,1 ± 21,0 131,4 ± 16,4 0,000 
MCV (fL) 89,7 (85,6 – 94,8) 91,1 (88,7 – 94,8) 0,034 
MCH (pg) 28,6 (27,4 – 30,3) 30,1 (29,3 – 31,1) 0,000 
MCHC (g/L) 319 ± 12 328 ± 12 0,000 
Bảng 5. Liên quan với tình trạng thiếu máu 
 Thiếu sắt 
(n, %) 
Không thiếu 
sắt (n, %) 
p OR 
KTC 
95% 
Thiếu máu 45 (68,2) 21 (29,2) 
0,000 5,2 
2,52 – 
10,75 Không thiếu máu 21 (31,8) 51 (70,8) 
Tổng cộng 66 (100) 72 (100) 
Bảng 6. Liên quan với các chỉ số sinh hóa khác 
Các chỉ số Thiếu sắt* Không thiếu sắt* p 
Creatinin 
(mg/dL) 
1,35 (1,07 – 1,89) 1,18 (1,03 – 1,35) 0,012 
BNP (pg/mL) 1709,0 
(939,2 – 2689,2) 
903,3 
(314,1 – 2379,3) 
0,005 
CRP (mg/L) 7,3 (2,7 – 8,7) 3,6 (1,9 – 6,9) 0,018 
Sau khi đưa vào mô hình hồi quy đa biến 
hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu, chỉ còn giới 
tính nữ và nồng độ CRP liên quan có ý nghĩa 
thống kê với thiếu sắt ở bệnh nhân suy tim 
mạn (p < 0,05). 
Tỷ lệ bệnh nhân suy tim mạn thiếu sắt được 
điều trị 
Không có bệnh nhân nào được điều trị bằng 
sắt đường uống hoặc đường tĩnh mạch nội viện. 
Có hai bệnh nhân trong tổng số 66 bệnh nhân 
suy tim mạn thiếu sắt, chiếm 3,03% và chiếm 
1,45% dân số nghiên cứu được điều trị bằng sắt 
đường uống trước khi nhập viện. 
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ thiếu sắt ở bệnh nhân suy tim mạn 
Nhiều nghiên cứu đã báo cáo tần suất lưu 
hành của thiếu sắt lên đến 30 – 50% ở bệnh nhân 
suy tim, bất kể bệnh nhân có thiếu máu hay 
không(3). Do không có định nghĩa chuẩn của 
thiếu sắt trong suy tim mạn cũng như các nghiên 
cứu khác nhau sử dụng những tiêu chuẩn khác 
nhau nên có sự khác biệt lớn về tỷ lệ báo cáo. 
Như trong nghiên cứu của John N. Nanas(8), tác 
giả sử dụng phương pháp chọc hút tủy xương 
để chẩn đoán thiếu sắt và ghi nhận tỷ lệ thiếu sắt 
lên đến 73% trong số 37 bệnh nhân suy tim mạn. 
Nghiên cứu của Jankowska (36,4%)(5), Cristina 
Enjuanes (58%)(4) tuy có tỷ lệ khác chúng tôi 
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa. 
Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ bệnh nhân 
thiếu sắt khá tương đồng với các nghiên cứu của 
các tác giả Klip (50%)(6), Cleland (43,8%)(1), 
Nguyễn Ngọc Mai (49,2%)(9). 
Như vậy qua nghiên cứu trên 138 bệnh nhân 
suy tim mạn, chúng tôi ghi nhận có 66 bệnh 
nhân thiếu sắt, chiếm 47,8%. Điều đó cho thấy, 
thiếu sắt rất phổ biến trên bệnh nhân suy tim 
mạn và là một vấn đề cần được quan tâm nhiều 
hơn nữa trong thực hành lâm sàng. 
Mối liên quan giữa thiếu sắt với các đặc điểm 
của suy tim mạn 
Các đặc điểm bao gồm giới tính, phân độ 
suy tim theo NYHA, tình trạng thiếu máu, các 
xét nghiệm huyết học, nồng độ creatinin máu, 
BNP và CRP giữa hai nhóm thiếu sắt và không 
thiếu sắt khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. 
Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Nội Khoa 224
của các tác giả khác như Jankowska(5), Klip(6), 
Enjuanes(4) và Nguyễn Ngọc Mai(9). 
Sau khi đưa vào mô hình phân tích hồi quy 
đa biến, chúng tôi ghi nhận các yếu tố có liên 
quan với thiếu sắt trên bệnh nhân suy tim mạn 
gồm giới tính nữ (OR = 2,598), nồng độ CRP 
(OR = 1,136) và nồng độ creatinin máu (OR = 
2,233), p < 0,05. So sánh với tác giả 
Jankowska(7) và Klip(6), tuy có sự khác biệt các 
yếu tố trong mô hình phân tích, giới nữ và 
nồng độ CRP (hs-CRP) có liên quan độc lập 
với thiếu sắt là điều được chúng tôi và hai tác 
giả trên ghi nhận. Các tác giả trên còn ghi nhận 
mức suy tim nặng theo NYHA và NT-proBNP 
có liên quan độc lập với thiếu sắt nhưng chúng 
tôi chưa tìm được mối liên quan đó. Ngoài ra 
chúng tôi ghi nhận thêm nồng độ creatinin 
máu có liên quan có ý nghĩa với tình trạng 
thiếu sắt. 
Tỷ lệ bệnh nhân suy tim mạn thiếu sắt được 
điều trị 
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 138 
bệnh nhân suy tim mạn nhập viện, không có 
bệnh nhân nào được điều trị sắt đường tĩnh 
mạch trước đó cũng như trong thời gian nằm viện. 
Chúng tôi ghi nhận có 2 bệnh nhân trong 
số 66 bệnh nhân suy tim mạn có thiếu sắt được 
điều trị bằng sắt đường uống ngoại trú, chiếm 
tỷ lệ 3,03%. Hai bệnh nhân này có các đặc 
điểm bệnh lý dễ có nguy cơ thiếu sắt như đều 
là nữ giới, suy tim NYHA III, bệnh thận mạn, 
eGFR 68,08 và 41,13mL/min/1,73m2, BNP cao, 
thiếu máu từ mức độ nhẹ đến trung bình. Cả 
hai bệnh nhân đều thuộc nhóm thiếu sắt tương 
đối, 100ng/mL < ferritin < 299ng/mL và độ bão 
hòa transferrin < 20%. 
Điều trị thiếu sắt nên được thực hiện trên tất 
cả các bệnh nhân suy tim có thiếu sắt bất kể bệnh 
nhân có thiếu máu hay không, sẽ mang lại nhiều 
lợi ích cho người bệnh nhân trong việc cải thiện 
khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống và làm 
giảm tỷ lệ nhập viện. Nghiên cứu của chúng tôi 
thực hiện trên 138 bệnh nhân suy tim mạn nhập 
viện tại bệnh viện Chợ Rẫy trong 5 tháng, trong 
đó có 66 bệnh nhân suy tim mạn thiếu sắt, ghi 
nhận 2 bệnh nhân được điều trị sắt đường uống 
trước đó. Tỷ lệ này còn khá thấp, và liều điều trị 
sắt uống chỉ có 200 mg ion sắt/ngày, thấp hơn 
liều đã sử dụng trong nghiên cứu IRONOUT – 
HF(7) là 300 mg/ngày. Hai bệnh nhân trong 
nghiên cứu đều thuộc nhóm thiếu sắt tương đối, 
để bù sắt trên những bệnh nhân này, cần sử 
dụng sắt truyền tĩnh mạch vì trên những bệnh 
nhân suy tim có nhiều yếu tố khác nhau cản trở 
việc bù sắt bằng đường uống. Dùng sắt đường 
tĩnh mạch sẽ làm tăng lượng sắt vào trong tế bào 
vì vượt qua nhiều cơ chế hấp thu, vận chuyển, 
dự trữ đã bị suy yếu ở bệnh nhân suy tim mạn. 
Do vậy việc sử dụng sắt đường uống và chưa 
đạt liều theo khuyến cáo như hai bệnh nhân trên 
sẽ làm kéo dài thời gian bù sắt lên đến 6 tháng, 
tăng tác dụng phụ trên đường tiêu hóa, dẫn đến 
khó khăn trong việc tuân thủ các loại thuốc điều 
trị suy tim khác. 
