Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
 84
TẦN SUẤT VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA POLYP ĐẠI TRỰC TRÀNG 
Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH 
Nguyễn Anh Thư*, Quách Trọng Đức** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Hội chứng ruột kích thích (HCRKT) là một rối loạn chức năng đường tiêu hóa phổ biến, với tiêu 
chuẩn chẩn đoán chủ yếu dựa trên lâm sàng. Tuy nhiên, bệnh nhân bị HCRKT có thể đồng thời bị polyp đại trực 
tràng, vốn là một tổn thương tiền ung thư quan trọng, có khả năng tiến triển thành ung thư. 
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tần suất và các yếu tố nguy cơ của polyp 
đại trực tràng ở bệnh nhân HCRKT. 
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích được thực hiện trên bệnh 
nhân ngoại trú đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh được chẩn đoán HCRKT theo tiêu 
chuẩn ROME III và được nội soi đại tràng. 
Kết quả: Có 404 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 48,8 ± 11,2. Thời gian trung vị bị 
HCRKT là 2 năm. Thể HCRKT tiêu chảy và hỗn hợp thường gặp nhất với tỉ lệ lần lượt là 50% và 42,6%. Tỉ lệ 
polyp, polyp tân sinh, polyp tân sinh nguy cơ cao, và ung thư đại trực tràng ở BN HCRKT lần lượt là 13,6%, 
6,7%, 4,7% và 2,2%. Tuổi trên 50, triệu chứng mới khởi phát dưới 1 năm ở người trên 40 tuổi và thiếu máu là 
những yếu tố nguy cơ độc lập của polyp đại trực tràng. 
Kết luận: Polyp đại trực tràng không hiếm gặp ở bệnh nhân HCRKT. Nghiên cứu này cho thấy có một số 
yếu tố nguy cơ trên lâm sàng có thể giúp xác định những đối tượng nên được ưu tiên nội soi đại trực tràng để 
chẩn đoán và xử trí. 
Từ khóa: polyp đại trực tràng, ung thư đại trực tràng, hội chứng ruột kích thích, nội soi đại tràng, triệu 
chứng báo động 
ABSTRACT 
PREVALENCE AND RISK FACTORS OF COLORECTAL POLYPS IN PATIENTS WITH IRRITABLE 
BOWEL SYNDROME 
Nguyen Anh Thu, Quach Trong Duc 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 3 - 2017: 84 - 89 
Background: Irritable Bowel Syndrome (IBS) is a common functional gastrointestinal disorder, which is 
mostly diagnosed based on clinical grounds. However, a patient with IBS may also have colorectal polyps, the 
important precancerous lesions which may progress to colorectal cancer. 
Objectives: To evaluate the prevalence and to determine the risk factors of colorectal polyps in IBS patients. 
Methods: A cross-sectional study was conducted on out-patients at the University Medical Center Ho Chi 
Minh City, who were diagnosed with IBS based on the ROME III diagnosis criteria and undergone colonoscopy. 
Results: The mean age of patients was 48.8 years (SD ± 11.2 years). The median of time with IBS symptoms 
was 2 years (interquartile range, 2–5 years). Diarrhea-predominant and mixed IBS were the most common 
subtypes which accounted for 50.0% and 42.6% of the rate, respectively. The prevalence of colorectal polyps, 
* * Khoa Tiêu hóa, BV Trưng Vương ** Bộ môn Nội tống quát - Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh 
TTác giả liên lạc: TS Quách Trọng Đức ĐT: 0918080225 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
 85
neoplastic polyp, advanced neoplastic polyp, and colorectal cancer in IBS patients were 13.6%, 6.7%, 4.7% and 
2.2%, respectively. There were significant associations between the presence of colorectal polyps and patient’s age 
> 50, anemia, and recent-onset (i.e. < 1 year) symptoms in patients < 40 years of age. 
Conclusions: Colorectal polyps are not uncommon among IBS patients. This study shows some clinical risk 
factors which could help to identify high-risk patients for colonoscopy priority. 
