Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 157
TẦN SUẤT, BIỂU HIỆN LÂM SÀNG VÀ ĐIỆN TÂM ĐỒ TĂNG KALI MÁU CỦA 
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT 
Hồ Ngọc Trinh*, Lê Văn Lắm*, Phạm Vĩnh Phú*, Nguyễn Phan Thủy Tiên*, Lại Thị Mỹ Duyên*, 
Nguyễn Văn Tân**, Nguyễn Đức Công** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tăng kali máu là một trong những tình trạng rối loạn điện giải nguy hiểm trong thực hành 
lâm sàng. Tình trạng tăng kali máu gây nên những biến đổi nguy hiểm về điện sinh lý tế bào, ảnh hưởng đến 
nhiều hệ cơ quan của cơ thể, đặc biệt là hệ tim mạch. Nghiên cứu này nhằm khảo sát tần suất và mức độ tăng kali 
máu trong nhóm bệnh nhân (BN) điều trị nội trú, đồng thời khảo sát biến đổi về lâm sàng và điện tâm đồ (ĐTĐ) 
trong nhóm bệnh nhân này. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả 855 bệnh nhân điều trị nội trú tại 
Trung Tâm Tim Mạch (TTTM) và Khoa Nội Thận – Lọc Máu (NT – LM) bệnh viện Thống Nhất từ 01/10/2017 
đến 31/03/2018. 
Kết quả: Có 855 bệnh nhân trong nghiên cứu này, tuổi trung bình 62,75 ± 17,38, bệnh nhân nữ chiếm 
51,1%. Trong đó có 5,1% bệnh nhân có tăng kali máu. Tăng kali mức độ nhẹ, trung bình, nặng lần lượt là 
63,6%, 25,0% và 11,4%. Trong nhóm bệnh nhân tăng kali, có 43,1% bệnh nhân có biến đổi lâm sàng, 32,3% 
bệnh nhân có biến đổi điển hình trên điện tâm đồ. 
Kết luận: Tăng kali máu là rối loạn điện giải thường gặp trên bệnh nhân điều trị nội trú tại TTTM và khoa 
NT – LM ở bệnh viện Thống Nhất. Sự biến đổi về triệu chứng lâm sàng và điện tâm đồ có thể gợi ý chẩn đoán 
tăng kali máu. 
Từ khóa: tăng kali máu, biến đổi ĐTĐ trong tăng kali máu 
ABSTRACT 
FREQUENCY, CLINICAL AND ECG MANIFESTATIONS OF HYPERKALEMIC PATIENTS AT 
THONG NHAT HOSPITAL 
Ho Ngoc Trinh, Le Van Lam, Pham Vinh Phu, Nguyen Phan Thuy Tien, Lai Thi My Duyen, 
Nguyen Van Tan, Nguyen Duc Cong 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 157 – 162 
Objectives: Hyperkalemia represents one of the most important electrolyte disturbances in clinical practice. 
Potassium plays a crucial role in normal cell membrane electrophysiology, and hyperkalaemia resulting in 
electrophysiological perturbations, most importantly in the cardiac system. This study’s aims were surveying the 
situation of hyperkalemia of cardiorenal inpatients and assessing clinical manifestations as well as 
electrocardiographic changes of them. 
Methods: This is a cross-sectional study, which describes of 855 inpatients who were treated in Cardiological 
center and Nephrological department of Thong Nhat hospital from October 1st 2017 to March 31st 2018. 
Results: There were 855 patients in this study, the mean age was 62.75 ± 17.38, the percentage of female 
patients was 51.1%. Hyperkalemia has been seen in 5.1% of patients. Severe, moderate and mild hyperkalemia 
*Khoa Y – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: GS. TS Nguyễn Đức Công ĐT: 0982 160 860 Email: 
[email protected] 
.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 158 
were 63.6%, 25.0% and 11.4% respectively. In hyperkalemic group, 43.1% of them were reported to have 
hyperkalemic clinical manifestations, while that number of typical ECG changes was 32.3%. 
Conclusions: Hyperkalemia is a common electrolyte disorder seen in inpatients of Cardiologic center and 
Nephrologic department at Thong Nhat hospital. Changes in clinical and ECG manifestations can play an 
important role in the diagnosis of hyperkalemia. 
