Tài liệu hướng dẫn học tập môn học: Xã hội học về truyền thông đại chúng - Trần Hữu Quang

Tài liệu Tài liệu hướng dẫn học tập môn học: Xã hội học về truyền thông đại chúng - Trần Hữu Quang: TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM TS TRẦN HỮU QUANG Biên soạn  XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Mơn học: XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG TS. Trần Hữu Quang biên soạn THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2 BÀI GIỚI THIỆU Chào mừng các bạn đến với chương trình đào tạo từ xa của Đại học Mở Bán Cơng Tp.HCM Đây là mơn học nghiên cứu về hoạt động truyền thơng đại chúng dưới quan điểm xã hội học. Nhiều trường phái cũng như nhiều luận điểm lý thuyết khác nhau, nhiều lúc đối lập nhau, cũng như nhiều kết quả điều tra thực nghiệm sẽ được trình bày và lược thuật một cách cơ đọng nhằm giúp sinh viên cĩ được những kiến thức tổng quan về tình hình nghiên cứu xã hội học về truyền thơng đại chúng trên thế giới. Nhưng ngồi phần kiến thức, điều cịn quan trọng hơn nữa đối với sinh viên trong mơn học này, đĩ là: thơng qua việc tìm hiểu những lối đặt vấn đề và những lối phân tích khác nhau và đa dạng của các nhà ng...

pdf132 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu hướng dẫn học tập môn học: Xã hội học về truyền thông đại chúng - Trần Hữu Quang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM TS TRẦN HỮU QUANG Biên soạn  XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Mơn học: XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG TS. Trần Hữu Quang biên soạn THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2 BÀI GIỚI THIỆU Chào mừng các bạn đến với chương trình đào tạo từ xa của Đại học Mở Bán Cơng Tp.HCM Đây là mơn học nghiên cứu về hoạt động truyền thơng đại chúng dưới quan điểm xã hội học. Nhiều trường phái cũng như nhiều luận điểm lý thuyết khác nhau, nhiều lúc đối lập nhau, cũng như nhiều kết quả điều tra thực nghiệm sẽ được trình bày và lược thuật một cách cơ đọng nhằm giúp sinh viên cĩ được những kiến thức tổng quan về tình hình nghiên cứu xã hội học về truyền thơng đại chúng trên thế giới. Nhưng ngồi phần kiến thức, điều cịn quan trọng hơn nữa đối với sinh viên trong mơn học này, đĩ là: thơng qua việc tìm hiểu những lối đặt vấn đề và những lối phân tích khác nhau và đa dạng của các nhà nghiên cứu, sinh viên làm sao rèn luyện được khả năng tư duy và biện luận của mình, làm quen được với phương pháp tư duy xã hội học. Và điều trọng yếu nhất là cuối cùng làm sao sinh viên xác lập được khả năng suy nghĩ độc lập và nuơi dưỡng được ĩc phê phán khoa học khi thử bắt tay vào việc khảo sát, phân tích và giải thích những vấn đề nào đĩ liên quan tới lĩnh vực truyền thơng đại chúng ở Việt Nam. Tập sách này bao gồm những nội dung chính như sau: - Tìm hiểu các khái niệm “truyền thơng” và “truyền thơng đại chúng” (bài 1). - Lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thơng đại chúng và 3 của định chế truyền thơng đại chúng (bài 2). - Các lý thuyết chính về truyền thơng đại chúng (bài 3). - Nghiên cứu về cơng chúng (bài 4). - Nghiên cứu về các nhà truyền thơng và tổ chức truyền thơng (bài 5). - Nghiên cứu nội dung truyền thơng (bài 6). - Những tác động xã hội của truyền thơng đại chúng (bài 7). Về thời gian học tập: đây là tập giáo trình dành cho chương trình cử nhân, tương đương với 30 tiết học trên lớp. Tuy nhiên, ngồi thời gian đọc giáo trình, sinh viên cịn phải dành ra một thời lượng tương đương với khoảng 30- 45 tiết để đọc thêm tài liệu sách báo và tạp chí cĩ liên quan tới nội dung mơn học. Đĩ là chưa tính thời gian dành để trả lời các câu hỏi ơn tập (nên tập trả lời bằng cách viết ra trên giấy mà khơng xem lại giáo trình [vì đáp án loại câu hỏi này đều nằm trong giáo trình], mỗi câu chừng nửa trang hoặc tối đa là một trang) và những câu hỏi gợi ý để thảo luận (những câu hỏi này đều nằm ở cuối mỗi chương). Đối với những câu hỏi thảo luận (đây thường là những câu mở rộng để vận dụng suy nghĩ cá nhân vào những vấn đề của truyền thơng đại chúng trong bối cảnh xã hội Việt Nam), sinh viên cĩ thể đưa ra để thảo luận nhĩm. Nếu học mơn này theo nhĩm là hay nhất; cịn nếu khơng, sinh viên nên tìm những người mà mình cĩ thể trao đổi để bàn luận về những vấn đề nêu ra. Nên tranh cãi một cách thoải mái trên tinh thần tự do tư tưởng – vì cĩ cọ xát và tranh luận thì mới cĩ điều kiện để vượt qua được những định kiến chủ quan của từng cá nhân, và đồng thời mới cĩ nhiều cơ may tìm ra được những ý tưởng mới. 4 Ở cuối tập sách này, chúng tơi cũng cĩ nêu ra một số đề tài gợi ý để sinh viên cĩ thể chọn để làm một bài tiểu luận kết thúc mơn học (giới hạn chừng 5-10 trang). Đây là dịp để sinh viên cĩ cơ hội vận dụng những vốn liếng kiến thức đã tiếp thu qua tập giáo trình vào những suy nghĩ và phân tích của chính mình về một vấn đề thực tiễn nào đĩ trong lĩnh vực truyền thơng đại chúng. Bài tiểu luận cuối mơn học khơng phải là chuyện bắt buộc, nhưng chúng tơi khuyến khích sinh viên nên chọn bắt tay vào làm một đề tài, vì điều này sẽ rất cĩ lợi cho việc rèn luyện khả năng viết lách, khả năng tư duy, và khả năng độc lập suy nghĩ. Về phương pháp học tập, sinh viên nên đọc kỹ từng chương (đọc kỹ để nắm được nội dung, chứ hồn tồn khơng phải để “học thuộc lịng”!). Nhưng ngồi tập giáo trình này, sinh viên nhất thiết phải cố gắng đọc thêm sách báo cĩ liên quan tới mơn học này (ngồi những cuốn sách và bài tạp chí mà chúng tơi đã nêu trong phần tài liệu tham khảo). Đọc càng nhiều càng tốt. Kể từ khi bắt đầu học mơn này, hàng ngày sinh viên nên tập đọc báo hoặc coi ti-vi với một cặp mắt mới, khơng phải như một độc giả hay một khán giả bình thường, mà là đọc với cặp mắt của một người phân tích và cĩ ĩc phê phán. Vì đối tượng của mơn học này chính là sinh hoạt báo chí, phát thanh và truyền hình mà hầu như ai cũng theo dõi hàng ngày, nên đây cũng là một điều hết sức thuận lợi cho sinh viên cĩ ngay nhiều cơ hội để quan sát và hỏi han những người xung quanh để tìm hiểu tập quán và nhu cầu của các loại độc giả và khán giả khác nhau, xem xét coi họ phản ứng thế nào đối với trang mục này hay chương trình nọ, và thử 5 tìm xem vai trị và ý nghĩa của các phương tiện truyền thơng trong đời sống xã hội của họ... Nội dung tập giáo trình này nêu ra khá nhiều lý thuyết khác nhau về truyền thơng đại chúng. Thoạt nhìn thì cĩ thể cĩ cảm giác hơi khơ khan, nặng nề, nhưng nếu đọc kỹ và suy nghĩ kỹ thì sẽ thấy đấy khơng phải là những “lý thuyết suơng”, mà phần lớn chúng đều cĩ liên quan ít nhiều mật thiết tới những khía cạnh khác nhau trong đời sống truyền thơng diễn ra hàng ngày xung quanh chúng ta. Mong rằng mơn học này sẽ giúp sinh viên hiểu sâu hơn về thế giới truyền thơng, và nhất là cĩ được những cái nhìn mới mang tính chất phân tích và sáng tạo. 6 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huỳnh Văn Tịng, Lịch sử báo chí Việt Nam, TPHCM, Khoa báo chí Đại học Mở-bán cơng TPHCM, 1994. 2. Ngơ Hà, “Lược sử báo chí thành phố (1865-1945)”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Cơng Bình (chủ biên), Địa chí văn hĩa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb TPHCM, 1988, tr. 319- 385. 3. Tầm Nguyên, “Báo chí Sài Gịn trong 30 năm kháng chiến (1944-1975)”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Cơng Bình (chủ biên), Địa chí văn hĩa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb TPHCM, 1988, tr. 387-410. 4. Hồng Chương, Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Hà Nội, Nxb Sách giáo khoa Mác Lê-Nin, 1987. 5. Lê Minh Quốc, Hỏi đáp báo chí Việt Nam, TPHCM, Nxb Trẻ, 2001. 6. Đỗ Quang Hưng, “Buổi đầu tiên của báo chí Việt Nam”, tạp chí Xưa và Nay, số 64B, 6-1999, tr. 5. 7. Nguyễn Hữu Viêm, “Hồng Tích Chu, người đầu tiên cách tân báo chí Việt Nam”, tạp chí Xưa và Nay, số 61, 3-1999. 8. Văn Giá, “Nhà báo-nhà văn, viết văn-viết báo”, tạp chí Nghề báo, số 14, 6-2003, tr. 16. 9. Daniel Hémery, “Sài Gịn thập niên 30 : 'La Lutte' (1933- 1937) tờ báo chiến đấu” (Nguyễn Ngọc Giao dịch), trong Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính (chủ biên), Từ Đơng sang Tây, Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, 2005, tr. 86-113. 