Keywords: colorectal polyp, colorectal cancer, irritable bowel syndrome, colonoscopy, ‘alarm’ symptoms 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội chứng ruột kích thích (HCRKT) là một 
rối loạn chức năng đường tiêu hóa mạn tính, 
xuất hiện từng đợt với biểu hiện đau bụng hoặc 
khó chịu vùng bụng kèm theo thay đổi thói quen 
đi tiêu và tính chất phân(Error! Reference source 
not found.). Tần suất HCRKT trên thế giới nhìn 
chung khá cao, thay đổi tùy theo mỗi quốc gia và 
đang có xu hướng gia tăng(Error! Reference 
source not found.). Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa 
trên các triệu chứng lâm sàng(Error! Reference source not 
found.,Error! Reference source not found.). Tuy nhiên, một người 
bị HCRKT có thể đồng thời mắc một bệnh khác 
như ung thư đại trực tràng (UTĐTT), polyp đại 
trực tràngmà không có một triệu chứng nào 
nổi trội để gợi ý. Thêm vào đó, đây lại là một rối 
loạn ở người trẻ, hầu hết các trường hợp mới 
mắc đều dưới 45 tuổi(Error! Reference source not found.,17) nên 
nhiều khi bệnh nhân không được làm các xét 
nghiệm hay thăm dò chuyên sâu để tầm soát 
bệnh thực thể đi kèm. Đặc biệt, polyp đại trực 
tràng là một tổn thương tiền ung thư quan trọng 
thường gặp, có khả năng thoái hóa UTĐTT. 
Càng nhiều polyp thì càng dễ ung thư 
hóa(3,Error! Reference source not found.). Các 
nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy trên 95% 
UTĐTT bắt nguồn từ các polyp. Ở Mỹ, trong 
năm 2008 có 148.810 bệnh nhân mới mắc và 
49.960 BN tử vong vì UTĐTT(Error! Reference source not 
found.). Đến năm 2014 số BN này lần lượt là 136.830 
và 50.310, cho thấy đang có khuynh hướng giảm 
dần ở cả nam và nữ trong thời gian gần đây nhờ 
việc phát hiện và cắt bỏ các tổn thương tiền ung 
thư sớm qua tầm soát UTĐTT(Error! Reference 
source not found.). Các nghiên cứu ở nước ngoài 
cho thấy các yếu tố dịch tễ học như tuổi, giới, 
tiền căn gia đình có người UTĐTT và việc hút 
thuốc lá, uống rượu bia thường xuyên có liên 
quan đến polyp đại trực tràng nói riêng và các 
khối u đại trực tràng nói chung(Error! Reference source not 
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! 
Reference source not found.,21). Vậy có mối liên quan nào 
giữa các yếu tố nguy cơ này với polyp đại trực 
tràng ở người Việt Nam không? Dựa vào yếu tố 
nguy cơ nào để tầm soát nguy cơ polyp và ung 
thư đại trực tràng trên bệnh nhân HCRKT khi 
nội soi không phải là chỉ định cần thiết ở tất cả 
BN HCRKT? Nghiên cứu này được tiến hành 
nhằm xác định tần suất và các yếu tố nguy cơ 
của polyp đại trực tràng ở BN HCRKT. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
BN ngoại trú đến khám tại Bệnh viện Đại 
Học Y Dược TPHCM từ tháng 01/2015 đến tháng 
06/2015 được chẩn đoán HCRKT theo tiêu chuẩn 
ROME III và được nội soi đại tràng, đồng ý tham 
gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn ROME III: 
Đau bụng hoặc khó chịu vùng bụng, tái phát 
ít nhất 3 ngày trong 1 tháng, trong 3 tháng gần 
đây với ít nhất 2 triệu chứng sau đây: 
Giảm triệu chứng đau sau khi đi tiêu 
Thay đổi số lần đi tiêu khi khởi phát bệnh 
Thay đổi hình dạng phân khi khởi phát bệnh 
Tiêu chuẩn này được thỏa mãn trong 3 tháng 
gần đây, với triệu chứng khởi phát ít nhất 6 
tháng trước khi chẩn đoán. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
BN có chống chỉ định nội soi đại tràng. 
Có tiền sử phẫu thuật đại tràng/ cắt polyp 
đại trực tràng. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
 86
BN có bệnh tâm thần hoặc không có khả 
năng trả lời câu hỏi. 
Đại tràng bẩn, có khả năng sót tổn thương. 
Không soi được tới manh tràng. 
Làm mất mẫu mô bệnh học. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Phương pháp tiến hành 
Bệnh nhân ngoại trú đến khám tại Bệnh viện 
Đại Học Y Dược được nội soi đại tràng được 
phỏng vấn theo bộ câu hỏi soạn sẵn để chẩn 
đoán HCRKT theo tiêu chuẩn ROME III. 