Keywords: hyperkalemia, ECG manifestations in patients with hyperkalemia 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tăng kali máu thường được phát hiện tình 
cờ dựa trên xét nghiệm điện giải đồ hoặc khi 
bệnh nhân có biểu hiện hậu quả nghiêm trọng, 
như rối loạn nhịp tim, có khả năng gây tử vong. 
Trong những trường hợp tăng kali máu nặng, 
nếu không được điều trị nhanh chóng, tỉ lệ tử 
vong có thể tới lên đến 30%(2). 
Tại Hoa Kỳ năm 2014 đã có 76.028 lượt vào 
cấp cứu với chẩn đoán chính là tăng kali máu 
trong năm 2014. Đối với các bệnh nhân (BN) 
được nhập viện, thời gian nằm viện trung bình 
là 3,3 ngày(1). Kinh phí chi trả cho việc điều trị các 
bệnh nhân bị bệnh thận mạn hay suy tim kèm 
tăng kali máu lớn hơn số tiền đó dùng để chữa 
tăng kali máu đơn thuần(14). 
Mặc dù tỉ lệ mới mắc và tỉ lệ hiện mắc của 
tăng kali máu trong dân số chung vẫn chưa có số 
liệu cụ thể ở Việt Nam và Thế Giới, nhưng một 
số nghiên cứu hồi cứu tại Mỹ lại cho thấy tỉ lệ 
mới mắc là từ khoảng 2,5% tới 3,2% trong dân số 
chung có các yếu tố nguy cơ khác nhau(7). Một 
nghiên cứu hồi cứu tại Canada đã cho thấy 2,6% 
những bệnh nhân từ 66 tuổi trở lên nhập vào 
khoa cấp cứu có tình trạng tăng kali máu, được 
định nghĩa là nồng độ kali máu từ 5,5 mmol/l trở 
lên(7). 
Kali là cation chính trong nội bào (98%), 2% 
còn lại ở khu vực ngoài ngoại bào. Tỉ số kali nội 
và ngoại bào (Ki/Ke) là yếu tố quyết định điện 
thế màng lúc nghỉ và được điều hòa bởi bơm 
Na+-K+−ATPase trên màng tế bào. Mặc dù chỉ 
chiếm 2% tổng lượng kali ngoại bào, nhưng kali 
ngoại bào ảnh hưởng chính trên tỉ số Ki/Ke và 
trên điện thế màng lúc nghỉ. Có 3 cơ chế điều 
hòa thăng bằng kali: lượng kali cung cấp hàng 
ngày qua ăn uống, sự di chuyển kali nội và 
ngoại bào và cuối cùng là sự bài tiết kali qua 
thận(8,15). 
Đa số bệnh nhân tăng kali máu không có 
triệu chứng. Nếu có, các triệu chứng tăng kali 
máu không đặc hiệu và liên quan chủ yếu đến 
chức năng cơ và tim. Đối với cơ xương, triệu 
chứng phổ biến nhất là yếu cơ và mệt mỏi, ngoài 
ra bệnh nhân có thể liệt mềm, giảm hoặc mất 
phản xạ gân cơ, thở dốc; các triệu chứng ở cơ 
trơn có thể là buồn nồn, nôn; và nguy hiểm nhất 
là ảnh hưởng của tăng kali máu trên cơ tim, các 
triệu chứng có thể là đánh trống ngực, đau ngực, 
nặng có thể gây ngưng tim. Ngoài ra các triệu 
chứng của bệnh nền và tiền sử rất có giá trị trong 
việc xác định các nguyên nhân có thể dẫn đến 
tăng kali máu(5). 
Kali rất quan trọng trong việc điều chỉnh 
hoạt động điện bình thường của tim. Tăng kali 
ngoại bào làm giảm kích thích cơ tim, làm suy 
giảm cả hệ điều hòa nhịp tim và dẫn truyền các 
mô. Tăng kali máu dần dần xấu đi dẫn đến ức 
chế xung của nút xoang và giảm dẫn truyền nút 
nhĩ thất và hệ thống His-Purkinje, dẫn đến chậm 
nhịp tim và block dẫn truyền và cuối cùng là 
ngừng tim. Do vậy, ngoài điện giải đồ, điện tâm 
đồ (ĐTĐ) là cận lâm sàng thường được làm ngay 
để chẩn đoán mức độ tăng kali máu(3). 