10. Loic Hervouet, Viết cho độc giả (Lê Hồng Quang dịch), Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, 1999. 7 11. Hữu Thọ, Nghĩ về nghề báo, Hà Nội, Nxb Giáo dục, 1997. 12. Hội Ngơn ngữ học TPHCM, Viện Ngơn ngữ học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Tiếng Việt trên các phương tiện truyền thơng đại chúng, TPHCM, 1999. 13. Trung tâm Ngơn ngữ học (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ), Quảng cáo và ngơn ngữ quảng cáo, TPHCM, 2004. 14. Trần Hữu Quang, Chân dung cơng chúng truyền thơng (qua khảo sát xã hội học tại TPHCM), TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gịn, Trung tâm Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, 2001. 15. Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gịn thời Pháp thuộc”, tạp chí Xã hội học, số 3&4, 1999, tr. 32-38. 16. Trần Hữu Quang, Xã hội học nhập mơn (giáo trình), Đại học Tổng hợp TPHCM, 1993. 17. Trần Hữu Quang, Xã hội học báo chí (sắp xuất bản). 18. Philippe Breton, Serge Proulx, Bùng nổ truyền thơng (Vũ Đình Phịng dịch), Hà Nội, Nxb Văn hĩa-thơng tin, 1996. 19. Michael Schudson, Sức mạnh của tin tức truyền thơng (bản dịch cuốn The Power of News, Harvard, Harvard University Press, 1995, người dịch: Thế Hùng, Trà My), Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. 20. Pierre Albert, Lịch sử báo chí (Dương Linh dịch), Hà Nội, Nxb Thế giới, 2003. 21. Nghề báo, tạp chí của Hội Nhà báo TPHCM. 22. Người làm báo, tạp chí của Hội Nhà báo Việt Nam. 23. Nhà báo và Cơng luận, tạp chí của Hội Nhà báo Việt Nam. 8 Bài 1 TÌM HIỂU KHÁI NIỆM TRUYỀN THƠNG Giới thiệu khái quát: Nội dung chương 1 trình bày những khái niệm căn bản cần nắm rõ như “truyền thơng”, “truyền thơng đại chúng”, “các phương tiện truyền thơng đại chúng”, những đặc điểm của quá trình truyền thơng, và mối quan hệ giữa truyền thơng đại chúng với truyền thơng liên cá nhân. Mục tiêu của chương này: Phân biệt được những khái niệm then chốt nêu trên, và hiểu được những đặc trưng của một quá trình truyền thơng. 9 TRUYỀN THƠNG Truyền thơng là gì? Cĩ thể nĩi một cách ngắn gọn rằng truyền thơng là một quá trình truyền đạt thơng tin. Truyền thơng (communication) là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ một tổ chức nào mang tính chất xã hội. Ngay trong một bầy ong hay một bầy kiến cũng cĩ truyền thơng: đám ong thợ thường truyền đạt cho nhau những thơng tin về loại hoa mà chúng tìm được cũng như về khoảng cách và phương hướng mà chúng phải rủ nhau bay tới để hút nhụy và đưa mật hoa về tổ. Trong xã hội lồi người, truyền thơng lại càng là một điều kiện tiên quyết để cĩ thể hình thành nên một “xã hội” hoặc “cộng đồng”. Sở dĩ người ta cĩ thể sống được với nhau, giao tiếp và tương tác được với nhau trước hết là nhờ vào hành vi truyền thơng. Người ta gọi đây là truyền thơng liên cá nhân (interpersonal communication), nghĩa là truyền đạt thơng tin giữa người này với người khác. Sự truyền thơng này trước hết được thể hiện thơng qua lời nĩi hoặc chữ viết, tức là thơng qua ngơn ngữ, nhưng cũng cĩ thể thơng qua cử chỉ, điệu bộ, hay hành vi để biểu tỏ thái độ hoặc cảm xúc. Vì thế, cĩ thể cĩ hai cách thức truyền thơng : truyền thơng bằng lời nĩi (verbal), và truyền thơng khơng bằng lời nĩi (non-verbal). Người ta thường phân biệt ba loại truyền thơng như sau : - Truyền thơng liên cá nhân (giữa người này với người khác), - Truyền thơng tập thể (tức là truyền thơng trong nội bộ một cơ quan, một cơng ty, một tổ chức đồn thể, hay một nhĩm xã hội nào đĩ). - Và truyền thơng đại chúng. 10 TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Vậy thế nào là truyền thơng đại chúng? Truyền thơng đại chúng (mass communication) là quá trình truyền đạt thơng tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. (Trong định nghĩa này, cần chú ý đến cái vế thứ hai: một quá trình truyền thơng chỉ được gọi là quá trình truyền thơng đại chúng nếu nĩ được phát ra “thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng”). Các phương tiện truyền thơng đại chúng (hay cũng cịn gọi là “các phương tiện thơng tin đại chúng”) (mass media) là những cơng cụ kỹ thuật hay những kênh mà phải nhờ vào đĩ người ta mới cĩ thể thực hiện quá trình truyền thơng đại chúng, nghĩa là tiến hành việc phổ biến, loan truyền thơng tin ra mọi người dân trong xã hội. Ở đây, chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa hai thuật ngữ “truyền thơng đại chúng” và “phương tiện truyền thơng đại chúng” mà người ta thường sử dụng lẫn lộn một cách khơng chính xác. Nĩi tới các “phương tiện truyền thơng đại chúng” (mass media) như báo chí, phát thanh, truyền hình... là nĩi tới những cơng cụ kỹ thuật (hay những cái kênh) để nhờ đĩ người ta cĩ thể thực hiện quá trình truyền thơng đại chúng. Cịn khi nĩi tới “truyền thơng đại chúng” (mass communication) là chúng ta muốn nĩi tới một quá trình xã hội: quá trình truyền tải thơng tin ra cơng chúng thơng qua các phương tiện ấy. Chúng ta mở ti-vi xem cơ phát thanh viên đọc một bản tin hoặc coi một trận đá banh: đĩ là một hành vi được gọi là nằm trong quá trình truyền thơng đại chúng. Thế nhưng nếu chúng ta cũng mở màn hình ti-vi, nhưng lại để coi một cuốn băng viđêơ quay cảnh đám cưới của cơ em gái trong gia đình, thì hành động này lại khơng thể được coi 11 là nằm trong quá trình truyền thơng đại chúng, bởi một lẽ đơn giản là cuốn băng này chỉ được quay và phát trong khuơn khổ sinh hoạt gia đình mà thơi. Nhưng nếu chúng ta xem một cuốn băng viđêơ đám cưới của gia đình một diễn viên điện ảnh chẳng hạn được phát trên truyền hình, thì đấy lại là một hành vi nằm trong quá trình truyền thơng đại chúng. Nĩi cách khác, điều mấu chốt trong việc xác định xem một hành vi cĩ nằm trong quá trình truyền thơng đại chúng hay khơng khơng phải là cái màn hình ti-vi hay cái đầu máy viđêơ, mà là cần xem xét coi hành vi ấy cĩ nằm trong quá trình truyền tải thơng tin ra rộng rãi cơng chúng thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng hay khơng. Người ta thường liệt kê các hoạt động sau đây nằm trong lĩnh vực truyền thơng đại chúng: báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, sản xuất băng đĩa (âm nhạc chẳng hạn)... Gần đây, chúng ta cĩ thể kể thêm cả Internet. [Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phương tiện Internet cĩ đặc điểm là cĩ thể được sử dụng cho cả ba loại truyền thơng: truyền thơng liên cá nhân (chẳng hạn gởi thư điện tử hay e- mail); truyền thơng tập thể (chẳng hạn những trang website mà chỉ cĩ những người trong nội bộ một cơ quan hay một cơng ty mới cĩ thể truy cập được); và truyền thơng đại chúng (chẳng hạn những trang website của tờ Tuổi trẻ hay tờ Sài Gịn Giải phĩng)]. Truyền thơng đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm ba thành tố sau đây: - Hoạt động truyền thơng (chẳng hạn như đi săn tin, quay phim, chụp hình... rồi viết bài, biên tập, cuối cùng là xuất bản, hoặc phát sĩng), - Các nhà truyền thơng (bao gồm các tổ chức truyền thơng như 12 báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình... và những người làm cơng tác truyền thơng như nhà báo, phĩng viên, biên tập viên, phát thanh viên...), - Và đại chúng (các tầng lớp cơng chúng rộng rãi). ĐẠI CHÚNG Chữ “đại chúng” trong thuật ngữ “truyền thơng đại chúng” được dùng để chỉ đối tượng cơng chúng độc giả hay khán thính giả của các phương tiện truyền thơng đại chúng. Thực ra, “đại chúng” (mass) là một khái niệm khá mơ hồ và khĩ mà cĩ một định nghĩa thật chính xác. Kể cả về mặt số lượng lẫn về mặt tính chất. Chẳng hạn, người ta khơng thể xác định được là phải đơng đến số lượng bao nhiêu thì mới gọi là đại chúng. Một tờ báo chuyên ngành khoa học chẳng hạn cĩ thể chỉ cĩ vài trăm độc giả, nhưng đây vẫn là một “phương tiện truyền thơng đại chúng” vì nĩ được bán cơng khai ra cơng chúng. Cịn tờ nội san của một đại cơng ty chẳng hạn cĩ thể cĩ số ấn bản lên tới vài chục ngàn tờ, nhưng nĩ vẫn khơng phải là một “phương tiện truyền thơng đại chúng” vì nĩ chỉ lưu hành trong nội bộ cơng ty và khơng được bán rộng rãi ra thị trường. Herbert Blumer đã phân biệt bốn đặc điểm