Chọn BN thỏa mãn tiêu chuẩn ROME III 
Phỏng vấn các BN này theo bảng câu hỏi về 
yếu tố nguy cơ của polyp đại trực tràng 
BN được nội soi đại tràng để đánh giá 
tổn thương. 
Khi nội soi, nếu thấy có polyp đại trực tràng, 
nhận xét các đặc điểm về vị trí, số lượng, bề 
mặt của polyp theo tiêu chí được quy ước. 
Tiến hành sinh thiết hay cắt polyp qua nội 
soi. Về kết quả giải phẫu bệnh, các mẫu sinh 
thiết được cố định bằng dung dịch formalin 10%, 
nhuộm HE, PAS và đọc kết quả tại khoa Giải 
phẫu bệnh, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM. 
Ghi nhận kết quả. Trong trường hợp nhiều 
polyp được sinh thiết sẽ ghi nhận kết quả giải 
phẫu bệnh của polyp có nguy cơ ung thư 
cao nhất. 
Tổng hợp và phân tích số liệu. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi định 
nghĩa polyp tân sinh nguy cơ cao bao gồm các 
trường hợp thỏa mãn 1 trong 3 tiêu chí gồm 
(1) polyp u tuyến ≥ 10mm; (2) polyp có thành 
phần tuyến nhánh; (3) polyp u tuyến loạn sản 
độ vừa-nặng trên giải phẫu bệnh; và u tân 
sinh nguy cơ cao bao gồm polyp tân sinh nguy 
cơ cao hoặc ung thư. 
Xử lí và phân tích số liệu 
Các số liệu được mã hóa, lưu trữ và phân 
tích bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0. Sử 
dụng tỉ lệ phần trăm để mô tả các biến số định 
tính hoặc giá trị trung bình, giá trị cao nhất và 
thấp nhất để mô tả biến số định lượng. Sử dụng 
phép kiểm 2 hoặc phép kiểm Fisher để phân tích 
thống kê. Tính tỉ số chênh OR và khoảng tin cậy 
95% để đánh giá độ mạnh của mối liên quan 
giữa các biến số. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 01/2015 đến tháng 06/2015, chúng 
tôi đã phỏng vấn 1212 trường hợp được nội soi 
đại tràng và có 436 BN được chẩn đoán HCRKT 
theo tiêu chuẩn ROME III. Trong đó có 11 trường 
hợp đại tràng bẩn và 21 trường hợp soi ko tới 
manh tràng. Như vậy, còn lại 404 trường hợp 
được chuẩn bị đại tràng sạch và soi tới manh 
tràng (chiếm > 90%) được đưa vào phân tích. 
Bảng 1: Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu. 
Đặc điểm n (%) 
Nhóm tuổi < 50 
≥ 50 
227 (56,2) 
177 (43,8) 
Giới tính Nam 
Nữ 
211 (52,2) 
193 (47,8) 
BMI < 25 
≥ 25 
343 (84,9) 
61 (15,1) 
Dạng HCRKT Tiêu chảy 
Táo bón 
Hỗn hợp 
Không xác định 
202 (50,0) 
26 (6,4) 
172(42,6) 
4 (1,0) 
Gia đình có người 
thân UTĐTT 
Có 
Không 
14 (3,5) 
390 (96,5) 
Triệu chứng báo 
động 
Có 
Không 
119 (29,5) 
285 (70,5) 
Bảng 2: Tỉ lệ polyp và ung thư đại trực tràng 
Phân loại n (%) 
Polyp 55 (13,6) 
Polyp tân sinh 27 (6,7) 
Polyp tân sinh nguy cơ cao 19 (4,7) 
U tân sinh nguy cơ cao 28 (6,9) 
Ung thư đại trực tràng 9 (2,2) 
Bảng 3: Liên quan giữa polyp và nhóm tuổi. 
 Tuổi 
Polyp 
< 50 ≥ 50 OR p 
Polyp 18 (7,9) 37 (20,9) 3,07 0,000 
Polyp tân sinh 5 (2,2) 22 (12,4) 6,30 0,000 
Polyp tân sinh 
nguy cơ cao 
5 (2,2) 14 (7,9) 3,81 0,007 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
 87
U tân sinh nguy 
cơ cao 
8 (3,5) 20 (11,3) 3,49 0,002 
Bảng 4: Liên quan giữa polyp và từng triệu chứng báo động. 