Nghiên cứu này thực hiện nhằm mục tiêu 
khảo sát tần suất và mức độ tăng kali máu, đồng 
thời theo dõi sự biến đổi về lâm sàng và ĐTĐ 
của nhóm bệnh nhân điều trị nội trú tại Trung 
Tâm Tim Mạch và khoa Nội Thận – Lọc Máu, 
bệnh viện Thống Nhất. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân điều trị nội trú tại Trung tâm Tim 
mạch và khoa Nội thận – Lọc máu ở bệnh viện 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 159
Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh. Toàn bộ bệnh 
nhân nhập viện điều trị nội trú tại Trung tâm 
Tim mạch và khoa Nội thận – Lọc máu từ 
01/10/2017 – 31/03/2018. 
Tiêu chuẩn loại ra 
Bệnh nhân đưa vào nghiên cứu chưa có đầy 
đủ các cận lâm sàng thường quy: điện tâm đồ, 
điện giải đồ, chức năng thận, đường huyết. 
Phương pháp nghiên cứu 
Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả. Sử dụng 
kết quả xét nghiệm điện giải đồ. 
Khai thác tiền sử, bệnh sử, kết hợp cận lâm 
sàng để chẩn đoán bệnh. ĐTĐ cùng thời điểm 
với chẩn đoán tăng kali máu hoặc gần nhất với 
thời điểm chẩn đoán được đánh giá và so sánh 
với ĐTĐ nền của bệnh nhân tại thời điểm nồng 
độ kali máu trong giới hạn bình thường nếu có. 
Nồng độ kali huyết thanh bình thường là từ 
3,5–5 mmol/L. Tăng kali máu được định nghĩa 
khi nồng độ kali trong huyết thanh 
>5mmol/L(8,15), với 3 mức độ tăng kali máu gồm 
nhẹ (5,1–5,9 mmol/L), trung bình (6,0–6,4 
mmol/L) và nặng (≥ 6,5 mmol/L). 
Biến đổi lâm sàng được định nghĩa là khi 
bệnh nhân có một trong các triệu chứng khó thở, 
đánh trống ngực, đau ngực, nôn ói, dị cảm, yếu 
cơ/liệt mềm. 
Các biến đổi trên ĐTĐ tại thời điểm tăng kali 
máu được định nghĩa với sóng T cao nhọn là khi 
sóng T có biên độ ≥ 2/3 sóng R từ 2 chuyển đạo 
trở lên, khoảng PR kéo dài khi khoảng PR >0,20 
giây, sóng P dẹt là khi chiều cao sóng P < 0,5 mm 
trên điện tâm đồ, QRS giãn rộng là khi thời gian 
phức bộ QRS > 0,12s trên điện tâm đồ, rối loạn 
nhịp tim là khi điện tâm đồ có 1 trong các biểu 
hiện sau đây: rối loạn nhịp chậm, nhịp nhanh 
thất, rung thất, hoặc vô tâm thu. 
Phân tích số liệu 
Phần mềm R 3.5.1 ( 
được dùng phân tích thống kê tất cả các số liệu 
ghi nhận được trong nghiên cứu này. 
Các biến số phân nhóm sẽ cho ra tỉ lệ được 
trình bài dưới dạng phần trăm và dùng kiểm 
định Chi bình phương để kiểm định sự khác 
nhau giữa hai hoặc nhiều tỉ lệ phần trăm. Các 
biến số liên tục sẽ được kiểm định biến số có 
tuân theo luật phân phối chuẩn không, những 
biến số tuân theo luật phân phối chuẩn sẽ được 
trình bày dưới dạng số trung bình ± độ lệch 
chuẩn và dùng kiểm định t-student để đánh giá 
sự khác biệt. Khác biệt được xem là có ý nghĩa 
thống kê khi giá trị p<0,05. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu này đã thu thập được 855 BN 
điều trị nội trú tại khoa Nội Thận – Lọc máu và 
Trung tâm Tim mạch bệnh viện Thống Nhất. 
Tuổi trung bình của BN tham gia nghiên cứu là 
62,75 ± 17,38, trong đó tuổi trung bình ở nhóm 
tăng kali cao hơn nhóm không tăng kali 
(p=0,010). 
