Thay đổi một số chỉ số sinh lý và hóa sinh trên bệnh nhân đau thắt lưng được điều trị bằng điện châm

Tài liệu Thay đổi một số chỉ số sinh lý và hóa sinh trên bệnh nhân đau thắt lưng được điều trị bằng điện châm: Tạp chí y - d−ợc học quân sự số 8-2018 32 THAY ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH Lí VÀ HểA SINH TRấN BỆNH NHÂN ĐAU THẮT LƯNG ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG ĐIỆN CHÂM Phạm Hồng Võn1; Lờ Văn Quõn2 TểM TẮT Mục tiờu: xỏc định biến đổi một số chỉ số sinh lý và húa sinh ở bệnh nhõn đau thắt lưng dưới ảnh hưởng của điện chõm. Đối tượng và phương phỏp: nghiờn cứu 90 bệnh nhõn đau thắt lưng được điều trị bằng điện chõm cỏc huyệt trong một liệu trỡnh điều trị 7 ngày điện chõm. Kết quả: kết quả thay đổi cỏc chỉ số húa sinh cho thấy điện chõm làm tăng hàm lượng chất trung gian húa học tham gia vào cơ chế chống đau gồm β-endorphin, adrenalin, noradrenalin sau 1 ngày và 7 ngày điều trị. Tuy nhiờn, khụng cú sự khỏc biệt cú ý nghĩa thống kờ về cỏc chỉ số của cụng thức mỏu, chức năng gan, thận và chỉ số sinh lý (mạch, huyết ỏp, nhịp thở) trờn bệnh nhõn giữa trước và sau điều trị. Kết luận: điện chõm là phương phỏp an toàn và cú hiệu quả trong điều trị bệnh đau thắt lưng. * Từ khúa: Đau thắt ...

pdf9 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 109 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thay đổi một số chỉ số sinh lý và hóa sinh trên bệnh nhân đau thắt lưng được điều trị bằng điện châm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 32 THAY ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH LÝ VÀ HÓA SINH TRÊN BỆNH NHÂN ĐAU THẮT LƯNG ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG ĐIỆN CHÂM Phạm Hồng Vân1; Lê Văn Quân2 TÓM TẮT Mục tiêu: xác định biến đổi một số chỉ số sinh lý và hóa sinh ở bệnh nhân đau thắt lưng dưới ảnh hưởng của điện châm. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu 90 bệnh nhân đau thắt lưng được điều trị bằng điện châm các huyệt trong một liệu trình điều trị 7 ngày điện châm. Kết quả: kết quả thay đổi các chỉ số hóa sinh cho thấy điện châm làm tăng hàm lượng chất trung gian hóa học tham gia vào cơ chế chống đau gồm β-endorphin, adrenalin, noradrenalin sau 1 ngày và 7 ngày điều trị. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các chỉ số của công thức máu, chức năng gan, thận và chỉ số sinh lý (mạch, huyết áp, nhịp thở) trên bệnh nhân giữa trước và sau điều trị. Kết luận: điện châm là phương pháp an toàn và có hiệu quả trong điều trị bệnh đau thắt lưng. * Từ khóa: Đau thắt lưng; Điện châm; Chỉ số sinh hóa, hóa sinh. Changes in some Physiological and Biochemical Parameters in Patients with Chronic Low Back Pain Treated by Acupunture Summary Objectives: To investigate changes of some physiological and biochemical parameters in patients with chronic low back pain underlying acupunture treatments. Subjects and methods: 90 chronic low back pain patients were treated by acupunture on 7 consecutive days. Results: There were significant increases in serum concentrations of β-endorphin, adrenalin, noradrenalin at the first day and seventh day after treatment, in compared to those before treatment. However, there were no significant differences in hematological indices and some physiological parameters (pulses, blood pressures and respiratory rates) between before and after treatment in these patients. Conclusion: Acupunture is a safe and effective method to patients with chronic low back pain. * Keywords: Chronic low back pain; Acupunture; Physiological and biochemical parameters. ĐẶT VẤN ĐỀ Đau thắt lưng là chứng đau phổ biến nhất do nhiều nguyên nhân gây ra và hay tái phát. Ở Việt Nam, đau thắt lưng chiếm tỷ lệ 2% trong cộng đồng, 6% trong tổng số các bệnh xương khớp, chủ yếu tập trung ở độ tuổi lao động (từ 18 - 50 tuổi) [1]. 