Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế chính trị

Tài liệu Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế chính trị: Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 1 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 ÔN TẬP KINH TẾ CHÍNH TRỊ (Dùng Cho Thi Cao Học Kinh Tế) Câu 1. Phân tích điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hóa và tính ưu việt của sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cấp tự túc? Trả Lời: Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người, và đến nay xã hội loài người đã và đang trải qua 2 giai đoạn sản xuất vật chất, đó là giai đoạn SXTCTT & giai đoạn SXHH • SXTCTT là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm của SX tạo ra là để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Đây là giai đoạn SX mang tính chất tự phát, năng xuất lao động rất thấp. • SXHH là kiểu tổ chức kinh tế mà SP của SX là để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng thông qua trao đổi hoặc mua bán. - Mục đích của SP SX ra là để bán, để đáp ứng nhu cầu của thị trường nên quá trình SX phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường - Các chủ thể kinh tế hoàn toàn tự chủ và tự quyết định quá...

pdf18 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế chính trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 1 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 ÔN TẬP KINH TẾ CHÍNH TRỊ (Dùng Cho Thi Cao Học Kinh Tế) Câu 1. Phân tích điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hóa và tính ưu việt của sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cấp tự túc? Trả Lời: Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người, và đến nay xã hội loài người đã và đang trải qua 2 giai đoạn sản xuất vật chất, đó là giai đoạn SXTCTT & giai đoạn SXHH • SXTCTT là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm của SX tạo ra là để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Đây là giai đoạn SX mang tính chất tự phát, năng xuất lao động rất thấp. • SXHH là kiểu tổ chức kinh tế mà SP của SX là để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng thông qua trao đổi hoặc mua bán. - Mục đích của SP SX ra là để bán, để đáp ứng nhu cầu của thị trường nên quá trình SX phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường - Các chủ thể kinh tế hoàn toàn tự chủ và tự quyết định quá trình SX kinh doanh của mình - Quyền lực thuộc về người mua cho nên người SX phải luôn tranh thủ người mua bằng các chính sách về SP, giá cả phân phối cũng như khuyến mại - Các DN hoạt động theo qui luật cạnh tranh kinh tế thị trường Chính vì những đặc điểm như trên, cho nên SXHH chỉ ra đời khi có 2 điều kiện sau đây: 1) Có phân công lao động xã hội mở rộng Phân công LĐ XH mở rộng là toàn bộ LĐ trong XH phân chia ra chuyên môn hóa SX các SP khác nhau, tức hình thành các ngành nghề SX khác nhau do quá trình người LĐ không ngừng nổ lực tìm kiếm & nâng cao hiệu quả của SX. Do có phân công LĐXH nên mỗi người LĐ chỉ chuyên biệt SX về một hoặc một vài loại hàng hóa nhất định, trong khi đó cuộc sống của họ có nhu cầu về nhiều loại hàng hóa khác nhau và để thỏa mãn các nhu cầu đó thì những người SX phải tiến hành trao đổi mua bán hàng hóa với nhau. Đồng thời cũng do phân công LĐXH mở rộng mà NSLĐ tăng cao, SP mà XH sản xuất ra nhiều hơn, SP dư thừa nhiều hơn nên dẫn tới trao đổi, mua bán. Theo đó, có thể nói rằng phân công LĐXH mở rộng là cơ sở của SXHH. Tuy nhiên, đây mới chỉ là cơ sở tiền đề của SXHH. Mác đã chứng minh rằng trong công xã thị tốc Ấn Độ đã có sự phân công LĐ khá chi tiết, nhưng SP của LĐ chưa phải là hàng hóa bởi vì TLSX là sở hữu chung, SP của từng nhóm SX cũng là của chung. Công xã phân phối SP trực tiếp cho từng thành viên để thỏa mãn nhu cầ. Mác viết “Chỉ có những SP của những người LĐ độc lập, không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”. Do đó, SXHH chỉ ra đời, tồn tại và phát triển khi có điều kiện thứ 2 đó là: 2) Có sự tách biệt về quyền chi phối SP. Tức là những người LĐ trực tiếp không phải là những người sở hữu SP mà họ SX ra mà là những người nắm quyền sở hữu về TLSX (Bởi vì nếu những người LĐ có TLSX thì họ sẽ tự SX ra SP để thõa mãn nhu cầu của mình chứ không cần làm thuê cho những người nắm quyền sở hữu TLSX) Như vậy, chính quan hệ sỡ hữu khác nhau về TLSX đã làm cho những người SX độc lập, đối lập nhau, nhưng họ lại cùng nằm trong một hệ thống phân công LĐXH nên họ phụ thuộc lẫn nhau về SX và tiêu dùng. Trong ĐK ấy, người này muốn tiêu dùng SP của người khác thì phải thông qua trao đổi, mua – bán hàng hóa. Khi có sự tách biệt về quyền chi phối SP thì quá trình trao đổi mua – bán sẽ được thực hiện theo nguyên tắc đền bù ngang giá. Ví dụ: 1 mét vải đổi được 3 kg lúa Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 2 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 Nhưng vì sao mà 1 mét vải lại đổi được 3 kg lúa chứ không phải là 5 hay 10 kg lúa? Vì để SX ra 1 mét vải thì một người LĐ trong ĐK phải mất 5 giờ LĐ và tốn 3000 Calo, trong khi đó để SX ra 3 kg lúa thì một người LĐ trong ĐK bình thường cũng mất 5 giờ LĐ và tiêu tốn 3000 Calo. Ở đây lượng LĐ kết tinh trong 1 mét vải và 3 kg lúa là như nhau và bằng 5 giờ LĐ / 3000 Calo. Vậy hàng hóa là SP của LĐ được mang ra trao đổi theo nguyên tắc đền bù ngang giá. Hàng hóa xuất hiện khi SXHH ra đời. Vậy ta có thể nói rằng phân công LĐXH mở rộng tất yếu có trao đổi SP nên nó là cơ sở, là tiền đề, còn sự tách biệt về quyền chi phối SP mới là ĐK quyết định cho SXHH ra đời. Trong thực tế lịch sử, sự tách biệt về quyền chi phối SP xuất hiện khi có chế độ tư hữu ra đời, và sự tách biệt này có cả trên chế độ công hữu nên ĐK tồn tại của SXHH thì không chỉ dựa trên chế độ tư hữu mà còn cả trên chế độ công hữu. Thực tế lịch sử đã khẳng định điều đó là SXHH ra đời vào cuối chế độ cộng sản nguyên thủy khi xuất hiện phân công lao động lớn lần 1 (chăn nuôi tách khỏi trồng trọt). SXHH ra đời và phát triển yếu ớt chậm chạm qua chế đô chiếm hữu nô lệ, phong kiến và bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở thời kỳ đầu của chế độ TBCN. SXHH phát triển thực sự mạnh mẽ và chở thành đặc trung trong SX TBCN đó là SXHH lớn, tức kinh tế thị trường. SXHH tiếp tục phát triển trong XHCN, nó là tiến bộ chung của văn minh nhân loại, là nấc thang tất yếu khách quan kế tiếp cao hơn, tiến bộ hơn SXTCTT mà nhân loại đạt tới thể hiện qua tính ưu việt của nó sau đây: • Do có phân công LĐXH mở rộng cho nên mỗi một người SX chỉ chuyên biệt về SX một loại hàng hóa nhất định. Quá trình SX một loại hàng hóa nhất định làm cho trình độ tay nghề của người LĐ không ngừng được cải tiến và nâng cao, do đó khối lượng hàng hóa SX ra ngày càng nhiều hay nói cách khác là NSLĐ được tăng cao không ngừng. • Đồng thời do động lực cạnh tranh của thị trường nên người SXHH phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao NSLĐ, nâng cao chất lượng SP nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và tiêu thụ được hàng hóa và thu lợi nhuận nhiều hơn. Vậy chính cạnh tranh đã thúc đấy lực lượng SX phát triển mạnh mẽ • Mặt khác, sự phát triển của SXHH với tính chất mở của các quan hệ HH, tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương, trong nước và quốc tế ngày càng phát triển, từ đó tạo ĐK nâng cao đời sống vật chất của người dân. Từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng SXHH là một kiểu tổ chức SX vật chất ưu việt, tiến bộ và hiệu quả cao, là kết quả của sự phát triển lực lượng SX. Theo đó Việt Nam chuyển sang kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh là hoàn toàn đúng đắn. ./.. Câu 2. Trình bày định nghĩa về hàng hóa, các thuộc tính của hàng hóa và giải thích vì sao hàng hóa phải là sản phẩm của lao động và so sánh trao đổi được với nhau, Cho ví dụ minh họa? Trả lời: Có thể nói nhu cầu của mỗi một con người là vô tận đối với tất cả mọi loại hàng hóa cả về hữu hình lẫn vô hình, nhưng mỗi một con người lại không thể tự mình làm ra tất cả mọi loại hàng hóa để tự thõa mãn những nhu cầu cá nhân đó. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển và tiến bộ của văn minh nhân loại, từ chế độ này qua chế độ khác, từ thuở sơ khai của xã hội loài người là công xã nguyên thủy qua chiếm hữu nô lệ, phong kiến rồi CNTB và CNXH thì con người đã biết mang những sản phẩm mà mình làm được ra để trao đổi mua bán vói những sản phẩm khác nhằm thõa mãn những nhu cầu tiêu dùng của cuộc sống. Đi cùng với nó là sự xuất hiện của long tham lam, sự ích kỷ của một bộ phận không nhỏ Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 3 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 những người trong xã hội,họ muốn biến của chung thành của riêng, muốn mang tất cả về nhà mình, muốn tất cả là của họ nếu có thể.. Từ đó hình thành sự tư hữu về sản phẩm, về TLSX và hàng hóa cũng bắt đầu ra đời từ đó. Vậy: Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thõa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Tuy mỗi một hình thái kinh tế xã hội, SXHH có bản chất khác nhau nhưng hàn hóa đếu có hai thuộc tính: • Thứ nhất đó là: Giá trị sử dụng Là công dụng, là khả năng thõa mãn nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ: 1 Cái ly bằng thủy tinh thì có thể dùng để đựng nước để uống, nhưng đôi khi nó lại được dùng để chặn một tờ giấy dặt trên bàn cho gió khỏi thôi bay đi hay cũng có khi nó lại được đập vỡ ra để lấy những mảnh thủy tinh sắc nhon cắm lên những bức tường rào mà những người ở nông thôn Việt Nam vẫn thường làm mỗi khi phá bỏ những dậu trúc để xây những bức tường rào mới. Đặc điểm của giá trị sử dụng là - Giá trị sử dụng là thuộc tình tự nhiên do cấu trúc của vật thể qui định và ngày càng đựợc phát hiện phong phú và đa dạng theo trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ. - Giá trị sử dụng chỉ biểu hiện ra trong tiêu dùng (khi một vật chưa mang vào tiêu dùng thì chưa nói lên được công dụng của hàng hóa) - Giá trị sử dụng của hàng hóa là cho người mua, người sử dụng chứ không phải cho người sản xuất, người bán. - Giá trị sử dụng cũng đồng thời là vật mang giá trị. • Thuộc tính thứ hai của hàng hóa đó là: Giá trị (hay giá trị trao đổi) Ví dụ: 1mét vải đổi được 3 kg lúa. Sở dĩ vải và lúa trao đỏi được với nhau đó là ở chúng có một đặc điểm chung là lao động kết tinh trong vỉa và lúa. Ở đây để SX ra 1 mét vải thì một người lao động trung bình làm việc trong điều kiện bình thường thì phải mất 5h lao động và tiêu tốn 3000 kilô calo. Cũng khi đó để SX ra 3 kg lúa thì một người lao động trung bình làm việc trong điều kiện bình thường cũng phải mất 5h lao động và tiêu tốn 3000 kilô calo. Như vậy lượng lao động kết tinh trong 1 mét vải và 3 kg lúa là như nhau. Do vậy 1 mét vải có thể đổi được 3 kg lúa mà không phải là 5 hay 10 kg lúa. Vậy giá trị là hao phí của người lao động kết tinh trong hàng hóa làm cơ sở cho sự so sánh và trao đổi hàng hóa Từ sự phân tích trên đây ta thấy rằng hàng hóa phải là sản phẩm của lao động vì nếu không là sản phẩm của lao động thì không có giá trị hay là không có lao động kết tinh trong sản phẩm và không có cơ sở cho sự so sánh trao đổi. Do vậy hàng hóa phải là sản phẩm của lao động. Ví dụ: Không ai nói rằng không khí là 1 loại hàng hóa bởi vì không ai làm ra không khí, trong không khí cũng chẵng có lao động kết tinh và cũng chẳn ai mang không khí ra để trao đổi mua bán cả. Câu 3. Phân tích thực thể giá trị của hàng hóa, lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa? Trả lời: Trong thực tế người ta vẫn thường hay nói: một chiếc xe hơi, một cái điện thoại đáng giá bao nhiêu hay trị giá của nó là bao nhiêu? Vậy giá trị của hàng hóa (chiếc xe hơi, chiếc điện thoại) là gì? Giá trị của hàng hóa là hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Chất của lao Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 4 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 động là giá trị, sản phẩm nào không có lao động kết tinh thì không có giá trị. Vậy thực thể của giá trị là gì? Ta xét vị sau đây: Một nhà tư bản bỏ ra 6đ để thực hiện quá trình sản xuất hàng hóa (giả sử sản xuất một cái bàn) Ông ta dùng 2đ để mua TLSX là gỗ, và 4đ để thuê một người công nhân làm việc trong một ngày 8h (giả sử trong một giờ lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị tương đương 1đ. Sau một ngày lao động người công nhân đã sản xuất ra một cái bàn có trị giá là 10đ. Trong đó giá trị của TLSX là gỗ đã được người công nhân chuyển hóa toàn bộ vào trong sản phẩm (cái bàn) và trong 8h lao động người công nhân tạo ra một giá trị mới là 8đ. Giá trị mới này bao gồm 4đ mà nhà tư bản đã bỏ ra để thuê người công nhân làm việc trong 1 ngày 8h và 4đ là giá trị thặng dư mà người công nhân đã tạo ra sau một ngày làm việc. Như vậy thực thể của giá trị thực chất là giá trị của những TLSX (giá trị cũ) được người công nhân chuyển toàn bộ vào trong sản phẩm mới và hao phí lao động sống của người công nhân kết tinh vào trong hàng hóa trong quá trình sản xuất ra hàng hóa đó. ƒ Lượng giá trị của hàng hóa. Nếu giá trị của hàng hóa là lao động kết tinh của người sản xuất hàng hóa có trong hàng hóa thì lượng giá trị là lượng hao phí xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó trong điều kiện trung bình và được đo bằng thời gian.. Nó được xác lập trong quan hệ cạnh tranh thị trường. Ví dụ: có 3 người sản xuất nón A. B và C, do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, kinh nghiệm khác nhau mà hao phí lao động của mỗi người là khác nhau như sau: A: 6h / nón B: 5h nón ===============> (6+5+4)/3 = 5h nón C: 4h nón Hao phí lao động cá biệt Hao phí xã hội cần thiết Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, trìnhg độ tay nghề của từng người sản xuất là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của họ là khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng hóa của từng người sản xuất. Nhưng luợng giá trị xã hội của hàng hóa không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận hàng hóa nào đó trên thị trường. ƒ Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa: Do thời gian lao động xã hôi cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa cung là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tùy thuộc và năng xuất và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động • Năng xuất lao động Năng xuất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Ví dụ: NSLĐ = 2sp/1h (sp/tg) = 30’/1sp (tg/sp) Nếu NSLĐ tăng lên, vd: 4sp/1h = 15’/sp Ta thấy khi tăng NSLĐ thì thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa càng ít. Ngược lại NSLĐ giảm, thì thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với NSLĐ. Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 5 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 Như vậy muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống thì phải tăng NSLĐ. Đến lượt NSLĐ lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố như trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng của tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp của các yếu tố trong sản xuất cũng như điều kiện tự nhiên. • Cường độ lao động Cường độ lao động là mức độ khẩn trương căng thẳng của lao động (mức độ nhịp độ đổ lực ra để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm) Ví dụ: 1 người công nhân trong một giờ phải quay 200 búa và tốn 3000 kilo calo để sản xuất ra 1 sản phẩm. Bây giờ nếu cuờng độ lao động tăng lên tức cũng trong một giờ người công nhân ấy phải quay 400 búa và tốn 6000 kilo calo và sản xuất ra được 2 sản phẩm. Ta thấy khi cường độ lao động tăng thì lượng lao động hao phí trong một đơn vị thời gian tăng và khối lượng sản phẩm tao ra tăng nhưng lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa không đổi. Tăng cường độ lao động cũng như kéo dài thời gian lao động • Lao động giản đơn và lao động phức tạp - Lao động giản đơn là loại lao động không cần qua đào tạo, tích lũy kinh nghiệm mà vẫn làm được. Tuy nhiên NSLĐ là rất thấp, lượng giá trị tạo ra trong một đơn vị hàng hóa là rất thấp. - Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo huấn luyện mới thực hiện được Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tao ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn nhân lên gấp bội. Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa do các lao động do lao động phức tạp tao ra, trong quá trình trao đổi người ta qui mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Nhưu vậy, lượngh giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình. Câu 4. Trình bày nội dung yêu cầu, vai trò tác dụng của qui luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa và giải thích tại sao qui luật giá trị lại có các vai trò tác dụng kể trên? Trả lời: Ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tcs dụng của qui luật giá trị. Qui luật giá trị là qui luật cở bản của nền sản xuất hàng hóa, vì nó phản ánh tập trung nhất bản chất của nền sản xuất hàng hóa cùng với mục đích của nề sản xuất và phương tiện để thực hiện mục đích ấy. Theo qui luật giá trị thì sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cà biệt của mình, nhưng giá trị của hang hóa lại không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Vì vậy muốn bán được hàng hóa bù đắp được chi phí và có lãi thì người sản xuất hàng hóa phải điều chỉnh sao cho hao phí lao động cá biệt hoặc tối thiểu là bằng hoặc nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Ví dụ: Có 3 nhà sản xuất nón A, B và C cùng sản xuất ra một loại nón. Do trình độ tay nghề, kinh nghiệm và điều kiện lao động khác nhau mà hao phí lao động của từng người sản xuất là khác nhau va như sau: A: 6h / nón B: 5h nón ===============> (6+5+4)/3 = 5h nón C: 4h nón Thời gian lao động cá biệt Thời gian lao động xã hội cần thiết (Hao phí lao động cá biệt) (Hao phí xã hội cần thiết) Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 6 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 Xã hội chỉ chấp nhận mức hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra một nón là 5h/nón, trong khi đó ta thấy rằng nhà sản xuất A cần 5h để sản xuất ra một nón tức đáp ứng được yêu cầu của xã hội, do vậy A có thể tồn tại được. Tuy nhiên mục đích cuối cùng của một người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, vì thế muốn phát triển được thì A phải tìm cách để hao phí lao động cá biệt của mình nhỏ hơn so vói hao phí lao động xã hội cần thiết. Tương tự đối với nhà sản xuất B, thời gian lao động cá biệt (hao phí lao động cá biệt của B) là 6h/nón trong khi đó xã hội chỉ chấp nhận ở mức 5h/nón. Hay nói cách khác B đã bỏ ra thời gian lao động cá biệt rất nhiều, nhiều hơn mức xã hội cần thiết mà lại không được xa hội chấp nhận do vậy tất yếu B sẽ bị đào thải nếu không tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình bằng hoặc thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiế. Đối với nhà sản xuất C thì thời gian lao động cá biệt (hao phí lao động cá biệt) là 4h/nón, nhưng xã hội lại chấp nhận ở mức 5h/nón có nghĩa là xã hội đã thừa nhận thời gian lao động (hao phí lao động) cá biệt của C là 5h/nón trong khi C chỉ mất 4h/nón, hay nói cách khác C làm ít mà được xã hội thừa nhận nhiều và vì vậy C sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Như vậy theo qui luật giá trị, bất cứ một người sản xuất hàng hóa nào muốn tồn tại và phát triển thì phải tuân theo qui luật hao phí lao động xã hội cần thiết. Nếu làm ít mà được xã hội thừa nhận nhiều thì sẽ có lãi và ngược lại nếu làm nhiều mà bị xã hội thừa nhận ít thì sẽ dẫn đến thua lỗ, phá sản. Qui luật giá trị không những phát huy tác dụng trong lĩnh vực sản xuất mà còn phát huy tác dụng trong lĩnh vực lưu thông. Theo qui luật giá trị, trao đổi hàng hóa phải theo nguyên tắc ngang giá, tức các hàng hóa trao đổi với nhau có lượng giá trị ngang nhau (lượng lao động kết tinh trong hàng hóa là như nhau) Ví dụ: 1 mét vải đổi được 2 kg lúa Nhưng vì sao 1 mét vải chỉ đổi được 5 kg lúa chứ không phải là 7 hay 10 kg lúa? Vì để sản xuất ra 1 mét vải thì một người lao động bình thuờng với trình đọ tay nghề trung bình làm việc trong điều kiện bình thường phải mất 5h lao động và tiêu tốn 5000 kilo calo. Trong khi đó để sản xuất ra 5 kg lúa thì một người lao động bình thuờng với trình độ tay nghề trung bình làm việc trong điều kiện bình thường cũng phải mất 5h lao động và tiêu tốn 5000 kilo calo. Lượng giá trị có trong 1 mét vải và 5 kg lúa là như nhau và bằng 5h lao động / 5000 kilo calo. Do vậy 1 mét vải chỉ có thể đổi được 5 kg lúa chứ không phải là 7 hay 10 kg lúa (Thực chất khi trao đổi vải và lúa thì không phải người ta trao đổi hàng hóa vải và lúa thông thường mà người ta trao đổi 5h lao động / 5000 kilo calo kết tinh trong 1 mét vải hay 5kg lúa) Qua đây ta cũng thấy rằng hàng hóa nào nhiều giá trị thì cao giá và ngược lại. Sự vận động của qui luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị của hàng hóa là cơ sở của giá cả. Trên thị trường ngoài giá trị thì giá cả hàng hóa còn phụ thuộc vào các nhân tố như cạnh tranh cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả của hàng hóa lên xuống xoay quanh trục giá trị của hàng hóa. Đây cũng chính là cơ chế hoạt động của qui luật giá trị, thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà qui luật giá trị phát huy tác dụng. Từ sự phân tích nội dung của qui luật giá trị hàng hóa thấy được vai trò tác dụng của qui luật giá trị đối với sản xuất và lưu thông hàng hóa như sau: 1) Điều tiết sản xuất và lưu thông Điều tiết sản xuất là di chuyển các yếu tố sản xuất như TLSX và SLĐ từ ngành này sang ngành khác, từ nơi này đến nơi khác từ đó hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả. Tác dụng này của qui luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường, dưới tác động của qui luật cung cầu nếu ở ngành náo đó cung nhỏ hơn cầu giá cả hàng hóa được bán cao hơn giá trị, hàng hóa sẽ bán chạy và nhà sản xuất sẽ thu được lãi cao, nhà sản xuất sẽ có xu huớng tăng thêm đầu tư, mở rộng sản xuất do đó TLSX và SLĐ được chuyển dịch vào ngành đó tăng lên. Ngược lại khi cung lớn hơn cầu, hàng hóa được bán với giá cả thấp hơn giá trị, hàng hóa khi đó sẽ không bán chạy, Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 7 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 ế ẩm và nhà sản xuất có nguy cơ bị thua lỗ, do vậy họ có xu hướng thu hẹp sản xuất, rút bớt TLSX và SLĐ để chuyển sang đầu tư vào ngành nào có lợi nhuận cao hơn. Quá trình lặp đi lặp lại giúp điều tiết các yếu tố sản xuất hợp lý hơn. Ví dụ: Thị trường Việt Nam có nhu cầu 100.000 tấn café mỗi năm, ứng với 100.000 tấn café thì các nhà sản xuất cần đầu tư 1000 tỷ đồng và diện tích trồng café mỗi năm là 8000 ha. Nhưng ở hiện tại thì diện tích trồng café chỉ là 6000 ha và mức đầu tư là 750 tỷ đồng. Lúc này sản lượng không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường cho nên giá cả của café được bán cao hơn giá trị, các nhà sản xuất thu được lợi nhuận cao, và khi lợi nhuận cao thì các nhà sản xuất sẽ đổ xô vào trồng café, tổng số vốn đầu tư vào tăng lên 1500 tỷ đồng ứng với diện tích trồng café là 1200 ha và sản lượng tăng lên tương ứng là 150.000 tấn trong khi đó nhu cầu của thị trường chỉ là 100.000 tấn. Lúc này cung lại vượt quá cầu, giá cả hàng hóa lại giảm và thấp hơn giá trị. Các nhà sản xuất lại bị lỗ vốn và lại rút bớt các yếu tố SX. Quá trình này tiếp diễn đến khi nào đạt mức 100.000 tấn café mỗi năm ở múc đầu tư là 