Tỉ lệ BN tăng kali máu ở khoa Nội thận – lọc 
máu cao hơn trung tâm tim mạch (TTTM) 
(p<0,0001). 
Về bệnh nền, tỉ lệ BN có suy tim mạn, bệnh 
thận mạn, nhóm BN đang chạy thận, bệnh đái 
tháo đường trong nhóm tăng kali máu cao hơn 
trong nhóm không tăng kali (p < 0,05). Không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở bệnh tăng 
huyết áp, bệnh mạch vành mạn, suy thượng 
thận và xơ gan giữa hai nhóm tăng và không 
tăng kali máu (p > 0,05) (Bảng 1). 
Bảng 1. Đặc điểm tuổi, giới, bệnh nền của nhóm BN nghiên cứu 
 Tổng số (N=855) Tăng kali máu (n=44) Không tăng kali máu (n=811) Giá trị p 
Giới 
Nam, n (%) 418 (48,9) 23 (52,3) 395 (46,2) 
0,759 
Nữ, n (%) 437 (51,1) 21 (47,7) 416 (53,8) 
Tuổi (TB ± ĐLC) 62,75 ± 17,38 69,52 ± 16,64 62,38 ± 17,35 0,010 
Khoa 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 160 
 Tổng số (N=855) Tăng kali máu (n=44) Không tăng kali máu (n=811) Giá trị p 
TTTM, n (%) 709 (82,9) 10 (22,7) 699 (86,2) 
< 0,0001 
Nội thận – lọc máu, n (%) 146 (17,1) 34 (77,3) 112 (13,8) 
Bệnh nền 
Tăng huyết áp, n (%) 610 (71,3) 37 (84,1) 573 (70,7) 0,080 
Suy tim mạn, n (%) 126 (14,7) 13 (29,5) 113 (13,9) 0,009 
Bệnh mạch vành mạn, n (%) 362 (42,3) 16 (36,4) 346 (42,7) 0,505 
Bệnh thận mạn, n (%) 156 (18,2) 35 (79,5) 121 (14,9) < 0,0001 
Chạy thận, n (%) 33 (3,56) 9 (20,5) 24 (3,0) < 0,0001 
Đái tháo đường, n (%) 234 (27,4) 28 (63,6) 206 (25,4) < 0,0001 
Suy thượng thận, n (%) 5 (0,6) 0 (0) 5 (0,6) 1 
Xơ gan, n (%) 6 (0,7) 1 (2,3) 5 (0,6) 0,272 
Tần suất tăng kali máu 
Trong nghiên cứu này có 44 trong tổng số 
855 BN tăng kali máu, chiếm tỉ lệ 5,1% (Hình 1). 
Hình 1. Tỉ lệ tăng kali máu trong dân số nghiên cứu 
Tăng kali máu mức độ nhẹ chiếm tỉ lệ cao 
nhất 63,6%, tiếp đến là tăng kali mức độ trung 
bình 25,0% và thấp nhất là tăng kali máu mức độ 
nặng 11,4% (Hình 2). 
Hình 2. Tỉ lệ tăng kali máu theo mức độ 
Đặc điểm lâm sàng BN tăng kali máu 
Trong số 44 trường hợp tăng kali máu, số 
trường hợp có biến đổi lâm sàng là 19 trường 
hợp, chiếm 43,1%. Trong đó, khó thở, đau ngực 
và buồn nôn/nôn là các triệu chứng thường gặp 
nhất lần lượt chiếm tỉ lệ 34,1%, 13,6% và 11,4%. 
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng của BN tăng kali máu 
Lâm sàng Tăng kali máu (n=44) 
Biến đổi lâm sàng, n (%) 19 (43,1) 
Khó thở, n (%) 15 (34,1) 
Đau ngực, n (%) 6 (13,6) 
Buồn nôn/nôn, n (%) 5 (11,4) 
Đánh trống ngực, n (%) 4 (9,1) 
Dị cảm, n (%) 4 (9,1) 
Yếu cơ, n (%) 3 (6,8) 
Đặc điểm ĐTĐ của BN tăng kali máu 
Trong số 31 trường hợp tăng kali máu được 
khảo sát điện tâm đồ, biểu hiện biến đổi điện 
tâm đồ chiếm tỉ lệ 58,1%, trong đó biến đổi điển 
hình trên điện tâm đồ của tăng kali máu chiếm tỉ 
lệ 32,3%, sóng T cao nhọn đối xứng chiếm tỉ lệ 
25,8%, tiếp theo là chậm dẫn truyền chiếm 
16,1%, không có trường hợp nào có biểu hiện rối 
loạn nhịp nhanh và chậm. 