1. Bệnh viện Châm cứu TW 2. Bệnh viện Quân y 103 Người phản hồi (Corresponding): Lê Văn Quân (levanquan2002@yahoo.com) Ngày nhận bài: 03/04/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/09/2018 Ngày bài báo được đăng: 25/09/2018 t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 33 Theo Y học cổ truyền (YHCT), đau thắt lưng có tên gọi là chứng “Yếu thống", được mô tả rất rõ trong y văn cổ, bao gồm các thể thận hư, thể phong hàn thấp và thể huyết ứ [6, 9]. Về điều trị đau thắt lưng, cả Y học hiện đại (YHHĐ) và YHCT đều hướng tới mục tiêu giảm đau, tránh đau kéo dài để trở thành đau mạn tính, ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của người bệnh. YHHĐ điều trị đau thắt lưng chủ yếu bằng phương pháp nội khoa bảo tồn, dùng các thuốc giảm đau, giãn cơ. YHCT cũng có những phương pháp điều trị đau thắt lưng như dùng thuốc thang sắc uống hay các phương pháp không dùng thuốc như châm cứu, bấm huyệt... Điện châm là phương pháp điều trị kết hợp giữa tác dụng của châm theo YHCT với tác dụng kích thích của xung điện lên huyệt vị đã khẳng định được hiệu quả không những làm giảm đau mà còn nhanh chóng khôi phục lại tầm vận động cột sống, góp phần không nhỏ vào điều trị chứng đau thắt lưng. Nhằm tìm hiểu các yếu tố liên quan đến điện châm trên cơ thể người bệnh, qua đó cho phép đánh giá khách quan hiệu quả của điện châm trong điều trị, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu với mục tiêu: Xác định sự biến đổi một số chỉ số sinh lý và hóa sinh ở bệnh nhân (BN) đau thắt lưng dưới ảnh hưởng của điện châm. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu. BN tuổi ≥ 30, không phân biệt giới tính, điều trị tại Bệnh viện Châm cứu TW được chẩn đoán là đau thắt lưng do thoái hóa cột sống theo YHHĐ và đau thắt lưng thể thận hư theo YHCT. * Tiêu chuẩn chọn BN: - Theo YHHĐ: BN đau vùng thắt lưng, tuổi ≥ 30. Ấn điểm đau cạnh sống đau và vận động cột sống hạn chế. - Dấu hiệu Schober tư thế đứng ≤ 13/10 cm. - X quang thường quy: có hình ảnh thoái hóa cột sống. - Theo YHCT: BN đau thắt lưng thể thận hư với các triệu chứng: đau mỏi vùng ngang thắt lưng, đau mạn tính lâu ngày, ê ẩm, đau nhiều về đêm, nằm nghỉ đỡ đau, BN thích xoa bóp, ngại vận động. Mỏi gối. Chất lưỡi nhạt màu, rêu lưỡi mỏng. Mạch trầm tế. * Tiêu chuẩn loại trừ: BN đau thắt lưng không thuộc thể thận hư theo các tiêu chuẩn của YHHĐ và YHCT, đau thắt lưng có kèm theo các bệnh mạn tính khác, từ chối tham gia nghiên cứu hoặc không tuân thủ theo quy trình điều trị. 2. Phương pháp nghiên cứu. * Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả có so sánh trước - sau điều trị. Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tự đối chứng, cỡ mẫu 90 BN được điều trị bằng điện châm tả các huyệt Đại trường du, Giáp tích L1-L5, Uỷ trung, Thứ liêu, Hoàn khiêu, Trật biên, Dương lăng tuyền, châm bổ huyệt Thận du liệu trình 7 ngày điện châm. * Chỉ tiêu nghiên cứu và cách xác định: - Mạch, huyết áp, nhịp thở: xác định tại 3 thời điểm: ngày vào viện (N0), sau điện T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 34 châm 1 ngày (N1) và sau 7 ngày điều trị (N7) bằng máy Datascope (Nhật Bản). - Các chỉ số hóa sinh (hàm lượng β-endorphin, adrenalin, noradrenalin) trong máu BN tại các thời điểm trước điều trị, sau 1 lần điều trị và sau 7 ngày điều trị bằng máy Biosence (Mỹ) bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang. - Các chỉ số huyết học (số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, nồng độ ure, creatinin, AST, ALT) trong máu BN tại các thời điểm trước và sau điều trị bằng máy Tokyo Boeki Biolis 50I (Nhật Bản). * Xử lý số liệu: bằng phương pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Để chứng minh một cách khoa học, khách quan hiệu quả của điện châm trong điều trị bệnh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu biến đổi một số chỉ số hóa sinh dưới tác dụng điện châm các huyệt. Các chỉ số nghiên cứu gồm hàm lượng chất trung gian hoá học tham gia vào cơ chế chống đau như catecholamin, β-endorphin; các chỉ số huyết học (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu) và chỉ số hoá sinh đánh giá chức năng gan, thận (AST, ALT, ure, creatinin) trong máu BN tại các thời điểm trước điều trị, sau 1 lần điều trị và sau 7 ngày điều trị. Bảng 1: Biến đổi hàm lượng catecholamin trong máu BN dưới ảnh hưởng của điện châm (n = 30). Thời điểm nghiên cứu Chỉ số nghiên cứu N0 (1) N1 (2) N7 (3) Adrenalin (pg/ml) 48,37 ± 14,98 49,86 ± 13,65 57,63 ± 13,89 p p1-2 > 0,05 p1-3 < 0,01 p2-3 < 0,01 Noradrenalin (pg/ml) 342,35 ± 60,24 366,87 ± 63,29 379,41 ± 72,67 p p1-2 < 0,05 p1-3 < 0,01 p2-3 < 0,05 Catecholamin (thuật ngữ chỉ cả adrenalin, noradrenalin và dopamin) thuộc hệ adrenergic, là những chất trung gian hóa học dẫn truyền thần kinh có nguồn gốc từ axít amin tyrosin và cơ chế chống đau của cơ thể đã được chứng minh [4, 7, 8]. Sau điều trị lần thứ nhất, hàm lượng adrenalin tăng từ 48,37 pg/ml lên 49,86 pg/ml, noradrenalin tăng từ 342,35 pg/ml lên 366,87 pg/ml. Sau 7 ngày điều trị, hàm lượng noradrenalin có tăng tuy không nhiều. Sự khác biệt theo hàm lượng catecholamin sau điện châm, sau đợt điều trị so với trước điện châm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Bài tiết noradrenalin nhiều là do nơ ron nằm trong não, vùng dưới đồi, cầu não theo các sợi trục lan tỏa lên vỏ não góp t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 35 phần hoạt hóa và giúp cho vỏ não kiểm soát hoạt động chung. Phần lớn sợi hậu hạch giao cảm bài tiết noradrenalin có tác dụng kích thích lên một số cơ quan này nhưng lại ức chế một số cơ quan khác. Noradrenalin giải phóng trực tiếp vào mô chỉ có tác dụng trong vài giây, chứng tỏ sự tái nhập và khuếch tán của nó xảy ra nhanh. Tuy vậy, noradrenalin và adrenalin do tuỷ thượng thận giải phóng vào máu vẫn còn tác dụng chừng nào chúng tới mô và rồi bị enzym COMT phá huỷ (chủ yếu ở gan). Khi giải phóng vào máu, adrenalin và noradrenalin vẫn còn tác dụng mạnh trong 10 - 30 giây, giảm dần sau một đến vài phút [7, 8]. Cơ chế tác dụng của điện châm theo thuyết phản xạ thần kinh thể dịch tạo ra 3 loại phản ứng: tại chỗ, tiết đoạn, toàn thân. Kích thích của điện châm được dẫn truyền theo thần kinh tạo ra các cung phản xạ ức chế phản xạ bệnh lý. Việc tăng chất dẫn truyền thần kinh sau điện châm chứng tỏ hệ thần kinh tự chủ (hệ thần kinh thực vật) đã được hoạt hóa. Hoạt hóa hệ thần kinh tự chủ trong