sau đây để nhận dạng khái niệm đại chúng: - Đại chúng bao gồm những người thuộc mọi thành phần xã hội, bất kể nghề nghiệp, trình độ học vấn hay tầng lớp xã hội nào (nghĩa là cĩ những đặc trưng rất dị biệt nhau). - Nĩi đến đại chúng là nĩi đến những cá nhân nặc danh, nghĩa là: vì nhắm đến một cơng chúng đơng đảo, nên nhà truyền thơng khơng thể biết ai là ai, và khi truyền thơng thì họ cũng ý thức rằng thơng tin của họ cĩ thể đến với bất cứ ai, chứ khơng chỉ riêng một ai hay một nhĩm người nào mà thơi. 13 - Các thành viên của đại chúng thường là độc lập nhau, khơng ai biết ai, khơng cĩ những sự tương tác hay những mối quan hệ gì gắn bĩ với nhau (khác với những khái niệm như “cộng đồng” hay “hiệp hội” chẳng hạn). - Đặc điểm thứ tư của đại chúng là hầu như khơng cĩ hình thức tổ chức gì, hoặc nếu cĩ thì cũng rất lỏng lẻo. [Dẫn lại theo Alphons Silbermann, Communication de masse, Paris, Nxb Hachette, 1981, tr. 15] QUÁ TRÌNH TRUYỀN THƠNG Mỗi khi đề cập tới truyền thơng, người ta thường nhắc tới cơng thức “5W” nổi tiếng của Harold Lasswell: “Ai nĩi cái gì, bằng kênh nào, nĩi cho ai, và cĩ hiệu quả gì?” (“Who says what in which channel to whom with what effect?”) [Harold Lasswell, “The structure and function of communication in society”, trong Lyman Bryson (Ed.), The Communication of Ideas, New York, 1948, tr. 37]. Đây là một cơng thức rút gọn gợi ý giúp chúng ta liệt kê ra những yếu tố chính phải cĩ trong nội dung một bản tin. Tuy nhiên, giới hạn của cơng thức này là chỉ hình dung quá trình truyền thơng như một đường thẳng (tuyến tính) giữa một đầu là người phát tin (transmitter), và đầu kia là người nhận tin (receiver). Do đĩ, với cơng thức này, người ta dễ rơi vào khuynh hướng chỉ quan niệm về người nhận tin như một người nhận tin một cách thụ động (xem sơ đồ 1). Người phát tin Người nhận tin Kênh truyền tin Sơ đồ 1. Mơ hình truyền thơng tuyến tính 14 Về sau, các nhà nghiên cứu thường khơng cịn quan niệm quá trình truyền thơng một cách tuyến tính như trên nữa, mà quan niệm quá trình truyền thơng như một chu kỳ, với dạng đường vịng khép kín, trong đĩ bao gồm bốn giai đoạn chính như sau: phát tin, truyền tin, nhận tin, và phản hồi. Đây là quan niệm đã được nhà ngơn ngữ học Roman Jakobson phác thảo một cách khá hồn chỉnh (xem sơ đồ 2). Sơ đồ 2. Mơ hình truyền thơng chu kỳ theo Jakobson Phản hồi Người phát tin Phác thảo thông điệp trong đầu Mã hóa Kênh truyền tin Người phát tin Người nhận tin Giải thích thông điệp Thu nhận tin Giải mã Bộ lọc Bộ lọc Bộ lọc Tiếng động Bộ lọc PHÁT TIN NHẬN TIN TRUYỀN TIN Nguồn: Michel de Coster, Introduction à la sociologie, 3è édition, Bruxelles, Nxb De Boeck, 1992, trang 98. Xuất phát từ ý tưởng của ngành điều khiển học, mơ hình truyền thơng theo chu kỳ này quan niệm rằng: một thơng điệp, sau khi được phát ra, luơn luơn gây ra một phản ứng nào đĩ về phía người nhận tin, 15 và do đĩ, người nhận tin sẽ cĩ một thơng điệp phản hồi (feedback) gởi về lại cho người phát tin ban đầu. Lúc này, người nhận tin cũng trở thành một người phát tin. Như vậy, quá trình truyền thơng thực chất phải được hiểu như là một quá trình trao đổi thơng tin giữa người này với người khác trong cuộc sống xã hội. Chúng ta hãy khảo sát kỹ hơn từng giai đoạn trong mơ hình này của Jakobson. Giai đoạn phát tin (emission) Truyền thơng là bộc lộ một ý tưởng của mình bằng một hệ thống tín hiệu (signs), dưới dạng ngơn ngữ hoặc cử chỉ, nghĩa là bằng một thứ mã (code) mà người phát tin cĩ thể hiểu được – thao tác này gọi là mã hĩa (coding). Cĩ thể nĩi mỗi ngơn ngữ là một hệ thống mã: tiếng nĩi khơng là gì khác hơn là một chuỗi những âm thanh, cịn chữ viết là một chuỗi những ký tự, và những âm thanh hay ký tự này được sắp xếp và phối hợp với nhau theo một số qui tắc ngữ pháp nhất định để cĩ thể mang những ý nghĩa nào đĩ. Giữa giai đoạn “phác thảo thơng điệp trong đầu” và giai đoạn “mã hĩa”, thường xảy ra một thứ hiện tượng giống như “bị nhiễu”: nội dung một thơng điệp (message) sau khi được mã hĩa (nghĩa là sau khi được nĩi ra thành lời, hay được viết ra trên giấy) đơi khi khơng hồn tồn phản ánh chính xác ý tưởng định nĩi trong đầu. Hiện tượng này được Jakobson gọi là “filtering”, chúng tơi tạm dịch là hiện tượng thơng qua “bộ lọc” (cĩ thể hình dung tương tự như việc lọc cà-phê qua cái phin). Sở dĩ cĩ hiện tượng này, một mặt cĩ thể do người phát tin chưa làm chủ được ngơn ngữ mà mình sử dụng, nhưng cũng cĩ thể do ngay bản thân ngơn ngữ thường khơng cho phép diễn đạt được hết những ý tứ hoặc những sắc thái tế nhị hoặc phức tạp mà người phát tin muốn bày tỏ. 16 Giai đoạn truyền tin (transmission) Giai đoạn truyền đạt thơng tin cĩ thể diễn ra bằng hình thức tiếp xúc trực tiếp (đối diện) giữa người phát và người nhận tin, nhưng cũng cĩ thể thơng qua một phương tiện kỹ thuật trung gian hay một kênh truyền thơng nào đĩ (medium) như điện thoại, máy fax, telex, máy nhắn tin, thư từ (viết trên giấy), thư điện tử (e-mail)... Cũng cĩ khi “kênh truyền thơng” ở đây lại là một người thứ ba, đĩng vai trị trung gian, mà người phát tin nhờ nhắn lại cho người nhận tin. Khi thơng điệp được chuyển qua một kênh trung gian nào đĩ thì rất cĩ khả năng là sẽ bị nhiễu bởi những loại tiếng ồn (noise) khác nhau (máy bị rè, tiếng động ồn ào xung quanh...), và do đĩ nội dung thơng điệp cĩ thể bị sai lạc hoặc bị mất đi một phần nào đĩ. Cịn trong trường hợp truyền tin thơng qua một người thứ ba (nhờ nhắn lại), thì rất cĩ thể “bộ lọc” chủ quan của người này cũng làm biến dạng đi ít nhiều nội dung của thơng điệp. Giai đoạn nhận tin (reception) Chúng ta cần phân biệt mấy thao tác khác nhau để cĩ thể hiểu được đặc trưng của giai đoạn này (mặc dù thực ra những thao tác này trong thực tế xảy ra gần như cùng một lúc). Trước hết là thao tác “thu nhận tin” (tức là ghi lại thơng điệp - “message recording"). Ở đây, việc ghi nhận tin cĩ thể khơng được đầy đủ, một phần do tác động của các loại “tiếng ồn”, nhưng cũng cĩ thể một phần do người nhận tin khơng nắm bắt được trọn vẹn thơng điệp. Người nghe thường khơng nghe được đầy đủ trọn vẹn thơng điệp được phát ra: anh ta nghe khơng rõ hoặc nghe khơng kịp, nhất là khi mà thơng điệp được phát ra quá dài dịng. Lúc đĩ, người nhận tin chỉ ghi nhớ được một phần của thơng điệp mà thơi: vì khơng thể ghi nhớ tồn văn nội dung thơng điệp giống như một cái máy ghi âm, nên anh ta buộc phải chọn lọc một số thơng tin mà anh ta cĩ thể nhớ được, một 17 cách cĩ ý thức hay khơng cĩ ý thức. Người nghe thường “chọn lọc” theo những tiêu chuẩn như: những vấn đề mà anh ta đang quan tâm, những nội dung phù hợp với suy nghĩ của anh ta, những điều mà anh ta cho là quan trọng, hoặc hấp dẫn, v.v... (Cĩ thể tham khảo một thí dụ: trong trị chơi kể một câu chuyện cho một dãy thành viên, trong đĩ người đứng trước kể lại câu chuyện cho người đứng sau, nhưng chỉ nĩi nhỏ vào tai mà thơi, người ta thường thấy kết quả đến người cuối cùng là câu chuyện thường đã khơng cịn như nguyên bản kể cho người đầu tiên. Cĩ thể coi đây là một thí dụ sinh động minh chứng cho hiện tượng tri giác cĩ chọn lọc của con người chúng ta [selective perception].) Thao tác giải mã (decoding) : chúng ta biết là mỗi ngơn ngữ bao gồm những từ, những thuật ngữ hoặc thành ngữ mang những biểu tượng đặc thù. Vì thế, nếu người nhận tin khơng nắm được đầy đủ chìa khĩa của “hệ thống mã” này (nghĩa là khơng hiểu hết ý nghĩa của các từ ngữ được sử dụng trong thơng điệp) thì rất cĩ thể sẽ tiếp thu khơng đúng, “giải mã” khơng đúng nội dung thơng điệp. Sau khi giải mã thơng điệp, người nhận tin cịn phải giải thích nội dung thơng điệp để hiểu được ý nghĩa của nĩ. Việc giải thích này được tiến hành phụ thuộc vào cái khung qui chiếu (frame of reference) của người nhận tin. Cái khung này chủ yếu được qui định bởi nguồn gốc xã hội, tuổi tác, quá trình giáo dục và trình độ học thức của người nhận tin; nĩi cách khác, cĩ thể gọi đây là hành trang văn hĩa của người nhận tin. Cái khung này cĩ hai trục: trục nhận thức (cognitive dimension), và trục cảm xúc (affective dimension). Vốn kiến thức cũng như vốn sống sẽ cung cấp những yếu tố cần thiết để giải thích thơng điệp: đây