1000 tỷ ứng với 8000 ha diện tích trồng café. Và tương tự trong quá trình lưu thông, ở nơi nào nhu cầu lớn hơn mức cung ứng, giá cả hàng hóa cao hơn giá trị thì người ta sẽ chuyển hàng từ nơi có mức cung ứng cao hơn nhu cầu, giá cả hàng hóa thấp hơn để bán. Do đó làm cho lưu thông thông suốt. 2) Đồng thời với vai trò điều tiết sản xuất và lưu thông thì qui luật giá trị còn có vai trò kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng NLSĐ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trở lại với ví dụ 3 nhà sản xuất nón A, B và C, ta thấy hao phí lao động cá biệt của B cao hơn mức xã hội cần thiết cho nên nhà sản B xuất sẽ bị thu alỗ và phá sản. Để có thể tồn tại và phát triển thì B cần phải tìm cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, xắp xếp lại quản lí nhằm hao phí lao động cá biệt thất hơn hao phí lao động xã hội cần thiết để bán hàng ở mức cao hơn hao phí lao động cá biệt của mình nhằm thu được lợi nhuận nhiều hơn. Quá trình này không chỉ xảy ra với một mình nhà sản xuất B mà còn có tác dụng đối với cả A & C. Ví dụ: sau khi cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa sản xuất thì hao phí lao động cá biệt của B là 3h/nón. Khi đó hao phí lao động xã hội cần thiết là (5+4+3)/2 = 4h/nón. Lúc này nhà sản xuất A lại có nguy cơ thua lỗ và phá sản. Do đó họ tìm cách cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa sản xuất, tăng NSLĐ để làm cho hao phí lao động cá biệt của mình thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Chính quá trình này đã làm thúc đẩy LLSX xã hội phát triển ngày một nhanh hơ, cao hơn. Vậy qui luật giá trị là qui luật cơ bản của nền sản xuất hàng hóa vì nó phản ánh tập trung nhất bản chất của nền sản xuất hàng hóa cùng với mục đích của nền sản xuất và phươngtiện để thực hiện mục đích ấy. Bất cứ một nhà sản xuất nào mà không tuân theo qui luật giá trị thì sẽ bị đào thải. Câu 5. Phân tích điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa, đặc điểm của hàng hóa sức lao động và vai trò của nó trong nền sản xuất TBCN? Trả lời: Quá trình sản xuất vật chất là quá trình kết hợp giữa TLSX và sức lao động, trong đó sức lao động là yếu tố cơ bản, là giá trị tạo ra giá trị thặng dư Sức lao động là tổng thể sức lực và trí lực nói lên khả năng lao động của con người có thể vận dụng và sản xuất vật chất. Chính lao động tạo ra của cải vật chất tạo ra của cải vật chất và sự giàu có của xã hội. Như vậy lao động là phạm trù vĩnh viễn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhân loại. “Nhân Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 8 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 loại ra đời tồn tại và phát triển là dựa vào lao động” Nhưng sức lao động của con người không phải bao giờ cũng là hàng hóa, nó chỉ là biến thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định đó là: Thứ nhất: người lao động phải được tự do về thân thể Tức người lao động có quyền tự do chi phối sức lao động, năng lực lao động trong cơ thể mình tức người lao động có thể mang sức lao động đi bán như một loại hàng hóa, tức có quyền tự do đi làm thuê Trong thực tế lịch sử cho thấy trong xã hội cộng sản nguyên thủy người lao động có tự do thân thể nhưng họ phải gắn liền với bầy đàn nếu không họ khó có thể chống chọi lại với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt lúc bấy giờ và tất nhiên là sẽ bị các qui luật tự nhiên đào thải. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người lao động thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Chủ nô có quyền mua bán bản thân người nô lệ (bao gồm cả quyền tự do) nô lệ bị mất hết quyền của một con người bao gồm cả quyền được sống. Người nô lệ không được quyền hoặc làm việc cho người này hoặc không làm việc cho người khác. Việc mua bán nô lệ trong thới kỳ chiếm hữu nô lệ là là mua bán bản thân người nô lệ chứ không phải mua bán sức lao động của nô lệ. Sức lao động chỉ thực sự xuất hiện từ cuộc cách mạng nhân quyền khi con người đựoc giả phòn tự do thân thể và họ có quyền quyết định sức lao động của mình. Người lao động chỉ bán sức lao động cho nhà tư bản trong một thời gian nhất định chứ không bán đứt hẳn sức lao động của mình. Tuy nhiên, không phải nếu cứ có tự do thân thể thì có hàng hóa sức lao động. Nếu như người lao động có TLSX để làm ra của cải và phục vụ chính nhu cầu của họ thì họ chẳng bao giờ cần phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản làm gì? Do vậy điều kiện đủ để sức lao động chở thành hàng hóa là người lao động bị mất hết TLSX hoặc bị tước đoạt hết TLSX và để có thể sống thì chính người lao động phải bán đến cái cuối cùng tồn tại trong cơ thể họ mà họ được quyền định đoạt đó là sức lao động. Đó là điều kiện thứ hai: Người lao động phải mất hết TLSX hoặc bị tước đoạt hết TLSX Sự tồn tại đồng thời 2 điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa. Sự cưỡng bức sức lao động bắng các biện pháp phi kinh tế trong chế độ nô lệ và chế phong kiến được thay bằng hợp đồng mua bán bình đẳng về hình thức giữa người lao động và người sở hữu TLSX. Đó là hợp đồng lao động Song vấn đề đặt ra là hàng hóa sức lao động ra đời thì có quan hệ gì đến nền sản xuất TBCN? Sức lao động chở thành hàng hóa trong CNTB chính là vì đặc điểm của nó: Sức lao động có thể là hàng hóa vì: - Có người mua, có người bán, có giá trị và giá trị sử dụng - Người mua là nhà tư bản, người bán là công nhân lao động làm thuê - Giá cả là tiền lương và giá cả sức lao động cũng hoạt động theo qui luật cung cầu - Có giá trị hao phí lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động - Có giá trị sử dụng là việc nhà tư bản sử dụng sức lao động để thực hiện quá trình sản xuất Song sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt vì - Người bán không mất quyền sở hữu (hàng hóa không tách rời khỏi người bán) - Người mua chỉ được quyền sử dụng - Qua tiêu dùng hàng hóa sức lao động không những không mất đi mà còn được tái tạo lại ở người bán - Nó mang tính tinh thần và lịch sử - Về giá trị: Giá trị sức lao động là hao phí lao động cần thiết để tái tao ra sức lao động đó. Tức phải duy trì sức lao động của bản thân người lao động ngày này qua ngày khác đồng thời phải duy trì sức lao động đó bằng cách chăm lo cho gia đình người lao động (nuôi vợ con) cũng như các chi phí học tập giải trí của Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 9 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 người lao động. Nó được xác định bằng lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái tạo ra sức lao động đó. Do đó gia trị hàng hóa sức lao động mang yếu tố tinh thần và lịch sử. - Về giá trị sử dụng: Sức lao động có công dụng cực kỳ đặc biệt đó là: khi tiêu dùng nó tức là hoạt động lao động thì nó tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó tức tạo ra giá trị thặng dư làm giàu cho giai cấp tư bản. Như vậy giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư. Ví dụ: Một nhà tư bản dùng 4đ để mua một sức lao động làm việc trong một ngày 8h. Sau một ngày làm việc người lao động tạo ra một lượng giá trị là 8đ. Nhà tư bản chỉ trích ra 4đ để trả công cho người lao động để họ tiếp tục là việc vào ngày hôm sau. Phần còn lại chính là giá trị thặng dư mà người lao động đã tạo ra trong quá trình làm việc và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Tuy nhiên để thực hiện sản xuất thì nhà tư bản phải chi tư bản bất biến (c) và tư bản khả biến (v). Trong quá trình sản xuất thì (c) dịch chuyển nguyên vẹn vào hàng hóa, nó chỉ là điều kiện tiền đề, tự nó không làm tăng giá trị cho nhà tư bản. Qua sự phân tích trên đây đã trần bản chất của xã hội tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư của giai cấp công nhân làm thuê. Nó cũng đã bác bỏ luận điểm cho rằng máy móc hiện đại của nhà tư bản tạo lợi nhuận cho họ làm giàu cho