điện châm đã được nhiều tác giả đề cập. Một số nghiên cứu về điện châm đều thấy hàm lượng acetylcholin và catecholamin trong máu tăng cao sau 30 phút điện châm. Các tác giả còn thấy hàm lượng acetylcholin tăng nhiều hơn so với tăng hàm lượng catecholamin, dẫn tới nhịp tim và huyết áp giảm rõ rệt [3, 4]. Như vậy, hàm lượng adrenalin và noradrenalin tăng sau điều trị lần một và sau điều trị 7 ngày, theo chúng tôi là do dưới tác dụng kích thích huyệt qua kim châm cứu của xung điện tạo ra từ máy điện châm đã làm hoạt hoá hệ thần kinh tự chủ (hệ thần kinh thực vật) theo cơ chế thần kinh thể dịch. Hiện tượng điện châm làm tăng hàm lượng catecholamin máu cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan sát thấy trên người và trên động vật thực nghiệm [4, 7, 8]. Catecholamin là chất tham gia kiểm soát cảm giác đau, do đó tạo được trạng thái giảm đau. Các tác giả cho rằng điện châm gây ra các xung động từ huyệt truyền về thần kinh trung ương, gây phản ứng thần kinh thể dịch sản sinh ra chất hóa học có tác dụng giảm đau như endorphin, catecholamin, serotonin. Ngoài tác dụng giảm đau, catecholamin còn phối hợp với các chất trung gian hóa học khác tham gia điều hòa chức năng của nhiều hệ thống cơ quan khác nhau, như hệ nội môi, tuần hoàn, tiêu hóa, chuyển hóa, nội tiết, thần kinh và cả hệ miễn dịch, tạo trạng thái “cân bằng âm-dương” theo quan niệm của y học phương Đông [7, 8, 9]. Bảng 2: Biến đổi hàm lượng β-endorphin trong máu BN dưới ảnh hưởng của điện châm (n = 30). Thời điểm nghiên cứu N0 (1) N1 (2) N7 (3) Hàm lượng β-endorphin (pg/ml) 58,12 ± 10,34 63,39 ± 12,57 67,25 ± 13,26 p p1-2 < 0,05 p1-3 < 0,001 p2-3 < 0,05 Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu, cơ chế chống đau của cơ thể con người theo hai con đường thần kinh và thần kinh - thể dịch. Trong chống đau theo con đường thần kinh - thể dịch, các chất trung gian hoá học giữ một vai trò T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 36 đặc biệt quan trọng. Việc tìm ra các thụ thể (receptor) đặc hiệu của opium ở não vào năm 1973 của Simond E.J và Snyder H cho thấy có các loại micro-receptor (µ), beta (δ), kapa (k). Chất tác động chủ yếu lên µ-receptor là β-endorphin, enkephalin. Các µ-receptor được phân bố chủ yếu ở đồi thị (thalamus), vùng dưới đồi (hypothalamus), thân não, tuỷ sống, hồi tràng (đám rối Auerbach). Các chất tiếp nhận µ-receptor opiat này có tác dụng giảm đau mạnh, giảm hô hấp, giảm nhịp tim, hạ huyết áp, an thần. Chúng là các neuropeptit nội sinh có tác dụng chính là giảm đau và được đặt tên là endomorphin (morphin nội sinh). Cùng với tăng hàm lượng catecholamin (bảng 2), hàm lượng β-endorphin trong máu cũng tăng lên có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) dưới tác dụng của điện châm. Trước điều trị, hàm lượng β-endorphin trung bình trong máu của BN là 58,12 ± 10,34 pg/ml, sau điều trị lần một tăng lên 63,39 ± 12,57 pg/ml (p < 0,05) và sau 7 ngày điều trị tăng lên tới 67,25 ± 13,26 pg/ml. Sự khác biệt về hàm lượng β-endorphin trong máu trước và sau điều trị có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). β-endorphin là một trong những chất sinh học tham gia trong hệ thống giảm đau của cơ thể. Xung điện tạo ra từ các huyệt bị kích thích bằng điện châm truyền tới những vùng có khả năng làm mất cảm giác đau ở trên não. Tín hiệu này truyền tới sừng sau tủy sống, kích thích tuyến yên và tế bào não bài tiết