chính là trục nhận thức. Mặt khác, hành trang tâm lý (vốn cũng là hệ quả của mơi trường xã hội và của quá trình giáo dục) cũng như tâm trạng hay tính khí lúc nhận thơng điệp cũng đều là 18 những yếu tố cĩ thể ảnh hưởng tới cách giải thích nội dung thơng điệp: đây là trục cảm xúc. Tĩm lại, việc tiếp nhận các thơng điệp thường mang tính chất cục bộ (nghĩa là khơng ghi nhận đầy đủ trọn vẹn thơng điệp), chọn lọc (người nhận tin thường chọn lọc để tiếp nhận một số thơng tin), và lý giải (tức là thơng điệp luơn luơn được người nhận tin giải thích theo cái khung qui chiếu của mình, hiểu nĩ theo vốn liếng văn hĩa riêng). Cuối cùng, thơng điệp do người phát tin chuyển đi thường gây ra một kết quả là làm cho người nhận tin cĩ một phản ứng nào đĩ trở lại cho người phát tin. Như vậy, lúc này, người nhận tin cũng trở thành một người phát tin, một nguồn thơng tin. Phản hồi (feedback) Chính là bắt nguồn từ ngành điều khiển học (cybernetics) mà ngành khoa học nghiên cứu về truyền thơng đã nhấn mạnh tới khái niệm “phản hồi” và tới những tác động của nĩ trong đời sống xã hội. Ngành điều khiển học cho rằng bất cứ một tổ chức hay một cơ thể nào đều chỉ cĩ thể tồn tại được với hai điều kiện: đối với bên ngồi, bằng cách tự điều chỉnh theo những biến thái của mơi trường; và ở bên trong, bằng cách tự mình thích ứng nhằm đáp ứng được với những biến thái sâu xa hơn sẽ diễn ra ở mơi trường bên ngồi. Ý tưởng về sự phản hồi trong ngành điều khiển học trên đây được đưa vào lĩnh vực truyền thơng để thấy rằng khơng thể giải thích quá trình truyền thơng theo mơ hình truyền thống của Lasswell, mà cần phải hiểu rằng quá trình truyền thơng là một quá trình trao đổi thơng tin giữa hai nguồn thơng tin. Truyền thơng khơng thể được quan niệm như một quá trình tuyến tính, một chiều, xảy ra một lần là xong (giữa người phát tin và người nhận tin), mà phải được xem xét như một chu kỳ (cycle) trong đĩ cĩ nhiều thơng điệp được trao đổi qua lại 19 với nhau giữa các nguồn thơng tin. Hay nĩi cách khác, chúng ta cần hình dung quá trình truyền thơng luơn luơn diễn ra trong bối cảnh của các mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân. Mơ hình truyền thơng theo chu kỳ mà Jakobson phác thảo tuy chỉ đi sâu phân tích một chu kỳ truyền thơng, nhưng nĩ đã nêu lên được những tính chất cơ bản của bất cứ qui trình truyền thơng nào, dù đĩ là truyền thơng liên cá nhân, tập thể hay đại chúng. Cĩ hiểu được các giai đoạn trong mơ hình truyền thơng này, chúng ta mới cĩ thể hình dung được một cách sâu xa tại sao phản xạ của người làm báo là luơn luơn tự đặt mình vào vị trí người đọc (luơn luơn phải trả lời câu hỏi “viết cho ai?"), và mới thấy hết được ý nghĩa biện chứng của mối quan hệ giữa người làm báo và đối tượng cơng chúng của mình. TRUYỀN THƠNG LIÊN CÁ NHÂN VÀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Mỗi người chúng ta luơn luơn sống trong mơi trường cĩ nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau (với gia đình, với bạn bè, với đồng nghiệp...). Hành vi tiếp nhận truyền thơng đại chúng chỉ là một trong những hành vi diễn ra trong mơi trường xã hội ấy. Vì thế, thơng thường nội dung của các phương tiện thơng tin đại chúng tác động đến chúng ta thơng qua cái màng lưới quan hệ xã hội vốn cĩ đĩ. Đây là một khám phá xuất phát từ một cơng trình điều tra nổi tiếng của Lazarsfeld, Berelson và Gaudet tiến hành vào năm 1940 ở bang Ohio (Mỹ) [People's Choice, dẫn lại theo Judith Lazar, Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, tr. 90-95]. Đây là cơng trình nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của những chiến dịch vận động tranh cử tổng thống đối với dân chúng Mỹ, 20 để tìm hiểu coi người dân quyết định thế nào khi đi bầu, và tại sao họ lại quyết định bầu cho một ứng cử viên nào đĩ. Điều bất ngờ mà cuộc điều tra này đã khám phá ra, đĩ là : trái ngược với điều mà người ta vẫn lầm tưởng, chiến dịch vận động tranh cử (chủ yếu thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng) hầu như khơng hề làm thay đổi ý định bầu cử vốn cĩ của cử tri. Nĩi như vậy khơng cĩ nghĩa là cuộc vận động khơng cĩ tác động nào hết. Thực ra, tác động của chiến dịch vận động chỉ là : củng cố cho ý định bầu cử đã cĩ từ trước của cử tri, hoặc là chỉ làm xuất hiện những ý định vốn đã tiềm tàng trong đầu của cử tri. Các tác giả trên lý giải như sau : người ta luơn luơn cĩ tri giác mang tính “chọn lọc", và khi tiếp nhận các thơng điệp từ truyền thơng đại chúng, người ta thường cĩ xu hướng dễ tiếp nhận những nội dung gì phù hợp với quan niệm của mình, và gạt bỏ ra ngồi tai những gì trái với hoặc xa lạ với suy nghĩ của mình. Vì thế, những ai vốn đã ủng hộ Đảng Dân chủ chẳng hạn thì thường chọn nghe những thơng điệp của đảng này, hơn là đi nghe những diễn văn của Đảng Cộng hịa. Nhìn chung, số người thay đổi ý định bầu cử chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Nĩi cách khác, các chiến dịch vận động tranh cử thực ra chỉ đem lại một hiệu quả rất yếu ớt trong việc thuyết phục người dân thay đổi ý định bầu cử của mình. Cuộc điều tra trên đây cũng khẳng định rằng quyết định chọn lựa của người dân phụ thuộc vào việc họ là thành viên của những nhĩm xã hội nào (tơn giáo, gia đình, câu lạc bộ...). Những người sống trong cùng những hồn cảnh kinh tế và văn hĩa-xã hội tương tự nhau, thì thường cĩ cùng những suy nghĩ và chọn lựa giống nhau. Qua điều tra, người ta mới khám phá ra rằng chính những buổi trao đổi, trị chuyện, tranh luận... với những người xung quanh trong những nhĩm xã hội ấy đã tác động lên suy nghĩ của người dân nhiều hơn so với những thơng điệp được phát ra từ các phương tiện truyền thơng đại chúng. Các tác 21 giả nghiên cứu đã nhận diện ra vai trị quan trọng của những người “hướng dẫn dư luận” (opinion leaders) trong các nhĩm xã hội, và từ đĩ phác họa ra giả thuyết về mơ hình truyền thơng hai giai đoạn (two- step flow of communication), trong đĩ những người “hướng dẫn dư luận” là những người đĩng vai trị trung gian trong quá trình truyền thơng này. Sơ đồ 3. Giả thuyết về quá trình truyền thơng qua hai giai đoạn TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG ý tưởng ý tưởng ý tưởng ý tưởng Người dân Người hướng dẫn dư luận ý tưởng Nguồn: Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 95. Những người mà các nhà nghiên cứu gọi là “hướng dẫn dư luận” ở đây thực ra chỉ là những người là cĩ uy tín trong các nhĩm xã hội (nhĩm gia đình, nhĩm bạn bè, nhĩm đồng nghiệp...), cĩ nhiều kiến thức và hiểu biết do thường xuyên đọc báo hay nghe rađiơ, và thường được những người khác trong nhĩm hỏi han ý kiến. Bản thân họ, chưa chắc họ đã ý thức mình là người “hướng dẫn dư luận”. Trong một 22 nhĩm, cĩ khi người này là người “hướng dẫn dư luận” trong lĩnh vực văn hĩa, người khác thì trong lĩnh vực mua sắm, và một người khác nữa trong lĩnh vực chính trị, v.v... Trong quá trình điều tra, xác định được một người là người “hướng dẫn dư luận” khơng phải là chuyện dễ dàng, nhất là khi chúng ta tiến hành điều tra nơi một số lượng dân cư đơng đảo. Người ta thường đặt ra hai loại câu hỏi sau để tìm kiếm nhân vật này: (1) Trong thời gian gần đây, ơng/bà cĩ bao giờ tìm cách thuyết phục người khác về một chuyện gì đĩ hay khơng? (2) Trong thời gian gần đây, cĩ ai đến hỏi ý kiến ơng/bà về một chuyện gì đĩ hay khơng ? Cơng trình nghiên cứu trên đây đã mở đầu cho nhiều cuộc điều tra về sau nghiên cứu về vai trị của truyền thơng liên cá nhân đối với truyền thơng đại chúng. Qua đĩ, người ta nhấn mạnh rằng quá trình truyền thơng khơng phải lúc nào cũng đi theo con đường “từ trên xuống dưới", mà thơng thường là đi theo qui luật “ngang hàng”: người dân thường trị chuyện, tranh luận, hay tìm hiểu về một chuyện gì đĩ với những người thuộc cùng giới, cùng tầng lớp, cùng mơi trường xã hội, chứ ít khi hỏi han hoặc trị chuyện với những người cĩ vị thế xã hội xã hội cao hơn. (Một thí dụ rất dễ thấy: một bà nội trợ hiếm cĩ khi nào đi mua sắm ngay lập tức một mĩn đồ ngay sau lúc xem quảng cáo trên báo chí hay trên ti-vi, nhất là nếu đây là một mĩn tương đối đắt tiền; bà ta thường đi hỏi thêm ý kiến một vài người bạn ở cùng xĩm hoặc làm cùng cơ quan trước khi đi đến quyết định cuối cùng.) Các cuộc điều tra đã chứng minh rằng người dân thường khơng chịu ảnh hưởng từ truyền thơng đại chúng một cách trực tiếp, như một “mũi kim chích", mà thường là gián tiếp thơng qua việc trao đổi, hỏi han với những người cĩ uy tín trong các nhĩm xã hội của họ, và lối suy nghĩ cũng như chính kiến của họ thường được xác lập thơng qua những cuộc trị chuyện, giao tiếp mang tính chất liên cá nhân đĩ. Nĩi 23 cách khác, hiệu quả tác động của truyền thơng đại chúng thường chỉ diễn ra một cách trọn vẹn khi được tiếp nối bởi các quá trình truyền thơng liên cá nhân, nghĩa là thơng qua các mối quan hệ trong các nhĩm xã hội và trong từng mơi trường xã hội cụ thể. Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 1: - “Truyền thơng” là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ tổ chức xã hội nào. - Cần phân biệt ba loại hình truyền thơng liên cá nhân, truyền thơng tập thể, và truyền thơng đại chúng. Nhận thức rõ sự khác biệt giữa “truyền thơng đại chúng” (với tư cách là một quá trình xã hội) và “các phương tiện truyền thơng đại chúng” (vốn là những kênh hay những cơng cụ kỹ thuật được dùng để thực hiện quá trình truyền thơng đại chúng). - Tìm hiểu kỹ lưỡng sơ đồ truyền thơng theo chu kỳ (của Jakobson), và những đặc điểm của từng giai đoạn trong chu kỳ truyền thơng này. - Mối quan hệ giữa truyền thơng đại chúng và truyền thơng liên cá nhân trong xã hội. Câu hỏi ơn tập: 1. Hãy định nghĩa thế nào là “truyền thơng liên cá nhân", thế nào là “truyền thơng tập thể", và thế nào là “truyền thơng đại chúng". 2. Liệt kê các loại phương tiện truyền thơng đại chúng. 3. Hãy cho biết những đặc điểm chính của cơng chúng của các phương tiện truyền thơng đại chúng. 24 4. So sánh hai mơ hình truyền thơng theo Lasswell và theo Jakobson. Hãy trình bày đặc điểm của từng giai đoạn trong mơ hình truyền thơng của Jakobson. 5. Thế nào là mơ hình truyền thơng tuyến tính, và mơ hình truyền thơng hai giai đoạn (two-step flow of communication)? Câu hỏi thảo luận nhĩm: (hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân) 1. Thử diễn giải ý nghĩa của mơ hình truyền thơng của Jakobson đối với những người làm cơng tác truyền thơng. Cho một vài thí dụ cụ thể. 2. Trong thực tế xã hội, truyền thơng đại chúng cĩ liên quan thế nào với truyền thơng liên cá nhân ? Hãy tìm thí dụ và giải thích mối quan hệ giữa hai quá trình truyền thơng này. 25 Bài 2 LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG. MỘT ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI MỚI Giới thiệu khái quát: Chương này giới thiệu lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thơng đại chúng trên thế giới, từ báo chí cho tới phát thanh và truyền hình, cũng như đặc điểm của quá trình hình thành định chế truyền thơng đại chúng. Phần cuối chương này nĩi về những đối tượng nghiên cứu của bộ mơn xã hội học về truyền thơng đại chúng. Mục tiêu của chương này: Hình dung một cách khái quát lịch sử hình thành các phương tiện truyền thơng đại chúng trên thế giới. Hiểu rõ các khái niệm “định chế xã hội”, và “định chế truyền thơng đại chúng” – xét với tư cách là một định chế xã hội. Vị trí của định chế truyền thơng đại chúng trong xã hội hiện đại. Nắm được những lĩnh vực nghiên cứu của bộ mơn xã hội học truyền thơng đại chúng. Các phương tiện truyền thơng đại chúng theo nghĩa mà chúng ta hiểu ngày nay, trong đĩ trước tiên là báo chí, chỉ thực sự bắt đầu xuất hiện tại châu Âu từ thế kỷ XIX cho đến nay. Cĩ thể nĩi các phương tiện truyền thơng đại chúng chỉ ra đời cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. 26 NHỮNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THƠNG CỔ TRUYỀN Trong lịch sử thế giới, trước khi cĩ các phương tiện truyền thơng đại chúng, mỗi dân tộc đều đã sáng tạo ra những phương tiện truyền thơng riêng của mình để đáp ứng nhu cầu thơng tin trong sinh hoạt xã hội. Trong xã hội Việt Nam thời xa xưa, cũng đã từng cĩ loại phương tiện thơng tin bằng sự truyền khẩu, và phương tiện thơng tin bằng chữ viết. Các phương tiện truyền thơng bằng truyền khẩu bao gồm: - Những câu ca dao và những bài hát hoặc bài thơ dân gian, - Nhân vật “thằng mõ” trong làng xã thời xưa, - Và các thể loại ca kịch cổ truyền. Và bên cạnh đĩ là các phương tiện thơng tin bằng chữ viết như: các sớ tấu mà hệ thống quan lại ở các địa phương phải gởi về triều đình; và các biên niên sử [Xem Huỳnh Văn Tịng, Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1930, Sài Gịn, Nxb Trí Đăng, 1973, tr. 21-27]. Thế nhưng, tất cả các phương thức truyền thơng xa xưa đĩ đều chưa phải là những “phương tiện truyền thơng đại chúng” đúng nghĩa mà chúng ta hiểu bây giờ. KỸ THUẬT ẤN LỐT Tìm hiểu về lịch sử của truyền thơng đại chúng, chúng ta khơng thể khơng chú ý tới các bước phát triển của các kỹ thuật truyền thơng, xét với tư cách là những cơng cụ chứa đựng và truyền tải thơng tin. Bởi một lẽ đơn giản là chỉ với một trình độ phát triển kỹ thuật cơng 27 nghiệp thì các phương tiện truyền thơng mới cĩ thể trở thành những phương tiện truyền thơng mang tính chất đại chúng. Trước kia, khi chưa nghĩ ra các kỹ thuật in ấn, người ta chỉ cĩ thể nhân bản các cuốn sách bằng cách chép tay. Trên các sách báo ở phương Tây, người ta thường nhắc tới Johannes Gutenberg (người Đức) như là người đầu tiên phát minh ra kỹ thuật ấn lốt vào năm 1440. Nhưng thực ra, kỹ thuật này đã bắt đầu xuất hiện ở Trung Hoa từ thế kỷ thứ X. Vào thế kỷ thứ III trước Cơng nguyên, vua Tần Thủy Hồng đã từng cho khắc trên những tấm vỏ tre những tác phẩm thời cổ xưa; phương pháp khắc trên gỗ này sau đĩ được dần dần phổ biến dưới thời nhà Đường, nhà Tần Nhưng kỹ thuật ấn lốt chỉ thực sự được khám phá vào triều nhà Tống ở thế kỷ thứ X, khi người ta áp dụng kỹ thuật khắc các nét chữ lên trên một phiến gỗ, sau đĩ mặt gỗ được trét một thứ bột nhão để in lên giấy. Phương pháp này được hồn thiện khi Pi Ching lần đầu tiên chế tạo ra kỹ thuật đúc chữ rời bằng thạch cao vào khoảng năm 1041-1048. Người ta xếp những chữ rời này lên trên một tấm kim loại, rồi sau đĩ trét bột nhão (làm bằng thân cây nghiền nát) để in lên giấy. Mặt khác, chính Trung Hoa cũng là cái nơi sáng chế ra cách làm giấy rất sớm, từ năm 105 sau Cơng nguyên, sau đĩ người Ả Rập mới học lại kỹ thuật này vào thế kỷ thứ VIII rồi truyền dần lại cho các nước châu Âu từ thế kỷ thứ X trở đi. Ở Việt Nam, nghề in xuất hiện vào thế kỷ XV, do cơng lao của tiến sĩ Lương Như Hộc (1420-1501) vốn học được kỹ thuật in sách sau hai lần đi sứ ở Trung Hoa và về truyền dạy lại cho người dân ở làng Liễu Tràng, huyện Gia Lộc (Hải Hưng). Kỹ thuật in thời đĩ là khắc chữ lên trên một tấm gỗ, sau đĩ quét mực để in lên giấy. Liễu Tràng về sau trở thành nơi cĩ những thợ in rất khéo tay và gần như là 28 nơi duy nhất in sách vở trong nước [xem Huỳnh Văn Tịng, sách đã dẫn, tr. 27-29]. Cho đến nay, Lương Như Hộc vẫn thường được coi là ơng tổ của nghề in ở Việt Nam, mặc dù cũng cĩ tài liệu cho rằng nước ta đã biết làm giấy và biết nghề in bằng bản khắc gỗ, kể cả kỹ thuật in bằng chữ rời khắc gỗ, từ thời nhà Lý và nhà Trần, tức khoảng thế kỷ XII-XIII [xem Trần Đức Cường, “Sự cần thiết viết lịch sử báo chí Việt Nam”, Người làm báo, 8-1997, tr. 30] Ở châu Âu, mặc dù kỹ thuật ấn lốt ra đời sau Trung Hoa, nhưng những cải tiến tiếp sau phát minh đầu tiên của Gutenberg đã khiến cho ngành này phát triển và cơng suất in nhanh chĩng gia tăng, từ chỗ sử dụng gỗ chuyển sang việc sử dụng sắt và đồng, rồi từ chỗ in bằng máy thủ cơng chuyển sang in bằng máy sử dụng động lực máy hơi nước... vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Chúng ta cĩ thể điểm lại một số sáng chế quan trọng trong ngành in trên thế giới như sau: - Thế kỷ X: kỹ thuật in bằng cách khắc các nét chữ lên trên phiến gỗ ở Trung Hoa. - 1041-1048: Pi Ching (Trung Hoa) lần đầu tiên chế tạo ra kỹ thuật chế tạo chữ rời bằng thạch cao. - 1440: Johannes Gutenberg (Đức) phát minh ra kỹ thuật in ty-pơ với chiếc máy ép bằng vít, chế tạo ra chữ rời, lúc đầu bằng gỗ, về sau bằng kim loại. - 1780: Francois Didot (Pháp) phát minh ra kỹ thuật in bằng chữ sắt (bằng