họ, vì một điều đơn giản là máy móc dù hiện đại đến mấy thì qua quá trình sản xuất nó cũng chỉ dịch chuyển giá trị vào hàng hóa mà thôi ./.. Câu 6: Giải thích nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, cơ sở hình thành các hình thức giá trị thặng dư trong nền sản xuất TBCN? Trả lời: Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài sức lao động do công nhân làm ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Để thấy rõ được điều này ta xét ví dụ sau: Nhà tư bản bỏ ra 6đ để mua TLSX và SLĐ thực hiện quá trình sản xuất, trong đó 2đ dùng để mua TLSX, 4đ dùng để mua 1 sức lao động làm việc trong một ngày 8 giờ (giử sử 1h lđ người công nhân tạo ra được một lượng hàng hóa có giá trị là 1đ). Sau một ngày làm việc người công nhân tạo ra một lượng hàng hóa có giá trị là 10đ, trong đó 2đ là giá trị của TLSX đã được dịch chuyển nguyên vẹn Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 10 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 vào trong hàng hóa mới thông qua quá trình lao động của người công nhân. Và trong 8h lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị kết tinh trong hàng hóa là 8đ. Nhà tư bản chỉ trích ra 4đ để mua lại một sức lao động của người công nhân cho ngày làm việc tiếp theo và 2đ để mua tại TLSX thực hiện quá trình tái sản xuất. 4đ còn lại là nhà tư bản chiếm đoạt lấy, đây chính là giá trị thặng dư mà ngươid công nhân đã tạo ra sau một ngày lao động. Với 4đ tiền công được trả ấy, người công nhân lại chuyển hóa qua tư liệu sinh hoạt tái tạo lại sức lao động và hôm sau lại lao động 8h và được trả 4đ. Vậy nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư là bộ phận giá trị của hàng hóa dôi ra ngoài giá trị sức lao động của công nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt. Ở ví dụ trên, nếu nàh tư bản chỉ bắt người công nhân làm việc trong 4h thì khi đó nhà tư bản phải ứng ra là 6 đồng và giá trị sản phẩm mới cũng là 6đ. Như vậy nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến điểm bù đắp lại giá trị sức lao động (4h) thì chưa có sản xuất giá trị thặng dư. Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó, giá trị sức lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua sức lao động và giá trị mà sức lao động đó tạo ra là 2 đại lượng khác nhau đã được nhà tư bản tính đến trước khi mua sức lao động. Từ sự phân tích trên đây ta thấy: › Một là: • Giá trị TLSX được bảo toàn và dịch chuyển nguyên vẹn vào hàng hóa thông qua quá trình lao động của công nhân (giá trị cũ) • Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới và phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động và bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư › Hai là: • Ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia làm 2 phần. Phần ngày lao động mà công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết. Lao đọng trong khoảng thời gian này gọi là gọi là gian lao động cần thiết. Phần còn lại của ngày lao động là thời gian lao động thặng dư và lao động trong khoản thời gian này gọi là thời gian lao động thặng dư › Ba là: • Qua ví dụ trên ta thấy mâu thuẫn của công thức chung đã được gải quyết. Việc chuyển hóa tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông mà cũng đồng thời không diễn ra trong lưu thông. Chi qua lưu thông thì nhà tư bản mới mua được hàng hóa sức lao động và sử dụng hàng hóa sức lao động vào sản xuất, tức ngoài lĩnh vực lưu thông, để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản. Việc chỉ ra nguồn gốc bản chất của giá trị thặng dư đã vạch trần bản chất bóc lột của CNTB. Nhưng trong đk hiện nay do sự phát triển của các công ty cổ phần mà trong đó một bộ phận nhỏ công nhân cũng có cổ phiếu và trở thành cổ đông của công ty đã xuất hiện luận điểm cho rằng CNTB đã thay đổi về bản chất. Song trên thực tế công nhân chỉ có một số cổ phiếu không đáng kể, do đó họ chỉ là người sở hữu danh nghĩa, không có quyền chi phối doanh nghiệp, phần lớn lợi tức vẫn rơi vào tay nhà tư bản, thu nhập chủ yếu của công nhân vẫn là tiền lương. Từ sự phân tích trên để tìm ra nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư cho ta thấy rằng đó là phần mà nhà tư bản đã chiếm đoạt không của công nhân, mà tham vọng cuối cùng và duy nhất của bất cứ một nhà tư bản nào cũng là chiếm đoạt được càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt. Do vậy các nhà tư bản luôn tìm cách tối đa hóa giá trị thặng dư nhằm mang về siêu lợi nhuận cho mình. Chính từ những tham vọng đó làm nảy sinh các hình thức giá trị thặng dư trong nền sản xuất TBCN đó là” 1) Giá trị thặng dư tương đối. Là giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong đk thời gian lao động tất yếu không đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư và gọi là giá trị thặng dư tương đối. Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 11 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 Trở lại với ví dụ ban đầu ta thấy rằng sau 4h lao động thì người công nhân đã bù đắp được giá trị cho nhà tư bản là 6đ. Vậy 4h lao động đầu là thời gian lao động tất yếu. Trong 4h lao động còn lại người công nhân tạo ra một giá trị là 4đ và phần này bị nhà tư bản chiếm đoạt gọi là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn bằng sơ đồ sau: (vẽ sơ đồ) M = 4/4 x 100% = 100% Giả sử nhà tư bản kéo dài thời gian lao động thêm 2h, trong khi thời gian lao động tất yếu không đổi, khi đó ngày lao động được chia như sau: (vẽ sơ đồ) m’ = 6/4 x 100% = 150% Như vậy khi kéo dài thời gian lao động trong khi thời gian lao động tất yếu không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên (từ 100% Æ 150%) Các nhà tư bản đã tìm mọi cách kéo dài thời gian lao động ra nhằm thu được nhiều lợi nhuận. Nhưng ngày lao động cũng có giới hạn của nó. Giới hạn này do tính chất và tinh thần của người lao động vì họ cần phải ăn ngủ, nghỉ ngơi để tái phục hồi sức lao động. Ngoài ra việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải một sự phản kháng quyết liệt từ giai cấp công nhân nên nhà tư bản không thể kéo dài thời gian lao động ra mãi mãi. Vậy ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu vì nếu bằng thời gian này thì người công nhân chỉ tạo ra một giá trị đủ để bù đắp phần giá trị mà nhà tư bản đã bỏ ra đầu tư nên họ chẳng thu được gì. Nhưung ngày lao động cũng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần. Vậy ngày lao động phải nằm trong khoảng giữa thời gian lao động tất yếu và mức giới hạn về thể chất và tinh thần của người công nhân. Trong phạm vi nói trên, đọ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định, nó phụ thuộc vào đk hoàn cảnh và lịch sử. Trên thực tế đọ dài của ngày lao động quyết định trên cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Ngày làm việc tiêu chuẩn là 8h đã kéo dài hàng thế kỷ qua. Tuy nhiên việc kéo dài ngày lao động để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối chỉ diễn trong thời kỳ đầu của CNTB, khi mà kỹ thuật sản xuất còn thấp, tiến bộ còn chập chạp. Đến giai đoạn sau phát triển sau này của CNTB khi mà sản xuất TBCN đã đạt đến giai đoạn sản xuất đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật tiến bộ thì nhà tư bàn lại tìm ra một phương thức sản xuất giá trị thặng dư khác bằng cách tăng NSLĐ gọi là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. 