Bảng 3. Đặc điểm điện tâm đồ của BN tăng kali máu 
Thông số Số TH (n=31) 
Biến đổi điện tâm đồ lúc tăng kali, n (%) 18 (58,1) 
Biến đổi điển hình
+
, n (%) 10 (32,3) 
Sóng T cao nhọn, n (%) 
Chậm dẫn truyền
++
, n (%) 
8 (25,8) 
5 (16,1) 
Rối loạn nhịp nhanh và chậm, n (%) 0 (0) 
+ Biến đổi điển hình gồm sóng T cao nhọn, PR dài, giảm 
biên độ sóng P, phức bộ QRS rộng. 
++ Chậm dẫn truyền gồm block nhĩ thất độ 1, 2, 3 hoặc 
block nhánh phải, block nhánh trái, block phân nhánh 
trái trước, block phân nhánh trái sau. 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu này được thực hiện trên 855 
bệnh nhân tại bệnh viện Thống Nhất, đây là 
một bệnh viên đa khoa hạng I, là nơi thực 
hành của nhiều trường đại học tại thành phố 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 161
Hồ Chí Minh. Bệnh viện luôn cập nhật các 
khuyến cáo của các Hiệp hội chuyên ngành 
trong và ngoài nước để các bác sĩ áp dụng vào 
thực hành lâm sàng. 
Đối tượng bệnh nhân tham gia nghiên cứu 
với độ tuổi trung bình là 62,75 ±17,38 tuổi và tỉ lệ 
giới tính nữ/nam là 1,04/1. 
Tỉ lệ tăng kali máu 
Nhìn chung, nghiên cứu của các tác giả trong 
nước có tỉ lệ tăng kali máu cao hơn so với nghiên 
cứu này. Theo các tác giả Nguyễn Hữu Sơn 
(2009), Vũ Thị Loan (2014) thì tỉ lệ tăng kali máu 
lần lượt là 62,8% và 20,1%. Sự khác biệt này là vì 
các tác giả trên đều tiến hành nghiên cứu ở bệnh 
nhân có bệnh thận mạn, đặc biệt là trong nhóm 
bệnh nhân có rối loạn điện giải như theo tác giả 
Nguyễn Hữu Sơn, trong khi nghiên cứu của 
chúng tôi được tiến hành trên tất cả bệnh nhân 
điều trị nội trú tại khoa NT – LM và TTTM(12). 
Khi so sánh với tác giả Nguyễn Đỗ Quang 
Trung (2017), với tỉ lệ tăng kali máu là 2,1%, thì 
nghiên cứu này có tỉ lệ tăng kali máu cao hơn, lý 
do là vì tác giả Nguyễn Đỗ Quang Trung tiến 
hành trên tất cả bệnh nhân điều trị nội trú tại 
bệnh viện Hữu Nghị(11). 
Nghiên cứu này có sự tương đồng với 
nghiên cứu của tác giả Marianne (2013) và 
Sandra Wagne (2017) với tỉ lệ tăng kali máu lần 
lượt là 6,7% và 6,4%(9,18). 
Theo các nghiên cứu của các tác giả Yuki 
Saito (2017), Reimar W. Thomsen (2017) thì tỉ lệ 
tăng kali máu lần lượt là 12,3% và 28%, cao hơn 
so với nghiên cứu này. Điều này có thể giải thích 
do các nghiên cứu trên thực hiện ở nhóm bệnh 
nhân có bệnh thận mạn và theo dõi diễn tiến 
trong một thời gian dài(16,17). 
Biểu hiện lâm sàng của tăng kali máu 
Tỉ lệ bệnh nhân có biến đổi lâm sàng trong 
nhóm tăng kali máu có sự khác biệt khi so với 
các nghiên cứu liên quan của các tác giả trong và 
ngoài nước. 