cách sắp chữ đúc rời), nhờ đĩ cơng suất in tăng gấp đơi. - 1803: chiếc máy in cơ khí đầu tiên của Friedrich Koenig (Đức), năm 1811 in được 300 tờ (một mặt) một giờ. - 1814: Friedrich Koenig hồn chỉnh chiếc máy in đầu tiên chạy hồn tồn bằng động lực máy hơi nước cho tờ báo Times ở Luân Đơn, 29 in được 1.100 tờ (một mặt) một giờ. Năm 1818, Koenig và Bauer làm ra chiếc máy in được hai mặt. - 1876: Charles Gillot (Pháp) phát minh ra kỹ thuật làm cliché (bản kẽm), nhờ đĩ người ta bắt đầu cĩ thể đưa hình ảnh lên mặt báo. - 1884: Mergenthaler (Mỹ) sáng chế kỹ thuật linotype (sắp chữ bằng máy, thay vì sắp từng chữ rời bằng tay, và đổ chữ chì đúc liền từng dịng). Sáng chế này là một bước ngoặt căn bản trong quá trình cơ khí hĩa ngành ấn lốt. - 1904: bắt đầu cĩ kỹ thuật in ốp-xét (offset). [cĩ thể xem thêm Pierre Albert, Lịch sử báo chí (Dương Linh dịch), Hà Nội, Nxb Thế giới, 2003, tr. 38-39] Nhờ các tiến bộ kỹ thuật mà cơng suất in khơng ngừng tăng lên, và điều này ngay từ đầu đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của báo chí. Một cái máy cổ xưa lúc ban đầu chỉ in được vài trăm tờ giấy mỗi ngày, rồi dần dà lên tới khoảng 3.000 tờ một ngày vào đầu thế kỷ XIX, và đạt mức 50.000 tờ giấy báo (khổ A1) trong một giờ vào cuối thế kỷ XX. Ngồi ra, lẽ tất nhiên, sở dĩ báo chí phát triển được là cịn nhờ vào các tiến bộ kỹ thuật khác nữa trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX như sản xuất giấy và mực in, giao thơng vận tải (nhất là khi ra đời xe lửa), bưu điện, điện tín (hay cịn gọi là điện báo, telegraph) (1837), telex (1930)... NHỮNG TỜ BÁO ĐẦU TIÊN Trong lịch sử, đơi khi người ta nhắc tới những tờ “báo” cổ nhất (ở dạng sơ khai) như tờ Acta diurna (cĩ nghĩa là “sự kiện hàng ngày”) xuất hiện tại La Mã từ năm 59 trước Cơng nguyên dưới thời hồng đế Julius Caesar. Đây là một dạng tờ báo viết tay lên trên các phiến gỗ, 30 hàng ngày được trưng nơi cơng cộng để dân chúng biết các quyết định quan trọng của nghị viện, biết lịch tranh tài ở đấu trường, ngày xét xử các vụ án, đám cưới, đám ma... Hay tờ Kinh báo (Tching Pao, cĩ nghĩa là “tờ báo của kinh đơ”), tờ báo của triều đình Bắc Kinh (Trung Hoa), xuất hiện khoảng năm 400 sau Cơng nguyên và tồn tại suốt cho đến đầu thế kỷ XX, chuyên thơng tin về các biến cố lớn và các quyết định của triều đình [xem Pierre Albert, sách đã dẫn, tr. 6-14]. Tuy nhiên, nếu hiểu theo đúng nghĩa của một “tờ báo”, những tờ báo sau đây thường được coi là xuất hiện sớm nhất trong lịch sử báo chí thế giới: - Đức 1605: tờ Relation, tờ báo đầu tiên ra đời tại Strasbourg (nay thuộc nước Pháp, nhưng hồi ấy cịn thuộc nước Đức). - Bỉ 1605: tờ báo định kỳ Die Niewe Tidjingler (Tin tức Anvers), nửa tháng ra một số. - Đức 1609: tờ báo định kỳ Relation aller fuernemmen in Gedenk wuedigen Historien. 1660: tờ nhật báo đầu tiên Leipziger Zeitung (Nhật báo Leipzig). - Thụy Sĩ 1610: Ordinari Wochenzeitung. - Anh 1621: tuần báo Weekly News. 1702: tờ nhật báo đầu tiên của Anh là tờ Daily Courant. 1785: nhật báo Daily Universal Register, đến năm 1788 đổi tên thành nhật báo Times, vẫn cịn tồn tại cho đến ngày nay, là một trong những tờ báo sống lâu nhất thế giới. - Thụy Điển 1624: Hermes Gothicus. - Pháp 1631: La Gazette, tờ báo định kỳ đầu tiên do Renaudot sáng lập (ra hàng tuần, số ấn bản trung bình là 1.200 ở thế kỷ XVII, và lên tới 12.000 trong thế kỷ XVIII). 1777: tờ nhật báo đầu tiên của Pháp là tờ Le Journal de Paris (Nhật báo Paris). - Ý 1640: Gazzetta Pubblica. 31 - Tây Ban Nha 1641: Gaceta Semanal. Ở Việt Nam, tờ báo in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định báo, ra số một vào ngày 15-4-1865. Tờ Gia Định báo được phát hành vào ngày 15 mỗi tháng, cĩ bốn trang, khổ 32x25cm. Lúc đầu, nhà cầm quyền Pháp giao cho Ernest Potteaux quản lý, đến năm 1869 giao cho Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Nội dung tờ báo chủ yếu đăng cơng văn, chỉ thị của nhà cầm quyền, nhưng cũng thêm cĩ một phần đăng tin tức trong nước [theo Huỳnh Văn Tịng, sách đã dẫn, tr. 52] CÁC KỸ THUẬT TRUYỀN THƠNG VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Sau báo chí, lần lượt ra đời điện ảnh, đài phát thanh và đài truyền hình trong nửa đầu thế kỷ XX, dựa trên nhiều phát minh kỹ thuật khác nhau. Nhà xã hội học truyền thơng Francis Balle nhận định rằng, trong lịch sử các phương tiện truyền thơng đại chúng, nĩi chung tốc độ ứng dụng diễn ra ngày càng nhanh kể từ khi phát minh ra một kỹ thuật cho tới khi một phương tiện truyền thơng mới ra đời và được thương mại hĩa, tức là được đưa ra thị trường một cách rộng rãi (xem bảng 1). Nếu máy in được Gutenberg sáng chế vào năm 1440, thì phải đợi đến năm 1863, tức bốn thế kỷ sau, báo chí mới thực sự trở thành một phương tiện phổ biến trong xã hội. (Francis Balle coi năm 1863, năm ra đời tờ nhật báo Le Petit Journal ở Pháp, cĩ số ấn bản lên tới 400.000 tờ/ngày và bán với giá rất rẻ, mới là cái mốc thực sự của báo chí với tư cách là một phương tiện truyền thơng đại chúng.) Cịn kỹ thuật điện ảnh chỉ cần khoảng 70 năm, kể từ khi Joseph Plateau (người Bỉ) khám phá ra ảo giác về cử động vào năm 1829 (nếu 32 chúng ta xem 10 bức ảnh trở lên liên tiếp trong một giây, thì con mắt của chúng ta cĩ ảo giác là đang nhìn thấy sự cử động), và nhờ đĩ người ta sáng chế ra những chiếc máy quay ảnh thơ sơ đầu tiên vào khoảng năm 1830, cho tới khi anh em Lumière (người Pháp) chế tạo ra được chiếc máy quay phim đầu tiên năm 1895 ở Paris, và bắt đầu được thương mại hĩa kể từ khoảng năm 1900. Nhưng kỹ thuật truyền sĩng phát thanh thì cịn nhanh hơn, từ lần thử nghiệm đầu tiên truyền sĩng rađiơ phát qua biển Manche từ Pháp sang Anh vào năm 1899 cho tới khi bắt đầu được thương mại hĩa kể từ năm 1921 ở Pháp, chỉ cịn mất hơn 20 năm. Cịn kỹ thuật truyền hình thì chỉ mất hơn 10 năm, từ những lần phát sĩng truyền hình thử nghiệm đầu tiên ở Anh, Mỹ và Đức vào khoảng năm 1928-1929 cho tới lúc bắt đầu được thương mại hĩa và được phát sĩng đều đặn từ năm 1936 ở Anh và năm 1941 ở Mỹ. Bảng 1. Các phương tiện truyền thơng đại chúng : từ khi phát minh ra kỹ thuật cho tới khi bắt đầu được thương mại hĩa Phát minh kỹ thuật Thương mại hĩa Khoảng cách thời gian Báo chí 1440 1863 hơn 4 thế kỷ Điện ảnh 1830 1900 70 năm Phát thanh 1899 1921 hơn 20 năm Truyền hình 1929 1941 hơn 10 năm Nguồn: Francis Balle, Institution et public des moyens d'information, Paris, 1973, tr. 76. Ngày nay, báo chí, phát thanh và truyền hình đã trở thành một phần sinh hoạt thơng dụng trong đời sống hàng ngày của phần đơng 33 dân chúng trên khắp hành tinh. Bảng 2 cho thấy tình hình tổng quan về tình hình trang bị ba phương tiện truyền thơng đại chúng chính ở một số nước châu Á và phương Tây. Bảng 2. Số rađiơ, ti-vi, và số ấn bản nhật báo tính bình quân trên 1.000 dân tại một số quốc gia, năm 1996-1997 Số máy rađiơ/ 1.000 dân Số máy ti-vi/ 1.000 dân Số ấn bản nhật báo/ 1.000 dân Đơng Nam Á: Brunei 302 250 69 Indonesia 155 68 23 Kampuchia 128 9 2 Lào 145 10 4 Malaysia 434 172 158 Myanmar 96 6 9 Philippines 161 52 82 Singapore 744 388 298 Thái Lan 234 254 64 Việt Nam 107 47 4 Một số nước ở châu Á và châu Úc : Nhật 956 686 578 Hàn Quốc 1.039 348 393 Trung Quốc 335 321 42 Ấn Độ 120 65 48 Úc 1.391 554 293 Một số nước cơng nghiệp ở Bắc Mỹ và châu Âu : Mỹ 2.116 806 212 34 Canada 1.067 710 159 Anh 1.443 521 329 Pháp 946 595 201 Đức 948 567 305 Hà Lan 980 519 306 Ý 880 528 104 Liên bang Nga 417 410 105 Nguồn: United Nations, 2001 Statistical Yearbook, 45th issue, New York; và số liệu về ấn bản nhật báo: World Bank, 2002 World Development Indicators, New York. Ghi chú: - Rađiơ và ti-vi: số liệu năm 1997. - Ấn bản nhật báo: số liệu năm 1996; riêng Trung Quốc là số liệu năm 1990. ĐỊNH CHẾ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem thế nào là “định chế xã hội”. Định chế xã hội (hay cũng cịn gọi là “thiết chế xã hội” [social institution]), hiểu theo nghĩa xã hội học, khơng phải là một nhĩm người cụ thể, cũng khơng phải là một tổ chức hay một hiệp hội, mà là một thành tố (hay một tiểu hệ thống) của hệ thống xã hội. Mỗi định chế bao gồm những vai trị, những giá trị và chuẩn mực mà