2) Giá trị thặng dư tuyệt đối Việc tăng NSLĐ đồng nghĩa với việc hạ thấp thời gian lao động tât yếu, hay nói cách khác nhờ vào trình đọ cải tiến kỹ thuật, trình độ tay nghề của công nhân không ngừng được nâng cao cùng với sự trợ giúp của máy móc thiết bị mà thời gian lao động để sản xuất ra một sản phẩm được rút ngắn lại so với trước đây. Ở ví dụ ban đầu ta thấy thời gian lao động tất yếu là 4h, bây giờ nhờ vào những thành tựu của khoa học kỹ thuật, trình độ tay nghề của công nhân không ngừng được nâng cao dẫn đến NSLĐ được tăng lên, hay là người công nhân chỉ cần một thời gian ít hơn so với trước đây để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Trở lại với ví dụ ban đầu, bây giờ người công nhân chỉ cần 3h là đã tạo ra một lượng giá trị đủ để bù đắp phần giá trị mà nhà tư bản đã bỏ ra. Nếu thời gian lao động một ngày không đổi là 8h thì thời gian lao động thặng dư bây giờ sẽ là 5h. Ngày lao động được biểu diễn lại như sau: (vẽ sơ đồ) Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 12 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 m’ = 5/3 x 100% = 166% Vậy tỷ suất giá trị thặng dư là 166% (tăng từ 100% lên 166%) Làm thế nào để rút ngắn thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ gì với giá trị sức lao động? Muốn rút ngằn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động.Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải hạ thấp những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân, điều đó chỉ được thực hiện bằng cách tăng NSLĐ trong những ngành sản xuất ra những tư liệu tiêu dùng thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân để tái tạo lại sức lao động hoặc tăng NSLĐ trong những ngành sc ra TLSX để sản xuất ra những tư liệu tiêu dùng đó. Nếu sản xuất giá trị thặng dư tương đối được áp dụng chủ yếu trong giai đoạn đầu của cảu CNTB thì phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối được áp dụng chủ yếu ở giai đoạn sau của CNTB Tuy nhiên trong quá trình sản xuất TBCN thì mỗi nhà tư bản lại luôn tìm cách áp dụng những phương pháp tốt nhất nhằm tăng cao NSLĐ làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa qua đó thu được giá trị siêu ngạch. Câu 7: Trình bày bản chất, mối quan hệ giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận, tỷ suất giá trị thặng dư và lợi nhuận, các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận hnàg năm trong nền sản xuất TBCN? Trả lời: Lợi nhuận, hay giá trị thặng dư là niếm khát khao là tham vọng của bất cứ một nhà tư bản nào, nhưng cái niềm khát khao cái tham vọng ấy từ đâu mà có? Nhà tư bản đã làm như thế nào để mang về ngày càng nhiều lợi nhuận cho bản thân mình? Những phân tích sau đây sẽ phần nào vén lên bức màn bí mật mà những nhà tn luôn cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của hị mà có. Giá trị thặng dư là gì? Nó là một bộ phạn mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt lấy. Để thấy rõ được điều này ta xét ví dụ sau đây: (vẽ biểu đồ) Nhà tư bản bỏ ra 6đ để mua TLSX và sức lao động để thực hiện quá trình sản xuất. Trong đó 2đ để mua TLSX và 4đ là để mua một sưc lao động làm việc trong một ngày 8h. giả sử mỗi giừo lao động người công nhân tạo ra được một lượng hàng hóa có giá trị là 1đ. Sau một ngày việc 8h người công nhân tạo ra một lượng hàng hóa có giá trị là 10đ. Trong đó 2đ là giá trị của TLSX đã đuợc dịch chuyển nguyên vẹn vào hàng hóa mới thông qua quá trình lao động của người công nhân, và trong 8h lao động người công nhân đã tọa ra một lượng giá trị kết tinh trong hàng hóa là 8đ. Để tiếp tục quá trình tái sản xuất nhà tư bản trích ra 2đ để mua lại TLSX và 4đ để mua một sức lao động làm việc trong một ngày tiếp theo. Phần còn lại 4đ là nhà tư bản chiếm đoạt lấy. Đây chính là giá trị thặng dư mà người công nhân đã tạo ra trong một ngày lao động và bị nhà tư bản chiếm đoạt lấy. Với 4đ được trả người công nhân lại chuyển hóa thành tư liệu tiêu dùng để tái tạo lại sức lao động và ngày mai lại làm việc 8h và được trả 4đ tiền công. Vậy nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư là là bộ phận giá trị mới của hàng hóa vượt ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 13 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 Nếu như nhà tư bản bán hàng hóa theo đúng giá rị thì nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được một số tiền lời ngang với giá trị thặng dư (kí hiệu là m) là 4đ. Số tiền này được gọi là lợi nhuận (kí hiệu là p) Giá trị thặng dư thu được so với toàn bộ tư bản ứng trước được quan niệm là con đẻ của tư bản ứng trước (trong ví dụ là k = 6đ) sẽ mang hình thức chuyển hóa là lợi nhuận . Hay lợi nhuận là số tiền mà nhà tư bản thu được do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và chi phí tư bản ứng trước. Giá trị hàng hóa W = C + V + m = K + m bây giờ sẽ chuyển thành W = k + p (Giá trị hàng hóa = chi phí tư bản ứng trước + lợi nhuận) Vậy thì giữa p và m có gì khác nhau? Về mặt lượng: Nếu nhà tn bán hàng hóa với đúng giá trị thì p = m, p và m cùng giống nhau ở chỗ là đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Về mặt chất: thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là mộ, lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Hay giá trị thặng dư hay lợi nhuận chính là phần dôi ra ấy của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó. Nghĩa là phần dôi ra của tổng lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa so với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hóa. Phạm trù lợi nhuận đã phản ánh sai lệch bản chất của quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân lao động làm thuê vì nó làm cho người ta lầm tưởng rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra. Nguyên nhân của hiện tượng này là: Thứ nhất: Sự hình thành chi phí sản xuất TBCN (k) đã làm xóa nhòa sự khác nhau giữa (c) và (v) nên việc (p) sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận (v) được thay thế bằng sức lao động bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước (k). Thứ hai: DO chi phí sản xuất TBCN (k) luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế c + v + m cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa cao hơn k là đã có lợi nhuận rồi. - Nếu nhà tư bản bán hàng hóa theo đúng giá trị của nó thì m = p - Nếu nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị của nó thì m < p - Nếu nhà tư bản bán hàng hóa thấp hơn giá trị của nó thì m > p Nhưng xét trong toàn bộ xã hội thì tổng giá cả hàng hóa luôn bằng tổng giá trị nên tổng lợi nhuận luôn luôn bằng tổng giá trị thặng dư. Chính sự không nhất trí giữa m và p càng che giấu hơn nữa bản chất bóc lột của CNTB Trên thực tế, nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận (kí hiệu là p’) là tỷ số tính theo % giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước p’ = (m / (c + v)) x 100% = (m / k) x 100% Nếu lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư thì tỷ suất lợ nhuận là sự chuyển hóa của giá trị thặng dư vì vậy chúng có mối quan hẹ chặt chẽ với nhau. Nhưng giữa tỷ suất lợi nhuận (p’) và tỷ suất giá trị thặng dư (m’) lại có sự khác nhau về mặt lượng và chất. Về mặt lượng: p’ luôn luôn nhỏ hơn m’ vì p’ = (m/ c +v) x 100% trong khi m’ = (m/v) x 100% Về mặt chất: m’ phản ánh trình đọ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân lao động làm thuê, còn p’ không thể phán ánh được điều này mà chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản. Tỷ suất lợi nhuận chỉ chi nhà tư bản biết tư bản của họ nên đầu yeu vào đâu thì thu được lợi nhuận cao. Do đó việc thu được lựo nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản mà mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản Từ công thức tỷ suất lợi nhuận: p’ năm = n x (m/c + v) x 100% = (n x m’ x v) / (c + v) x 100% Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 14 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 Ta thấy các nhân tố ảnh hưởng đến lợi p’ bao gồm: • Tỷ suất giá trị thặng dư: m’ = m / v m’ càng cao thì thì p’ càng cao và ngược lại Ví dụ: Nếu cơ cấu gía trị hàng hóa là 800c + 200v + 200m Thì m’ = 100%, p’ = 20% Nếu cơ cấu giá trị hàng hóa là: 800c + 200v + 400m Thì m’ = 200% và p’ = 40% Vậy tất cả các thủ đoạn nhằm nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư là những thủ đoạn nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận. • Cấu tạo hữu cơcủa tư bản c/v Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư (m’) không đổi thì cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại. Ví dụ: - Nếu cấu tạo hữu cơ của tư bản là 70c + 30v + 30m thì p’ = 30% - Nếu cấu tạo hữu cơ của tư bản là 80c + 20v + 20m thì p’ = 20% Thông thường khi cấu tạo hữu cơ tăng lên thì tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tăng lên nhưng không thể bù đắp mức giảm của tỷ suất lợi nhuận. • Tốc độ chu chuyển của tư bản Nếu n càng lớn thì p’ càng lớn và ngược lại Ví dụ: - Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản là một năm một vòng 800c + 200v + 200m thì p’ = 20% - Nhưng nếu tốc độ chu chuyển của tư bản là một năm hai vòng 800c + 200v + (200 + 200)m thì p’ = 40% Vậy tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với tỷ số vòng của chu chuyển tư bản và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển tư bản • Tiết kiệm tư bản bất biến Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng cao: vì p’ = m/c + v Trong thực tế để nâng cao tỷ suất lợi nhuận các nhà tư bản đã tìm mọi cách để tiết kiệm c như sử dụng máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất. kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, thay thế nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền, giảm những chi tiêu bảo hiểm lao động, bảo vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư năng lượng, tận dụng phế liệu, phế phẩm để sản xuất hàng hóa. Bốn yếu tố trên được nhà tư bản sử dụng khai thác triệt để nhằm thu được tỷ suất lợi nhuận cao nhất Câu 8: Trình bày cơ sở hình thành lợi nhuận bình quân, tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất trong nền sản xuất TBCN? Trả lời: Với bản chất và tham vọng làm giàu bất chấp mọi thủ đoạn, bất cứ một nhà tư bản nào cũng có thể đánh hơi được ở đâu, nơi nào, lĩnh vực nào có thể mang lại cho họ lợi nhuận tối đa trong điều kiện tư bản ứng ra không phải là vô hạn. Chúng ta đều biết ở các ngành có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và tổ chức quản lí khác nhau thì có tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Những nhành có tỷ suất lợi nhuận cao thì lập tức các nhà tư bản sẽ nhảy vào đầu tư thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh hòng kiếm được mức lời nhiều nhất. Chính sự tự do đầu tư và di chuyển tư bản đã giúp các nhà tư bản thực hiện được điều này. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là việc hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất. Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 15 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 Giả sử có 3 ngành sản xuất khác nhau , tư bản của mỗi ngành đều bằng 100, tỷ suất giá trị thặng dư đèu bằng 100% và tốc độ chu chuyển tư bản ở các ngành đều như nhau. Nhưng do cấu tạo hữu cơ tư bản trong các ngành khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận là khác nhau. Ví dụ: Ngành sản xuất chi phí sản xuất m’ (%) k/lượng p’ (%) Cơ khí 80c + 20v 100 20 20 Dệt 70c + 30v 100 30 30 Da 60c + 40v 100 40 40 Ta thấy cùng một lượng tư bản đầu tư nhưng do điều kiện kinh tế, tự nhiên, kỹ thuật và tổ chức quản lí khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận p’ khác nhau. Nhà tư bản không thể bang lòng đứng yên ở những ngành xương xẩu, có tỷ suất lợi nhuận thấp (trong ví dụ là ngành cơ khí) khi đó họ sẽ di chuyển tư bản sang các ngành béo bở có tỷ suất lợi nhuận cao hơn (trong ví dụ là ngành da) làm cho sản phẩm của ngành da tăng lên (cung > cầu) do đó các sản phẩm trong ngành da lại giảm xuống thấp hơn giá trị của nó và tỷ suất lợi nhuận của ngành này giảm xuống. Ngược lại do sự bỏ đi của của các nhà tư bản thì sản phẩm ở ngành cơ khí lại giảm xuống (cung < cầu) nên giá cả lại sẽ cao hơn giá trị và do đó tỷ suất lợi nhuận của ngành cơ khí lại sẽ tăng lên. Như vậy do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm cho cung > cầu thì giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống, còn ngành nào có cung < cầu thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngànhnày sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều bằng nhau và kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá rị thặng dư và tổng số tư bản xã hội đầu tư vào các ngành sản xuất TBCN (kí hiệu là p’) Và p’ = (∑m / ∑(c+v) x 100% Theo ví dụ trên thì p’ = (90 / 300) x 100% = 30% Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì số lợi nhuận của các ngành sản xuất đều tính theo lợi nhuận bình quân và do đó nếu có số tư bản bằng nhau thì dù đầu tư vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau và gọi là lợi nhuận bình quân. (kí hiệu là p Ở ví dụ trên Vậy muốn tăng p thì phải tăng k (vì p = const) Sự bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận chỉ được thực hiện khi CNTB đã phát triển đến một trình độ nhất định. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của CNTB. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội TBCN mà ngược lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn. Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất Giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân = k + p (Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành lợi nhuận bình quân) Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: - Nền đại công nghiệp cơ khí TBCN phát triển - Sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất quan hệ tác dụng cùng phát triển - Tư bản di chuyển tự do từ ngành này sang ngành khác Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó. Giờ đây giả cả hàng hóa sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Xét về mặt lượng, ở mỗi ngành giá cả sản xuất có thể không bằng giá trị hàng hóa nhưng xét trong toàn bộ xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn luôn bằng tổng giá trị hàng hóa. Trong mối quan hệ thì giá trị vẫn là cơ sở của giá cả thị trường và giá cả Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 16 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 thị trường xuay quanh quanh trục giá cả sản xuất. Quá trình hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất có thể tóm tắt ở bảng sau: Ngành sản xuất C V M (với m’ = 100%) W P’ (%) Giá cả sản xuất Chênh lệch giữa giá cả sản xuất và giá trị Cơ khí 80 20 20 120 30 130 +10 Dệt 70 30 30 130 30 130 0 Da 60 40 40 140 30 140 -10 Tổng cộng 210 90 90 390 390 Thực chất hoạt động của qui luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện của hoạt động của qui luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh CNTB PHẦN B Câu 1. Phân tích tính tất yếu khách quan và vai trò của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Trả lời: Qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật chung cho mọi phương thức sản xuất, mọi nền kinh tế. Trong nền kinh tế chưa thật sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất qui định. Lực lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không ngừng vận động biến đổi. Bất cứ một nền sản xuất nào đi ngược với qui luật này thì cũng đều phải trả giá. Thực tế lịch sử ở Việt Nam đã chứng minh điều đó. Sau ngày độc lập, do sự nóng vội chủ quan duy ý chí trong việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đều trái với yêu cầu về qui định về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất làm cho đất nước chìm trong một thời gian dài khó khăn về kinh tế. Tuy nhiên nếu xét về yếu tố điều kiện hoàn cảnh và lịch sử thì có thể hình thái kinh tế áp dụng sau ngày độc lập là đúng khi mà tinh thần hưng phấn hăng say lao động của toàn dân cao do được làm chủ về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên với một xuất phát điểm rất thấp về lực lượng sản xuất thì hình thái kinh tế đó chưa thể phù hợp với chúng ta được. Điều sai lầm duy nhất là chúng ta đã duy rì hình thái kinh tế đó quá lâu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức khác nhau tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần khác nhau, nhưng các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau tạo thành cơ cấu của nền kinh tế. Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là tất yếu khách quan, ngoài lý do cơ bản trên đây còn có những lý do khác sau đây: - Xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế mà chưa thể cải biến nhanh được. Hơn nữa sau nhiều năm cải tạo và xây dựng thì quan hệ sản xuất mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới như thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà nước… các thành phần kinh tế cũ và mới cùng tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau cấu thàn cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. - Xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa có sự quản lí vĩ mô của nhà nước, thực hiện sự nghiệp CNH HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH là nhiệm vụ chủ yếu trong thời kỳ quá độ Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 17 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 lên CNXH ở nước ta. Song điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp, thu nhập quốc dân còn thấp nếu chỉ trông chờ vào nhà nước thì việc thực hiện các nhiệm vụ nói trên sẽ gặp nhiều khó khăn vì vậy cần phải giải phóng mọi năng lực bị kìm hãm từ trước tới nay, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng về vốn, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lí tức là sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế đòi hỏi khách quan của công cuộc xây dựng CNXH - Nước ta có một lực lượng lao động dồi dào (gần 45 triệu người lao động) song số người chưa có việc làm còn rất cao, vừa lãng phí sức lao động vừa gây ra khó khăn về kinh tế xã hội. Trong khi khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế nhà nước còn chưa nhiều thì việc khai thác tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác nhau là một giải pháp quan trọng để tạo thêm công ăn việc làm và giải quyết các vấn đề xã hội. - Như vậy cả lí luận và thực tiễn đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối cùng tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. • Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay không chỉ là một tất yếu khách quan và nó còn có vai trò to lớn vì: o Nền kinh tế tồn tại nhiều thành thành phần có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với thực trang thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Sự phù hợp này đến lượt nó lại có tác dụng thúc đẩy phát triển năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. o Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. o Cho phép khai thác và sử dụng hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước như vốn, lao động, nguyên liệu, kinh nghiệm tổ chức quản lí, khoa học và công nghệ mới trên thế giới. o Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước mà nó như là một cầu nối trung gian cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN o Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện khắc phục tình trạng độc quyền tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật phát triển lực lượng sản xuất. o Sự phát triển trên cho thấy cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trò quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Cơ cấu đó vừa phù hợp với trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa phù hợp với lý luận của Lê Nin về sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Câu 2. Phân tích vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN và các giải pháp nhằm phát huy vai trò đó ở nước ta hiện nay? Trả lời: Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam xác định: nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam có 6 thành phần kinh tế gồm: - Kinh tế nhà nước - Kinh tế tập thể - Kinh tế cá thể và tiểu chủ - Kinh tế tư bản tư nhân - Kinh tế tư bản nhà nước - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Tài liệu ôn thi cao học môn Kinh tế Chính trị Trang 18 Học viên Hoàng Duy Nam Lớp: K17D5 Trong đó kinh tế nhà nước giữ ai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần Kinh tế nhà nước ra đời và tồn tại trên cơ sở là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước) bao gồm: tài nguyên thiên nhiên, hệ thống kết cấu hạ tầng, các quĩ, các nguồn dữ trữ ngân sách nhà nước, hệ thống các doanh nghiệp nhà nước (bao gồm doanh nghiệp hoạt động công ích, doanh nghiệp thuộc hẹ thống quốc phòng an ninh và các doanh nghiệp nhà nước hoạt động cạnh tranh thị trườn nhằm mục đích lợi nhuận cũng như các doanh nghiệp mà nhà nước nắm quyền chi phối về vốn đầu tư. Kinh tế nhà nước dữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần vì để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN thì phải có một lực lượng nong cốt làm chủ đạo, lực lượng đó chỉ có thể là kinh tế nhà nước vì kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế tiến bộ nhất cả về tư liệu sản xuất cũng như lực lượng sản xuất Kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo là lực lượng làm chủ quyết định con đường phương hườn vận đọng của nền kinh tế theo CNXH. Là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ vững vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Để thực hiện được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải tạo được cho mình thế và lực để từ đó tác động giúp đỡ lôi kéo chuyển hóa các thành phần kinh tế khác thông qua quan hệ thị trường để cùng vận động theo quĩ đạo định hướng XHCN. Muốn vậy kinh tế nhà nước phải: - Tập trung đầu tư nắm giữ những lĩnh vực trọng yếu, chiến lược then chốt của nền kinh tế (như: ngân hàng, bảo hiểm, đườn sắt, hàng không, khai thác mỏ…) - Đảm đương ở những ngành mà các thành phần kinh tế khác không được phép đầu tư vì an ninh quốc gia như phát thanh, truyền hình, bưu chính viễn thông, điện lực, hàng không quốc nội… - Đảm đương ở những ngành mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng như các dịch vụ công cộng, phúc lợi xã hội. - Ở những lĩnh vực kinh tế như xây dựng cơ bản, hệ thống cơ sở hạn tầng giao thông là lĩnh vực tiêu tốn nhiều tiền của nhưng lâu thu hồi vốn đầu tư, không có lợi trước mắt nhưng lại góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế vùng miền phát triển giúp cân bằng phát triển kinh tế thì các thành phần kinh tế sẽ không muốn đầu tư như vậy kinh tế nhà nước phải đảm nhận và thực hiện tốt nhiệm vụ này. - Phần còn lại ngoài hai lĩnh vực trên thì kinh tế nhà nước không nhất thiết phải đầu tư kinh doanh mà theo nguyên tắc ai làm tốt thì để người ấy làm, tập trung sức lực thực hiện tốt nhiệm vụ không ai có thể thay thế được kể trên, đồng thời kinh tế nhà nước cần phải cải tiến tổ chức quản lí nâng cao trình độ tổ chức quản lí, nâng cao tình độ kỹ thuật và công nghệ kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả trước mắt cần tập trung thực hiện hai nhiệm vụ sau đây: + Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chế độ quản lí công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới hình thức công ty TNHH một thành viên chủ sở hữu là nhà nước và các công ty cổ phần có vốn đầu tư nhà nước. Giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh. Qui định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà nước tốt với doanh nghiệp + Giải quyết dứt điểm các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài bằng các giải pháp thích hợp như xát nhập, chuyển hướng kinh doanh, giao bán, cho thuê, bán khoán hoặc giải thể phá sản nhưng cần đặc biệt lưu ý là phải bảo vệ tài sản nhà nước và bảo vệ lợi ích người lao động.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfOn_thi_CHKT_mon_KTCT.pdf