TC báo động Polyp Polyp tân sinh Polyp tân sinh 
 nguy cơ cao 
U tân sinh 
nguy cơ cao 
% p % p % p % p 
Tiêu ra máu Có 8,9 0,327 4,4 0,754 4,4 1,000 
8,9 0,536 
Không 14,2 7,0 4,7 6,7 
Sụt cân Có 12,5 1,000 4,2 1,000 0 0,617 12,5 0,226 
Không 13,7 6,8 5,0 6,6 
Thiếu máu Có 20 0,521 0 1,000 0 1,000 40 0,041 
Không 13,5 6,8 4,8 6,5 
Khởi phát <1năm ở 
người >40 tuổi 
Có 21,7 0,049 10,0 0,264 6,7 0,504 10,0 0,281 
Không 12,2 6,1 4,4 6,4 
<10 tuổi so với người 
thân mắc bệnh 
Có 25,0 0,444 0 1,000 0 1,000 25,0 0,251 
 Không 13,5 6,8 4,8 6,8 
BÀN LUẬN 
Tần suất của polyp đại trực tràng (bảng 2) 
Trong 404 BN được đưa vào mẫu nghiên cứu 
của chúng tôi, tỉ lệ polyp đại trực tràng là 13,6% 
(55/404 trường hợp). Trong 55 trường hợp polyp 
đại trực tràng có 42 trường hợp được làm giải 
phẫu bệnh. Tỉ lệ polyp tân sinh là 64,3% (27/42 
trường hợp). Đại đa số các trường hợp polyp tân 
sinh là polyp u tuyến (26/27 trường hợp) và có 1 
trường hợp là polyp ung thư hóa (2,4%). Như 
vậy, nhìn chung polyp tân sinh nói chung và 
polyp u tuyến nói riêng là dạng thường gặp nhất 
theo các nghiên cứu tại miền Nam nước ta. 
Trong khi kết quả của vài tác giả miền Bắc (Tống 
Văn Lược(Error! Reference source not found.), Lê Minh 
Tuấn(Error! Reference source not found.)) thì polyp tân sinh lại 
chiếm tỉ lệ thấp. Như vậy, tỉ lệ polyp tân sinh rất 
khác nhau giữa các nghiên cứu, có thể do phân 
bố giải phẫu bệnh polyp khác nhau giữa các 
vùng miền hoặc có thể do tiêu chuẩn đọc khác 
nhau ở mỗi nơi. Tỉ lệ polyp tân sinh nguy cơ cao 
trong tổng số 42 polyp được làm sinh thiết là 
45,2% (19/42 trường hợp) hay chiếm 4,7% trong 
tổng số trường hợp nghiên cứu. Số lượng u tân 
sinh nguy cơ cao hay còn gọi là u đại trực tràng 
tiến triển xa là 28/51 trường hợp, chiếm 54,9% 
các u và polyp được làm giải phẫu bệnh và 
chiếm 6,9% trên 404 mẫu nghiên cứu. Trong 
nước có nghiên cứu của Quách Trọng Đức 
(2013)(Error! Reference source not found.) thì u đại trực tràng 
tiến triển xa chiếm 12,2%. Đây là một điểm mới 
quan trọng đối với y văn trong nước do các 
nghiên cứu trước đây chỉ đề cập về tỉ lệ ung thư 
đại trực tràng hoặc polyp đại trực tràng nói 
chung. 
Các yếu tố nguy cơ của polyp đại trực tràng 
trên bệnh nhân HCRKT 
Đã có nhiều nghiên cứu về polyp đại trực 
tràng nói chung và nguy cơ ung thư từ các polyp 
này. Tuy nhiên không phải mọi polyp đại trực 
tràng đều có nguy cơ như nhau. Nguy cơ hóa 
ung thư đặc biệt cao khi polyp u tuyến có ít nhất 
một trong các đặc điểm là: kích thước ≥ 10mm, 
có kèm thành phần tuyến nhánh hoặc loạn sản 
độ cao. Nhưng ở nước ta chưa có nghiên cứu 
nào về các yếu tố liên quan với từng nhóm 
polyp. Do đó, trong nghiên cứu này, chúng tôi 
khảo sát các yếu tố liên quan với polyp đại trực 
tràng, cụ thể là thông qua sự liên quan với 4 
nhóm là polyp, polyp tân sinh, polyp tân sinh 
nguy cơ cao và u tân sinh nguy cơ cao. 
Chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt đáng kể 
về tần suất polyp đại trực tràng giữa nhóm tuổi < 
50 và ≥ 50. Sở dĩ chọn mốc 50 tuổi vì có nhiều 
khuyến cáo nên tầm soát UTĐTT từ tuổi 50(Error! 
Reference source not found.). Tỉ lệ polyp trong nhóm < 50 
tuổi là 7,9% so với nhóm ≥ 50 tuổi là 20,9%. 
Nhóm ≥ 50 tuổi có nguy cơ mắc polyp ĐTT cao 
hơn khoảng 3 lần so với nhóm < 50 tuổi (OR = 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
 88
3,069, KTC 95% = 1,68 – 5,60). Tương tự, đối với 
polyp tân sinh, polyp tân sinh nguy cơ cao, u tân 
sinh nguy cơ cao, nguy cơ mắc polyp ĐTT ở 
nhóm ≥ 50 tuổi cũng cao hơn nhóm < 50 tuổi lần 
lượt là 6,3 lần, 3,8 lần và 3,5 lần. Tất cả sự khác 
biệt về tỉ lệ polyp giữa hai nhóm tuổi này đều có 
ý nghĩa thống kê (bảng 3). Có thể thấy rằng ở 
nhóm tuổi cao thì nguy cơ mắc polyp đại trực 
tràng các loại đều cao hơn nhóm tuổi nhỏ. Hơn 
nữa, ở người lớn tuổi, các polyp đại trực tràng có 
thể bao gồm những polyp phát triển một thời 
gian dài, có đủ thời gian biến đổi ác tính nên tỉ lệ 
ác tính cũng cao hơn. Do đó, tuổi ≥ 50 là một yếu 
tố nguy cơ quan trọng trong vấn đề tầm soát 
UTĐTT. 
Bên cạnh đó, các yếu tố khác như giới tính, 
hút thuốc lá, BMI, dạng HCRKT, tiền sử gia 
đình UTĐTT, triệu chứng báo động, chúng tôi 
chưa ghi nhận mối liên quan với polyp, polyp 
tân sinh, polyp tân sinh nguy cơ cao cũng như 
u tân sinh nguy cơ cao. 
Theo kết quả của chúng tôi, nhóm có ít nhất 
một triệu chứng báo động (tiêu ra máu, sụt cân, 
thiếu máu, khởi phát 40 tuổi, 
hiện tại < 10 tuổi so với tuổi của người thân lúc bị 
UTĐTT) đều có tỉ lệ polyp, polyp tân sinh, polyp 
tân sinh nguy cơ cao và u tân sinh nguy cơ cao 
cao hơn nhóm không có triệu chứng báo động, 
tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê. Nhưng nếu xét riêng từng triệu chứng 
báo động, chúng tôi nhận thấy có yếu tố mới 
khởi phát 40 tuổi là có liên 
quan với polyp đại trực tràng (p = 0,049). Nhóm 
có triệu chứng báo động này có nguy cơ có polyp 
chung cao hơn khoảng 2 lần so với nhóm không 
có (OR = 1,989, KTC 95% = 0,99 – 3,98). Ngoài ra, 
thiếu máu cũng làm tăng nguy cơ u tân sinh 
nguy cơ cao hơn nhóm không thiếu máu 9,6 lần 
với p=0,041, dù số BN thiếu máu chỉ là 5 trường 
hợp chưa đủ thuyết phục để kết luận chính xác 
(bảng 4). Hạn chế của chúng tôi là chỉ ghi nhận 
thiếu máu lâm sàng chứ chưa có điều kiện dựa 
trên xét nghiệm của BN để xác định và phân loại 
thiếu máu. 