mọi thành viên đều thừa nhận. Nhà trường, chẳng hạn, là một định chế xã hội, trong đĩ cĩ vai trị nhà giáo, vai trị học sinh, vai trị hiệu trưởng... và mỗi vai trị đều cĩ một khuơn mẫu ứng xử nhất định. Khi nĩi tới một trường trung học X nào đĩ, chúng ta coi “nhà trường” đĩ như một tổ 35 chức xã hội cụ thể ; nhưng khi nĩi tới “định chế nhà trường”, thì chúng ta đề cập tới một tổng thể mẫu hình nhà trường (xét một cách trừu tượng) trong một xã hội nhất định nào đĩ. Định chế là một sản phẩm của đời sống xã hội. Mỗi định chế đáp ứng những nhu cầu nhất định của xã hội. Nĩ được định hình theo thời gian, khi mà một số ứng xử nào đĩ của con người được lập đi lập lại, rồi dần dần biến thành nề nếp, tập quán, và cuối cùng trở thành những chuẩn mực mà mọi người đều thừa nhận và tuân thủ. Như vậy, định chế xã hội là một hệ thống các quan hệ xã hội đã được xác lập ổn định trong đời sống xã hội. Người ta thường phân biệt mấy loại định chế xã hội chính như sau: các định chế kinh tế (liên quan tới các quá trình sản xuất và phân phối các của cải và dịch vụ), các định chế chính trị (liên quan tới việc phân bố và sử dụng quyền lực trong xã hội), các định chế thân tộc (như hơn nhân, gia đình), và các định chế văn hĩa (như giáo dục, tơn giáo, phong tục, văn chương, nghệ thuật...). Với sự ra đời và phát triển của báo chí, phát thanh và truyền hình kể từ một hai thế kỷ trở lại đây, người ta thấy xuất hiện một định chế xã hội mới, chưa hề cĩ trong các xã hội cổ truyền, đĩ là định chế truyền thơng đại chúng. Xét về tính chất, định chế này nằm trong hệ thống các định chế văn hĩa. Judith Lazar liệt kê ra một số đặc trưng tổng quát của định chế truyền thơng đại chúng như sau [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 45] Các phương tiện truyền thơng đại chúng, xét về bản chất, chỉ hoạt động trong lĩnh vực cơng cộng: xét về nguyên tắc, đây là định chế mở rộng cửa cho tất cả mọi người, và nĩ chỉ quan tâm đề cập tới những vấn đề hoặc những sự kiện cĩ liên quan ít nhiều tới mọi thành viên 36 trong xã hội. Hiểu theo nghĩa này, một tờ báo khoa học chuyên sâu về vật lý chẳng hạn cĩ thể chỉ cĩ tổng cộng chừng vài trăm độc giả trên tồn thế giới, nhưng nĩ vẫn được coi là một tổ chức nằm trong định chế truyền thơng đại chúng, vì bất cứ ai cũng cĩ thể đăng ký mua nĩ được. Cịn tờ nội san của một cơng ty đa quốc gia chẳng hạn cĩ thể cĩ số lượng ấn bản lên tới vài chục ngàn, nhưng vì nĩ khơng được phát hành ra cơng chúng một cách rộng rãi nên khơng thể coi nĩ như một tổ chức nằm trong định chế truyền thơng đại chúng, mà chỉ là một phương tiện mang tính chất truyền thơng tập thể. Định chế truyền thơng đại chúng hồn tồn khơng mang tính chất cưỡng bách đối với cá nhân, cá nhân cĩ quyền tham gia hay khơng tham gia vào đây. Người dân cĩ quyền mua hay khơng mua một tờ báo, xem hay khơng xem một bài báo hay một chương trình truyền hình. Đồng thời, một đặc điểm nữa của truyền thơng đại chúng mà người ta cĩ thể nĩi tới ở đây, đĩ là nĩ thường gắn liền với thời gian rảnh rỗi và nhu cầu giải trí của người dân. Truyền thơng đại chúng là một ngành cơng nghiệp thực sự trong xã hội: nĩ đã trở thành một nghề sử dụng nhiều lao động chuyên nghiệp cĩ những trình độ chuyên mơn nhất định, cĩ bộ máy tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo hướng chuyên mơn hĩa, cần nhiều vốn liếng đầu tư về tiền của cũng như về kỹ thuật, và sản xuất ra cho xã hội nhiều loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Cuối cùng, vì đã được định chế hĩa về mặt xã hội, nên hoạt động của các phương tiện truyền thơng đại chúng luơn luơn chịu sự chi phối và ràng buộc bởi một số chuẩn mực và qui tắc nhất định ít nhiều chặt chẽ hay lỏng lẻo tùy theo từng quốc gia, bao gồm những qui tắc thuộc về hệ thống pháp luật nhà nước lẫn những qui tắc thuộc về nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. Những đặc trưng tổng quát nĩi trên của truyền thơng đại chúng tất 37 nhiên sẽ cĩ những điểm dị biệt tùy theo từng quốc gia, phụ thuộc vào những mơi trường kinh tế, chính trị, văn hĩa và xã hội ở từng nước. Nếu trong các xã hội cổ truyền, các định chế như gia đình hay nhà trường là những định chế cĩ chức năng xã hội hĩa (nghĩa là giúp cho các cá nhân hội nhập được vào xã hội) trong một giai đoạn nhất định trong cuộc đời của mỗi cá nhân, thì trong xã hội hiện đại, định chế truyền thơng đại chúng làm chức năng xã hội hĩa trong suốt cả cuộc đời của các cá nhân. Thơng thường, người ta coi định chế truyền thơng đại chúng cĩ chức năng đáp ứng hai nhu cầu chính của người dân là nhu cầu thơng tin và nhu cầu giải trí. Nhưng xét về mặt xã hội học, điều cịn cĩ ý nghĩa sâu xa và quan trọng hơn là định chế này tạo ra một khơng gian cơng cộng trong xã hội dân sự, trong đĩ mỗi cơng dân, về nguyên tắc, được xác lập quyền thơng tin và quyền được thơng tin về bất cứ chuyện gì xảy ra trong xã hội cĩ liên quan đến quyền lợi và vận mệnh của mình. Như vậy, theo ý nghĩa này, định chế truyền thơng đại chúng là một định chế độc đáo của một xã hội dân chủ đặt cơ sở trên một nhà nước pháp quyền, vốn là những đặc trưng chỉ cĩ trong các xã hội hiện đại. Chúng ta khơng thể hình dung ra được một chế độ dân chủ nếu thiếu các phương tiện truyền thơng đại chúng. Nĩi cách khác, cĩ thể xem đây là một định chế tuy tự bản thân nĩ chỉ mang tính chất truyền thơng và văn hĩa, nhưng lại cĩ những hệ lụy và những mối quan hệ tương tác hết sức quan trọng đối với các định chế chính trị lẫn các định chế kinh tế và xã hội khác. XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Cho đến nay, đã cĩ rất nhiều cơng trình nghiên cứu phong phú về 38 truyền thơng đại chúng, từ những cơng trình nghiên cứu về báo chí từ gĩc độ sử học, những cơng trình điều tra nghiên cứu về các giới cơng chúng độc giả và khán thính giả dưới gĩc độ tâm lý học xã hội, cho tới những cơng trình phân tích nội dung về các thơng điệp của truyền thơng đại chúng theo cách tiếp cận của ngơn ngữ học, của ngơn ngữ học xã hội Sơ đồ 4. Những lĩnh vực nghiên cứu của bộ mơn xã hội học truyền thơng đại chúng Nguồn: Chúng tơi lấy lại sơ đồ của Judith Lazar (Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, tr. 76), nhưng cĩ bổ sung thêm phần nghiên cứu về “các nhà truyền thơng”. Riêng trong lĩnh vực xã hội học, truyền thơng đại chúng được nghiên cứu như một quá trình xã hội, và các phương tiện truyền thơng đại chúng được khảo sát và phân tích dưới gĩc độ định chế xã hội. Nghiên cứu về đặc điểm và hoạt động của các nhà truyền thơng Phân tích nội dung truyền thơng (thực nghiệm, và tín hiệu học) Nghiên cứu về ảnh hưởng xã hội của truyền thơng đại chúng Cơng chúng Các nhà truyền thơng Nội dung truyền thơng Ảnh hưởng xã hội Nghiên cứu xã hội học về truyền thơng đại chúng Nghiên cứu về cơng chúng của các phương tiện truyền thơng đại chúng 39 Hay nĩi ngắn gọn như Alphons Silbermann, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành xã hội học trong lĩnh vực này là tìm cách làm sáng tỏ mối liên hệ giữa truyền thơng đại chúng và xã hội. Silbermann cho rằng xã hội học về truyền thơng đại chúng là bộ mơn chuyên phân tích về hiện tượng truyền thơng đại chúng và ý nghĩa của truyền thơng đại chúng đối với cuộc sống của xã hội [Alphons Silbermann, sách đã dẫn, tr. 9]. Trong bộ mơn xã hội học về truyền thơng đại chúng, người ta thường phân biệt mấy lĩnh vực nghiên cứu chính như sau: nghiên cứu về cơng chúng của các phương tiện truyền thơng đại chúng (khảo sát về các đặc điểm và ứng xử của các giới độc giả và khán thính giả của báo chí, phát thanh, truyền hình); nghiên cứu về các tổ chức truyền thơng và hoạt động của các nhà truyền thơng; phân tích nội dung các thơng điệp truyền thơng (bao gồm hai phương pháp chính là phương pháp phân tích thực nghiệm, và phương pháp phân tích tín hiệu học); nghiên cứu về ảnh hưởng hay tác động xã hội của các phương tiện truyền thơng đại chúng (xem sơ đồ 4). Trong số các lĩnh vực nghiên cứu đĩ, thì những cơng trình nghiên cứu về ảnh hưởng xã hội của truyền thơng đại chúng thường được chú ý và gây ra nhiều tranh luận hơn hết. Trong lĩnh vực này, người ta thường đặt những câu hỏi như: các phương tiện truyền thơng ảnh hưởng thế nào đối với hành vi và ứng xử của các thành viên xã hội ? Vai trị của các phương tiện truyền thơng đại chúng trong việc rèn luyện và giáo dục các lứa tuổi thanh thiếu niên; quan hệ giữa truyền thơng đại chúng và quá trình xã hội hĩa, vai trị của truyền thơng đại chúng trong quá trình hình thành ý thức xã hội ? Các phương tiện truyền thơng đại chúng cĩ phải là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng trong xã hội hay khơng?... 