HẠN CHẾ 
Chưa khảo sát được nhóm đối tượng bệnh 
nhân suy tim mạn ngoại trú cũng như suy tim 
với phân suất tống máu bảo tồn, NYHA I 
Chưa khảo sát tình hình kinh tế và chế độ 
dinh dưỡng của bệnh nhân, có thể ảnh hưởng 
đến thiếu sắt. 
Chưa khảo sát nguyên nhân thiếu sắt trên 
những bệnh nhân suy tim thiếu sắt. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 138 bệnh nhân suy tim mạn 
nhập viện tại khoa Nội Tim Mạch Bệnh viện 
Chợ Rẫy từ tháng 4 đến hết tháng 8 năm 2018, 
chúng tôi rút ra được kết luận như sau: 
Tỷ lệ thiếu sắt ở bệnh nhân suy tim mạn 
Tỷ lệ thiếu sắt ở bệnh nhân suy tim mạn là 
47,8% trong đó thiếu sắt tuyệt đối chiếm 13,0%, 
thiếu sắt tương đối chiếm 34,8%. 
Mối liên quan giữa thiếu sắt và các đặc điểm 
của suy tim mạn 
Sau khi phân tích hồi quy đa biến, các yếu tố 
giới nữ, nồng độ CRP và nồng độ creatinin máu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 225
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình 
trạng thiếu sắt. 
Tỷ lệ bệnh nhân suy tim mạn thiếu sắt được 
điều trị 
Không có bệnh nhân suy tim mạn thiếu sắt 
nào được điều trị bằng sắt đường tĩnh mạch hay 
sắt đường uống nội viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cleland JG, Zhang J, Pellicori P et al (2016). “Prevalence and 
Outcomes of Anemia and Hematinic Deficiencies in Patients 
With Chronic Heart Failure”. JAMA Cardiol, 1(5):539-47. 
2. Cohen-Solal A, Damy T, Terbah M et al (2014). “High 
prevalence of iron deficiency in patients with acute 
decompensated heart failure”. Eur J Heart Fail, 16 (9):984-91. 
3. Cohen-Solal A, Leclercq C, Deray G et al (2014). “Iron 
deficiency: an emerging therapeutic target in heart failure”. 
Heart, 100(18):1414-20. 
4. Enjuanes C, Klip IT, Bruguera J et al (2014). “Iron deficiency 
and health-related quality of life in chronic heart failure: 
results from a multicenter European study”. Int J Cardiol, 
174(2):268-75. 
5. Jankowska EA, Rozentryt P, Witkowska A et al (2010). “Iron 
deficiency: an ominous sign in patients with systolic chronic 
heart failure”. Eur Heart J, 31(15):1872-80. 
6. Klip IT, Comin-Colet J, Voors AA et al (2013). “Iron 
deficiency in chronic heart failure: an international pooled 
analysis”. Am Heart J, 165(4): 575-582.e3. 
7. Lewis GD, Malhotra R, Hernandez AF, McNulty SE, Smith 
A et al (2017). “Effect of Oral Iron Repletion on Exercise 
Capacity in Patients With Heart Failure With Reduced 
Ejection Fraction and Iron Deficiency: The IRONOUT HF 
Randomized Clinical Trial”. Jama, 317(19):1958-1966. 
8. Nanas JN, Matsouka C, Karageorgopoulos D, Leonti A, 
Tsolakis E et al (2006). “Etiology of anemia in patients with 
advanced heart failure”. J Am Coll Cardiol, 48(12):2485-9. 
9. Nguyễn Ngọc Mai, Trần Kim Trang (2016). “Tình trạng 
thiếu sắt ở bệnh nhân suy tim mạn”. Luận văn Thạc sĩ Y học, 
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
10. Ponikowski P, Voors AA, Anker SD, Bueno H, Cleland JG et 
al (2016). “ESC Guidelines for the diagnosis and treatment of 
acute and chronic heart failure”. Kardiol Pol, 74(10):1037-1147. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019