Chúng tôi ghi nhận nghiên cứu gộp của 
Adelstein và cs (2011)(Error! Reference source 
not found.) về bằng chứng của mối liên quan 
giữa các triệu chứng đường ruột (gồm tiêu ra 
máu, sụt cân, thay đổi thói quen đi cầu, táo bón, 
tiêu chảy, đau bụng) với nguy cơ ung thư hoặc 
polyp ĐTT. Kết quả dựa trên nhiều nghiên cứu 
trước đây cho thấy nguy cơ UTĐTT liên quan có 
ý nghĩa với tiêu ra máu (OR=2,6) và sụt cân 
(OR=2,9). Tuy nhiên, mặc dù có liên hệ chặt chẽ 
với UTĐTT, người ta vẫn chưa tìm thấy mối liên 
quan giữa 2 triệu chứng báo động này với polyp 
ĐTT. Nghiên cứu của Yousef Bafandeh 
(2008)(Error! Reference source not found.2) thấy 
rằng chỉ có thiếu máu không rõ nguyên nhân và 
tuổi là yếu tố nguy cơ độc lập của UTĐTT, còn 
lại những yếu tố khác như tiêu chảy, táo bón, 
tiêu ra máu, tiền căn gia đình UTĐTT...lại không 
thể dự đoán cho polyp hay UTĐTT. Mặc dù 
nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy mối liên 
hệ giữa yếu tố tuổi của đối tượng nghiên cứu 
nhỏ hơn 10 tuổi so với tuổi của người thân lúc 
mắc bệnh nhưng đó cũng là một trong những 
triệu chứng báo động cần quan tâm. Trong 
khuyến cáo của Hội Ung Thư Hoa Kỳ (American 
Cancer Society), đối với những trường hợp có (1) 
tiền căn gia đình liên hệ cấp một có ≥ 2 người 
UTĐTT hay polyp u tuyến hoặc (2) khởi bệnh 
trước 60 tuổi cần được nội soi đại trực tràng ở 
tuổi 40 hoặc < 10 tuổi so với tuổi của người thân 
lúc mắc bệnh và lặp lại mỗi 5 năm. Nguy cơ thấp 
hơn đối với những người có (1) tiền căn gia đình 
liên hệ cấp 1 khởi bệnh sau 60 tuổi hoặc (2) ít 
nhất 2 người trong gia đình có liên hệ cấp 2 mắc 
UTĐTT hoặc polyp u tuyến, cũng cần nội soi đại 
trực tràng ở tuổi 40 nhưng lặp lại mỗi 10 năm(2). 
Ngoài ra, Cha và cs (2015)(Error! Reference 
source not found.) so sánh nhóm có triệu chứng 
được nội soi chẩn đoán từ 18-49 tuổi và nhóm 
không triệu chứng được nội soi tầm soát từ 50-54 
tuổi thấy rằng mặc dù nhóm tuổi khác nhau 
nhưng ở nhóm có triệu chứng tiêu ra máu thì tần 
suất u tân sinh nguy cơ cao không khác biệt so 
với nhóm không triệu chứng (5,9% và 6,9%, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
 89
p=0,459). Hơn nữa, trong những lí do chính 
khiến BN đi khám bệnh có sụt cân cũng có rất ít 
nguy cơ gây các u tân sinh. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ polyp đại trực tràng, polyp tân sinh, 
polyp tân sinh nguy cơ cao, u tân sinh nguy cơ 
cao và ung thư đại trực tràng ở bệnh nhân 
HCRKT lần lượt là 13,6%, 6,7%, 4,7%, 6,9% và 
2,2%. Xem xét chỉ định nội soi đại tràng ở những 
đối tượng bệnh nhân HCRKT (1) từ 50 tuổi trở 
lên; (2) trên 40 tuổi có triệu chứng mới khởi phát 
< 1 năm; (3) thiếu máu không rõ nguyên nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adelstein BA, Macaskill P, Chan SF, et al (2011), “Most 
bowel cancer symptoms do not indicate colorectal cancer 
and polyps: a systematic review”. BMC Gastroenterol, 11, 
pp. 65-74. 
2. American Cancer Society recommendations for colorectal 
cancer early detection 
information/colonandrectumcancerearlydetection/colorecta
l-cancer-early-detection-acs-recommendations 
3. Bùi Nhuận Quý (2012), "Khảo sát mối liên quan giữa lâm 
sàng, nội soi và giải phẫu bệnh của polyp đại trực tràng", Luận 
văn thạc sĩ, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
4. Burnett-Hartman AN, Passarelli MN, Adams SV et al 
(2013), “Differences in Epidemiologic Risk Factors for 
Colorectal Adenomas and Serrated Polyps by Lesion 
Severity and Anatomical Site”. Am. J. Epidemiol, 177 (7), pp. 
625-637. 
5. Cha JM, Kozarek RA, La Selva D (2015), “Findings of 
diagnostic colonoscopy in young adults versus findings of 
screening colonoscopy in patients aged 50 to 54 years: a 
comparative study stratified by symptom category”. 
Gastrointest Endosc, 82 (1), pp. 138-145. 