Nghiên cứu này có tỉ lệ biến đổi lâm sàng 
chiếm 43,1%, cao hơn khi so sánh với tác giả 
Nguyễn Hữu Sơn với tỉ lệ bệnh nhân có triệu 
chứng chiếm 20,4%, tác giả Đỗ Gia Tuyển với 
đánh trống ngực chiếm 26,5% và tăng phản xạ 
gân xương chiếm 6,8%, tác giả Pernelle Noize 
(2011) với tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng ở tim là 
33% và triệu chứng thần kinh là 4,9%. Vì biểu 
hiện triệu chứng lâm sàng của tăng kali máu 
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tăng 
kali, tốc độ tăng kali, các rối loạn điện giải toan 
kiềm khác đi kèm, và các bệnh lý đồng mắc. 
Điều này có thể giải thích dựa trên đối tượng 
nghiên cứu có sự khác biệt, như theo tác giả 
Nguyễn Hữu Sơn và Đỗ Gia Tuyển thực hiện 
trên những bệnh nhân bệnh thận mạn và loại trừ 
1 số bệnh cấp tính, tác giả Pernelle Noize tiến 
hành trên dân số cộng đồng nhập viện có xét 
nghiệm kali máu tăng, trong khi đó nghiên cứu 
của chúng tôi bao gồm tất cả những bệnh nhân 
điều trị nội trú tại TTTM và khoa Nội Thận – Lọc 
Máu(4,12,13). 
Theo tác giả Stefan Evers (1998) ghi nhận 
biểu hiện yếu/liệt 2 chi dưới hoặc tứ chi xảy ra 
khi nồng độ kali máu ≥ 7,0 mmol/L, trung bình 
là 9,0 mmol/L. Trong khi nghiên cứu của chúng 
tôi không ghi nhận trường hợp yếu/liệt chi, có 
thể giải thích vì nghiên cứu chúng tôi chỉ ghi 
nhận 1 trường có giá trị kali máu cao ≥ 7,0 
mmol/L (7,7 mmol/L), với giá trị trung vị về 
nồng độ kali máu là 5,7 (5,4 – 6,2) mmol/L(6). 
Đặc điểm điện tâm đồ của tăng kali máu 
Theo tác giả Đỗ Gia Tuyển (2016), biểu hiện 
sóng T cao nhọn đối xứng chiếm 25,0% và phức 
bộ QRS dãn rộng chiếm 8,3%, có sự tương đồng 
với nghiên cứu này(4). 
Theo tác giả Nguyễn Hữu Sơn (2009) và 
Brian T. Montague (2008), tỉ lệ sóng T cao nhọn, 
đối xứng lần lượt là 18,4% và 17,8%, thấp hơn so 
với nghiên cứu chúng tôi. Điều này vì sự biến 
đổi điện tâm đồ xảy ra trên bệnh nhân tăng kali 
máu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có 2 
yếu tố quan trọng là mức độ tăng kali (nhẹ, 
trung bình hoặc nặng) và thời gian tăng kali (cấp 
hoặc mạn). Trong khi tác giả Nguyễn Hữu Sơn 
nghiên cứu trên đối tượng có bệnh thận mạn và 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 162 
loại trừ những bệnh nhân có các bệnh lý gây rối 
loạn điện giải khác phối hợp, tác giả Brian T. 
Montague tiến hành trên bệnh nhân đến từ cộng 
đồng nhập viện có tăng kali máu, thì ở nghiên 
cứu chúng tôi thực hiện trên tất cả bệnh nhân 
điều trị nội trú ở khoa nội thận lọc máu và trung 
tâm tim mạch do đó các bệnh cảnh cấp tính và 
các bệnh lý đồng mắc sẽ nhiều hơn, và như vậy 
điện tâm đồ biến đổi với tỉ lệ cao hơn(10,12). 
Theo tác giả Jung Nam An (2012), tỉ lệ biến 
đổi điện tâm đồ điển hình trên bệnh nhân tăng 
kali máu lần lượt là 36,7%. Tỉ lệ biến đổi điện 
tâm đồ của nghiên cứu kể trên cao hơn so với 
nghiên cứu của chúng tôi, có thể lý giải vì giá trị 
kali đưa vào phân tích của nghiên cứu chúng tôi 
là 5,0 mmol/L với giá trị trung vị của kali máu là 
5,7 (5,4 – 6,2) mmol/L, thấp hơn so với nghiên 
cứu của tác giả Jung Nam An nồng độ kali máu 
là ≥ 6,5 mmol/L(2). 