enkephalin và endorphin. Hai chất này ức chế bài tiết chất P và gây ra ức chế trước khớp thần kinh, do đó chặn đường dẫn truyền cảm giác đau qua sợi Aδ và sợi C [7, 8, 9, 10]. Như vậy, hàm lượng β-endorphin tăng lên trong máu dưới tác dụng điện châm các huyệt góp phần chứng minh giả thuyết về cơ chế chống đau của châm cứu là sự kết hợp của hai cơ chế, đó là ức chế dẫn truyền cảm giác đau của tín hiệu xúc giác và hoạt hóa hệ thống giảm đau của cơ thể dẫn tới bài tiết opiat nội sinh [2, 10]. Hàm lượng β-endorphin trong máu BN tăng dần tại các thời điểm nghiên cứu chứng tỏ tác dụng của điện châm theo con đường thần kinh - thể dịch. Điện châm có tác dụng hoạt hoá hệ thống chống đau trong cơ thể sản xuất ra chất trung gian hoá học thuộc hệ thống chống đau của cơ thể, từ đó gây ra tác dụng giảm đau trên lâm sàng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu chứng minh tác dụng của điện châm làm tăng β-endorphin trong máu. Chủ yếu là những nghiên cứu thuộc lĩnh vực châm tê, điện châm hỗ trợ cai nghiện ma túy, châm giảm đau. Các tác giả đều cho rằng hàm lượng β-endorphin trong máu tăng lên sau điều trị bằng điện châm, châm tê, phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi [7, 8, 10, 11]. Các dẫn liệu thu được trong công trình này cho phép chúng tôi đứng về thuyết thần kinh - thể dịch để giải thích tác dụng của phương pháp điện châm với vai trò biến đổi của hàm lượng β-endorphin, catecholamin trong máu. t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 37 Bảng 3: Biến đổi một số chỉ số huyết học dưới ảnh hưởng của điện châm (n = 90). Thời điểm nghiên cứu Chỉ tiêu nghiên cứu N0 (1) N7 (2) Người bình thường (3) Hồng cầu (T/l) 4,57 ± 0,45 4,42 ± 0,40 4 - 9 Bạch cầu (G/l) 6,46 ± 1,22 6,42 ± 0,86 4,0 - 5,0 Tiểu cầu (G/l) 251,68 ± 50,61 249,31 ± 39,36 200 - 440 p p1-2 > 0,05 p1-3 > 0,05 p2-3 > 0,05 Không có khác biệt về các chỉ số huyết học (số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu) giữa các thời điểm trước và sau điều trị ở BN đau thắt lưng (p > 0,05). Kết quả nghiên cứu về chỉ số hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu trong máu ngoại vi của BN dưới tác dụng điện châm các huyệt cho thấy tại thời điểm trước và sau 7 ngày điều trị, các chỉ số này biến đổi không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Chứng tỏ điện châm không ảnh hưởng đến chỉ số huyết học của người bệnh. Kết quả này tương tự nghiên cứu của nhiều tác giả về điều trị một số chứng đau bằng phương pháp châm [7, 8]. Bảng 4: Biến đổi một số chỉ số sinh hóa dưới ảnh hưởng của điện châm (n = 90). Người bình thường (3) Thời điểm nghiên cứu Chỉ tiêu nghiên cứu N0 (1) N7 (2) Nam Nữ Ure (mmol/l) 5,24 ± 0,69 5,29 ± 0,70 2,5 - 7,5 Creatinin (µmol/l) 64,36 ± 12,45 64,81 ± 10,02 62 - 120 53 - 100 AST (U/l) 23,44 ± 5,56 22,80 ± 4,83 < 37 < 31 ALT (U/l) 22,76 ± 6,57 22,70 ± 5,75 < 41 < 31 p p1-2 > 0,05 p1-3 > 0,05 p2-3 > 0,05 ALT và AST là hai loại enzym được tìm thấy chủ yếu ở các tế bào của gan và thận, một lượng nhỏ hơn cũng được tìm thấy trong cơ tim và cơ bắp. Các loại men gan AST và ALT do gan tạo ra thường có một hàm lượng cố định trong máu. Ở người khỏe mạnh, trị số bình thường của ALT và AST trong máu thấp (< 40 U/L). Khi gan bị tổn thương, hàm lượng men gan sẽ tăng cao. Ure là sản phẩm thoái hóa cuối cùng của protein, đào thải chủ yếu qua nước tiểu, creatinin là một axít amin không có trong protein, là chất chuyển hóa cuối cùng của creatin phosphat (dạng dự trữ năng lượng đặc biệt có nhiều ở cơ). Creatinin ra khỏi cơ vào máu, được lọc ở cầu thận rồi bài xuất qua đường nước tiểu. Do đó, nồng độ ure và creatinin tăng trong máu phản ánh chức năng của thận bị tổn thương. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 38 Việc xét nghiệm ure, creatinin, AST và ALT trong máu ngoại vi là các chỉ số đánh giá chức năng gan, thận của YHHĐ [5]. Các số liệu nghiên cứu về chỉ số hóa sinh liên quan đến chức năng gan, thận cho thấy nồng độ ure và creatinin trong máu BN không khác biệt tại thời điểm trước và sau điện châm tại các huyệt ở BN đau thắt lưng được điều trị bằng điện châm so với những chỉ số này ở người bình thường khỏe mạnh (p > 0,05). Từ các dẫn liệu trên cho thấy điện châm là phương pháp an toàn, không gây ảnh hưởng đến chức năng gan và thận. Như vậy, việc định lượng hàm lượng một số chất trung gian hóa học tham gia vào cơ chế chống đau như β-endorphin, catecholamin có ý nghĩa quan trọng trong lượng hoá tác dụng giảm đau của điện châm điều trị chứng đau nói chung và đau thắt lưng nói riêng thành các chỉ số đánh giá có tính chất thuyết phục trong nghiên cứu, công việc lâu nay chỉ mang tính định tính. Đây là một thành công trong thực hành và nghiên cứu khoa học của YHCT. Bảng 5: Cải thiện mức độ đau theo thang điểm VAS. N0 (a) N7 (b) Ngày điều trị Mức độ đau Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ % Không đau 0 0 74 82,22 Đau ít 1 1,11 15 16,67 Đau trung bình 61 67,78 1 1,11 Đau nhiều 28 31,11 0 0 Đau không chịu nổi 0 0 0 0 p pa-b < 0,01 Đau và làm cho hết đau luôn được các nhà lâm sàng quan tâm nghiên cứu. Một trong những khó khăn khi nghiên cứu về đau là vấn đề định lượng đau thông qua ngưỡng đau, khả năng chịu đau cũng như đáp ứng của từng cá thể đối với đau rất khác nhau. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá đau dựa trên cảm nhận chủ quan của người bệnh theo thang điểm VAS - thang điểm đánh giá mức độ đau được sử dụng khá phổ biến trong nghiên cứu và đánh giá cải thiện mức độ đau dựa trên ngưỡng cảm giác đau. Trước điều trị, BN đau thắt lưng chủ yếu ở mức độ đau nhiều (31,11% ) và đau trung bình (67,78%). Sau điều trị 7 ngày, tỷ lệ BN không đau 82,22%, đau ít 16,67%, chỉ có 1,11% ở mức độ đau trung bình (p < 0,01). Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Trần Thị Kiều Lan [6]. t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 39 Bảng 6: Biến đổi mạch, huyết áp, nhịp thở dưới ảnh hưởng của điện châm (n = 90). Thời điểm Chỉ số nghiên cứu N0 (1) N1 (2) N7 (3) Mạch (lần/phút) 77,17 ± 4,40 76,21± 4,15 76,48 ± 4,09 Nhịp thở (lần/phút) 19,26 ± 1,43 18,50 ± 0,99 18,62 ± 0,92 Huyết áp tối đa (mmHg) 120,17 ± 12,64 117,89 ± 10,49 118,28 ± 10,39 Huyết áp tối thiểu (mmHg) 77,22 ± 9,03 76,61 ± 7,45 76,39 ± 7,15 p p1-2 > 0,05 p1-3 > 0,05 p2-3 > 0,05 Các chỉ số mạch, nhịp thở và huyết áp của BN ổn định trong suốt quá trình điều trị. Tại các thời điểm nghiên cứu, các chỉ số này biến đổi không khác biệt (p > 0,05). Kết quả của chúng tôi phù hợp với nhiều nghiên cứu điều trị một số chứng đau hay châm tê phẫu thuật trước đây [5, 6, 7]. Cơ chế của điện châm là tạo ra phản xạ thực vật, tuy nhiên hoạt tính của hệ giao cảm hay phó giao cảm chỉ xảy ra cục bộ nên không làm ảnh hưởng tới các chỉ số sinh lý nghiên cứu. Mặt khác, điều hòa hoạt động hệ thần kinh thực vật còn có vai trò của trung tâm ở thân não và vùng dưới đồi. Chỉ khi toàn bộ hay phần lớn hệ thần kinh giao cảm hưng phấn đồng thời mới gây ra phản ứng báo động hay đáp ứng với stress của hệ giao cảm, làm cho cơ thể hoạt động mạnh hơn so với lúc bình thường. Các stress có thể là sợ hãi, tức giận, đau đớn, hay một cuộc phẫu thuật, do đó chỉ số sinh lý thay đổi, nhưng không quá mức [2, 3]. Như vậy, điện châm không làm ảnh hưởng đến các chức năng sinh lý (mạch, nhịp thở, huyết áp) của BN. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu biến đổi một số chỉ số sinh lý, hóa sinh và huyết học của 90 BN đau thắt lưng do thoái hóa cột sống được điều trị bằng điện châm các huyệt liệu trình điều trị 7 ngày, kết quả cho thấy: - Điện châm làm tăng hàm lượng β-endorphin và catecholamin trong máu: + Hàm lượng β-endorphin trước điều trị (58,12 ± 10,34 pg/ml) tăng lên 63,39 ± 12,57 pg/ml sau một lần điều trị (p < 0,05) và tăng đến 67,25 ± 13,26 pg/ml sau 7 ngày điều trị (p < 0,001). + Hàm lượng adrenalin trước điều trị (48,37 ± 14,98 pg/ml) tăng lên 49,86 ± 13,65 pg/ml sau một lần điều trị (p > 0,05) và tăng đến 57,63 ± 13,89 pg/ml sau 7 ngày điều trị (p < 0,01). + Hàm lượng noradrenalin trước điều trị (342,35 ± 60,24 pg/ml) tăng lên 366,87 ± 63,29 pg/ml sau một lần điều trị (p < 0,05) và tăng đến 379,41 ± 72,67 pg/ml sau 7 ngày điều trị (p < 0,05). - Điện châm không làm biến đổi số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu trong máu ngoại vi cũng như không gây ảnh T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 40 hưởng đến chức năng gan, thận và các chỉ số sinh lý như mạch, huyết áp, nhịp thở của BN. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Ngọc Ân. Đau thắt lưng. Bệnh thấp khớp. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội. 2002, tr.374-395. 2. Bộ môn Sinh lý, Trường Đại học Y Hà Nội. Sinh lý đau. Chuyên đề Sinh lý học. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội. 2008, tr.112-127. 3. Bùi Mỹ Hạnh, Phạm Thị Minh Đức. Nghiên cứu ảnh hưởng của châm huyệt Nội quan lên một số chất truyền đạt thần kinh và trục tuyến yên - vỏ thượng thận. Tạp chí Sinh lý học. 2001, 5 (3), tr.31-38. 4. Đỗ Công Huỳnh và CS. Đặc điểm và tác dụng sinh lý của các huyệt châm cứu. Tạp chí Sinh học Việt Nam. 1994, số đặc biệt, tr.56-65. 5. Nguyễn Thế Khánh, Phạm Tử Dương. Xét nghiệm sử dụng trong lâm sàng. Nhà xuất bản Y học. 1998, tr.693-698. 6. Trần Thị Kiều Lan. Đánh giá tác dụng của điện châm kết hợp thuốc hỗ trợ trong điều trị đau do thoái hóa cột sống thắt lưng. Luận văn Thạc sỹ Y học. Trường Đại học Y Hà Nội. 2008. 7. Nguyễn Bá Quang. Nghiên cứu tác dụng của châm tê kết hợp thuốc hỗ trợ trong phẫu thuật bướu tuyến giáp. Tóm tắt Luận án Tiến sỹ Y học. Hà Nội. 2000. 8. Nghiêm Hữu Thành. Nghiên cứu cơ sở khoa học của điện châm trong điều trị một số chứng đau. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước. Bộ Khoa học và Công nghệ. 2011. 9. Nguyễn Tài Thu, Trần Thúy. Châm cứu sau đại học. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội. 1997. 10. Cheng R.S, Pomeran B. Electroacupuncture analgesia coud be medicited by at best two pain relieving mechanism, endorphin and non-endorphin system. Life Sci. 1979, 25, pp.1957-1962. 11. Melzack R. How acupuncture can block pain. Imoact Sci-Soc. 1973, 23, pp.65-75.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthay_doi_mot_so_chi_so_sinh_ly_va_hoa_sinh_tren_benh_nhan_da.pdf
Tài liệu liên quan