6. Chang H-C, Yen A M-F, Fann JC-Y et al (2015), “Irritable 
bowel syndrome and the incidence of colorectal neoplasia: 
a prospective cohort study with community-based 
screened population in Taiwan”. Br J Cancer, 112, pp. 171-
176. 
7. Khder SA, Trifan A, Danciu M et al (2008), “Colorectal 
polyps: clinical, endoscopic, and histopathologic features”. 
Rev Med Chir Soc Med Nat Iasi, 112 (1), pp. 59-65. 
8. Lê Minh Tuấn (2009), "Nhận xét hình ảnh nội soi, mô bệnh học 
của polyp đại trực tràng và kết quả cắt polyp bằng máy 
Endoplasma", Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Y Hà Nội. 
9. Lee OY (2010), “Prevalence and Risk Factors of Irritable 
Bowel Syndrome in Asia”. Neurogastroenterol Motil, 16 (1), 
pp 5-7 
10. Levin B, Lieberman DA, McFarland B et al (2008), 
“Screening and surveillance for the early detection of 
colorectal cancer and adenomatous polyps, 2008: a joint 
guideline from the American Cancer Society, the US Multi-
Society Task Force on Colorectal Cancer, and the American 
College of Radiology”. Gastroenterology, 134, pp. 1570-1595. 
11. Locke GR III (2008), "Irritable Bowel Syndrome", in: 
Stephen C. Hauser, Darrell S. Pardi, John J. Poterucha, 
Editors, Gastroenterology and Hepatology Board Review, 
Mayo Clinic Scientific Press, pp. 251-256. 
12. Mayer RJ (2015), "Lower Gastrointestinal Cancers", in: 
Dennis L. Kasper, et al, Editors, Harrison's Principles of 
Internal Medicine 19th, The McGraw-Hill Companies, pp. 
537-544. 
13. Nguyễn Khánh Trạch, Phạm Thị Thu Hồ (2008), "Bệnh đại 
tràng chức năng hay hội chứng ruột kích thích, trong: Bài giảng 
bệnh học nội khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, pp. 242-245. 
14. Owyang C (2015), "Irritable Bowel Syndrome", in: Dennis 
L. Kasper et al, Editors, Harrison's Principles of Internal 
Medicine 19th, The McGraw-Hill Companies, pp. 1965-
1971. 
15. Owyang C (2009), "Irritable Bowel Syndrome", in: 
Tadataka Yamada, Editor, Textbook of Gastroenterology, 
Wiley-Blackwell, pp. 1536-1573. 
16. Quách Trọng Đức (2013), “Giá trị của thang điểm APCS 
(ASIA-PACIFIC COLORECTAL SCREENING) trong phân 
tầng nguy cơ u đại trực tràng tiến triển xa ở bệnh nhân có 
triệu chứng đường tiêu hóa dưới”. Y học TP.Hồ Chí Minh, 
17, pp. 335-339. 
17. Quách Trọng Đức, Oanh Nguyễn Thúy (2007), Nghiên cứu 
phân bố polyp tuyến đại-trực tràng theo vị trí và kích thước 
của polyp. Y học TP.Hồ Chí Minh, 11 (4), pp. 242-247. 
18. Quigley E (2009), “Irritable bowel syndrome: a global 
perspective”, World Gastroenterology Organisation Global 
Guideline. 
guidelines/irritable-bowel-syndrome-ibs/irritable-bowel-
syndrome-ibs-english 
19. Tống Văn Lược (2002), "Kết quả cắt polyp đại trực tràng bằng 
thòng lọng điện theo hình ảnh nội soi mềm và xét nghiệm mô 
bệnh học", Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Y Hà Nội. 
20. Wang FW, Hsu PI, Chuang HY et al (2014), “Prevalence 
and risk factors of asymptomatic colorectal polyps in 
Taiwan”. Gastroenterol Res Pract, 2014, pp. 1-8. 
21. Wilkins T, Pepitone C, Alex B et al (2012), “Diagnosis and 
Management of IBS in Adults”. Am Fam Physician, 86 (5), 
pp. 419-426. 
22. Yousef B, Khoshbaten M, Eftekhar Sadat AT, Farhang S 
(2008), “Clinical predictors of colorectal polyps and 
carcinoma in a low prevalence region: Results of a 
colonoscopy based study”. World J Gastroenterol, 14 (10), pp. 
1534-1538. 
Ngày nhận bài báo: 29/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2016 
Ngày bài báo được đăng: 15/05/2017