KẾT LUẬN 
Tăng kali máu là rối loạn điện giải thường 
gặp trên bệnh nhân điều trị nội trú tại TTTM và 
khoa NT – LM ở bệnh viện Thống Nhất. Sự biến 
đổi về triệu chứng lâm sàng và điện tâm đồ có 
thể gợi ý chẩn đoán tăng kali máu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alvarez P, et al (2017). Focus on Hyperkalemia Management: 
Expert Consensus and Economic Impacts. Journal of Managed 
Care & Specialty Pharmacy, 23(4-a):S2-S20. 
2. An JN, et al (2012). Severe hyperkalemia requiring 
hospitalization: predictors of mortality. Crit Care, 16(6):R225. 
3. Bộ Y tế. (2015). Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí hồi sức tích cực. 
4. Đỗ Gia Tuyển, Đặng Thị Việt Hà, Nguyễn Thị An Thủy (2016). 
Tình trạng tăng kali máu ở bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính. 
Tạp chí Nghiên cứu Y học, pp.94-101. 
5. Lederer E (2017). Hyperkalemia Clinical Presentation. 
Medscape, https://emedicine.medscape.com/article/240903-
clinical. 
6. Evers S, et al (1998). Secondary hyperkalaemic paralysis. J 
Neurol Neurosurg Psychiatry, 64(2):249-52. 
7. Fleet JL, et al (2012). Validity of the International Classification 
of Diseases 10th revision code for hyperkalaemia in elderly 
patients at presentation to an emergency department and at 
hospital admission. BMJ Open, doi: 10.1136/bmjopen-2012-
002011. 
8. Hall JE, et al (2016). Renal Tubular Reabsorption and Secretion, 
Renal Regulation of Potassium, Calcium, Phosphate, and 
Magnesium; Integration of Renal Mechanisms for Control of 
Blood Volume and Extracellular Fluid Volume. In: Guyton and 
Hall Textbook of Medical Physiology, pp.347-407. Elsevier, 
Philadelphia, PA. 
9. Kuijvenhoven MA, et al (2013). Evaluation of the concurrent use 
of potassium-influencing drugs as risk factors for the 
development of hyperkalemia. Int J Clin Pharm, 35(6):1099-104. 
10. Montague BT, Ouellette JR and Buller GK (2008). Retrospective 
review of the frequency of ECG changes in hyperkalemia. Clin J 
Am Soc Nephrol. 3(2):324-30. 
11. Nguyễn Đỗ Quang Trung (2017). Tầm soát biến cố tăng kali 
máu thông qua kết quả cận lâm sàng tại bệnh viện Hữu Nghị. 
Đại học Y dược Hà Nội. 
12. Nguyễn Hữu Sơn (2009). Nghiên cứu thực trạng rối loạn điện 
giải ở bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính tại bệnh viện đa khoa 
Bắc Giang. Đại học Y dược Thái Nguyên, pp.52-58. 
13. Noize P, et al (2011). Life-threatening drug-associated 
hyperkalemia: a retrospective study from laboratory signals. 
Pharmacoepidemiol Drug Saf, 20(7):747-53. 
14. Polson M, et al (2017). Clinical and Economic Impact of 
Hyperkalemia in Patients with Chronic Kidney Disease and 
Heart Failure. J Manag Care Spec Pharm, 23(4-a):S2-S9. 
15. Rastegar A and Soleimani M (2001). Hypokalaemia and 
hyperkalaemia. Postgrad Med J, 77(914):759-64. 
16. Saito Y, et al (2017). Incidence of and risk factors for newly 
diagnosed hyperkalemia after hospital discharge in non-
dialysis-dependent CKD patients treated with RAS inhibitors. 
PLoS One, 12(9):e0184402. 
17. Thomsen RW, et al (2018). Elevated potassium levels in patients 
with chronic kidney disease: occurrence, risk factors and clinical 
outcomes-a Danish population-based cohort study. Nephrol Dial 
Transplant, 33(9):1610-1620. 
18. Wagner S, et al (2017). Association of plasma potassium with 
mortality and end-stage kidney disease in patients with chronic 
kidney disease under nephrologist care - The NephroTest study. 
BMC Nephrol. 18(1):295. 
Ngày nhận bài báo: 15/05/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/05/2019 
Ngày bài báo được đăng: 02/07/2019