40 Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 2: - Lịch sử ra đời các phát minh kỹ thuật và quá trình hình thành các phương tiện truyền thơng đại chúng. - Các khái niệm “định chế xã hội”, và “định chế truyền thơng đại chúng”. - Những đặc trưng của định chế truyền thơng đại chúng. - Đối tượng của bộ mơn xã hội học về truyền thơng đại chúng. Câu hỏi ơn tập: 1. Hãy cho biết một cách khái quát lịch sử ra đời của báo in trên thế giới. 2. Những phát minh kỹ thuật cĩ ảnh hưởng thế nào đối với sự hình thành của các phương tiện truyền thơng đại chúng? 3. Thế nào là “định chế truyền thơng đại chúng”? 4. Hãy trình bày vắn tắt những đặc trưng tổng quát của định chế truyền thơng đại chúng trong xã hội hiện đại. 5. Đâu là những lĩnh vực nghiên cứu chính của bộ mơn xã hội học về truyền thơng đại chúng? Câu hỏi thảo luận nhĩm: (hoặc tự mình trả lời bằng cách tìm đọc thêm tài liệu) 1. Các phương tiện truyền thơng đại chúng đĩng vai trị thế nào đối với một quốc gia đang phát triển? 2. Hãy thử nêu một số chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Việt Nam (tham khảo thêm bài của Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gịn thời Pháp thuộc”, tạp 41 chí Xã hội học, số 3&4, 1999, tr. 32-38.) 42 Bài 3 CÁC LÝ THUYẾT VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Giới thiệu khái quát: Nội dung chương này trình bày một số trường phái lý thuyết lớn trong lĩnh vực nghiên cứu về truyền thơng đại chúng, đặc biệt là trường phái chức năng luận, trường phái phê phán, trường phái quyết định luận kỹ thuật... Mục tiêu của chương này: Hiểu những cách đặt vấn đề khác nhau của các trường phái lý thuyết khi họ nghiên cứu vai trị của các phương tiện truyền thơng đại chúng, và ảnh hưởng của chúng đối với người dân trong xã hội hiện đại. Những cơng trình nghiên cứu về truyền thơng đại chúng được bắt đầu tiến hành từ đầu thế kỷ XX, nhất là kể từ năm 1933 trở đi, khi mà Hitler lên nắm chính quyền ở Đức – sự kiện mà nhiều người cho là nhờ vào những chiến dịch tuyên truyền trên các phương tiện truyền thơng. 43 Trong lịch sử nghiên cứu về truyền thơng đại chúng trên thế giới, người ta thường phân biệt ba giai đoạn khác nhau sau đây [xem David Barrat, Media Sociology, London, Tavistock Publications, 1986, tr. 16-18.]. Giai đoạn thứ nhất, bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ XX cho tới cuối thập niên 1930, là giai đoạn mà giới học thuật quan niệm rằng các phương tiện truyền thơng cĩ một sức tác động to lớn lên trên lối ứng xử và suy nghĩ của người dân. Nhĩm tác giả tiêu biểu trong thời kỳ này là nhĩm “trường phái Frankfurt” ở Đức vốn bao gồm những nhà trí thức chống đối lại Hitler và do đĩ về sau bị chính quyền quốc xã tống khứ ra nước ngồi. Các học giả này cho rằng các phương tiện truyền thơng đại chúng ở Đức đã đĩng một vai trị then chốt để những người theo chủ nghĩa quốc xã lên nắm được chính quyền. Lúc đã định cư ở Mỹ, trường phái này tiếp tục cảnh cáo rằng các phương tiện truyền thơng đại chúng cũng đang ở trong quá trình gây ra những tác động tương tự trong xã hội Mỹ, tuy khơng phải là theo chủ nghĩa quốc xã như ở Đức, mà là làm tha hĩa người dân. Họ cho rằng các phương tiện truyền thơng ở Mỹ đang biến các cá nhân thành “những khối đại chúng” (masses), tàn phá văn hĩa, và trở thành một thứ ma túy làm cho mọi người chỉ biết làm theo người khác và khơng cịn tư duy độc lập và ĩc phê phán. Người ta thường gọi quan điểm của các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này là quan điểm theo mơ hình “mũi kim tiêm” (hypodermic-needle model). Các nhà xã hội học theo khuynh hướng này cho rằng quá trình cơng nghiệp hĩa đã tiêu diệt những mối liên hệ giữa người và người vốn tồn tại trong những cộng đồng truyền thống, tiền cơng nghiệp. Điều này dẫn tới hậu quả là hình thành nên một thứ “xã hội đại chúng” trong đĩ các cá nhân sống rời rạc nhau, khơng cịn một chỗ dựa đáng tin cậy của cộng đồng cũ nữa, và trong bối cảnh 44 mất phương hướng đĩ, chỗ dựa mới duy nhất của họ là các phương tiện truyền thơng đại chúng. Họ cho rằng xã hội đại chúng đã sản sinh ra những cá nhân khơng cịn khả năng đề kháng trước sức thuyết phục của truyền thơng đại chúng. Những thơng điệp của các phương tiện truyền thơng được “chích” vào cơ thể con người cũng dễ dàng như chích thuốc bằng một mũi kim tiêm vậy. Giai đoạn phát triển thứ hai trong quá trình nghiên cứu về truyền thơng đại chúng là từ khoảng năm 1940 tới đầu những năm 1960. Đặc điểm của giai đoạn này là bắt đầu xuất hiện quan điểm đánh giá bớt bi quan hơn về vai trị của các phương tiện truyền thơng đại chúng. Một số cơng trình điều tra ở Mỹ về ảnh hưởng của các phương tiện truyền thơng đối với việc bầu cử và đối với sự chọn lựa của người tiêu dùng đã chứng minh cho thấy truyền thơng đại chúng ít cĩ hoặc thậm chí khơng cĩ tác động trực tiếp đối với thái độ và ứng xử của người dân. Trái ngược với lập luận của các nhà nghiên cứu trong giai đoạn đầu nĩi trên (vốn cho rằng truyền thơng đại chúng cĩ tác động trực tiếp giống như một mũi kim chích), lúc này, người ta chỉ nĩi tới những tác động gián tiếp, thơng qua nhiều bước trung gian. Khi phân tích ảnh hưởng của truyền thơng đại chúng, các nhà xã hội học thời kỳ này chú ý nhấn mạnh đến vai trị của các nhĩm xã hội (như bạn bè, gia đình, hàng xĩm, những người “hướng dẫn dư luận” – opinion leaders) : các thơng điệp của các phương tiện truyền thơng đại chúng thường được “lọc” qua những kênh đĩ rồi mới đi tới cá nhân. Người ta nhìn nhận rằng cơng chúng của các phương tiện truyền thơng khơng phải là một khối “đại chúng” đồng dạng, khơng cĩ hình thù ; trái lại, đấy là một tập hợp bao gồm nhiều giới và tầng lớp xã hội khác nhau. Giai đoạn thứ ba trong lịch sử nghiên cứu về truyền thơng đại chúng bắt đầu từ khoảng thập niên 1960 trở đi, với đặc điểm là xuất hiện nhiều xu hướng quan điểm nghiên cứu khác nhau, và rất nhiều đề 45 tài đa dạng. Chẳng hạn như ngồi việc nghiên cứu về cơng chúng và về tác động của truyền thơng đại chúng, người ta cịn nghiên cứu về nội dung các thơng điệp của truyền thơng đại chúng, về quá trình truyền thơng đại chúng, quá trình sản xuất của các phương tiện truyền thơng, nghiên cứu về đặc điểm của các nhà truyền thơng và hoạt động của họ... Chúng ta sẽ khảo sát trước hết hai hướng tiếp cận lớn, là hướng tiếp cận theo quan điểm chức năng luận, và hướng tiếp cận phê phán, sau đĩ tìm hiểu qua một vài hướng tiếp cận khác. HƯỚNG TIẾP CẬN THEO QUAN ĐIỂM CHỨC NĂNG LUẬN Theo lý thuyết chức năng luận (functionalism), xã hội được quan niệm như một tổng thể trong đĩ bao gồm nhiều thành tố cĩ liên hệ với nhau, mỗi thành tố đều cĩ chức năng riêng của mình. Trong số các thành tố đĩ, cĩ các phương tiện truyền thơng đại chúng. Quan điểm chức năng luận thường nhấn mạnh đặc biệt tới các “nhu cầu” của một xã hội. Truyền thơng đại chúng được coi như một định chế xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu duy trì tính ổn định, tính liên tục của một xã hội, cũng như nhu cầu hội nhập và thích nghi của các cá nhân trong xã hội ấy. Theo Robert Merton, để hiểu được ảnh hưởng xã hội của các phương tiện truyền thơng đại chúng, chúng ta khơng thể chỉ căn cứ trên những lời tuyên bố hay những ý định cơng khai của các tổ chức này. Merton luơn luơn nhấn mạnh rằng, đối với mỗi hoạt động xã hội, chúng ta cần phân biệt rõ giữa mục tiêu cơng khai nhắm đến, với hiệu quả thực sự xảy ra (tức là chức năng) – bởi lẽ hai cái này cĩ thể khơng trùng nhau. Nĩi cách khác, các chức năng xã hội của các 46 phương tiện truyền thơng đại chúng khơng nhất thiết tương ứng với những mục tiêu cơng khai mà nhà truyền thơng muốn nhắm tới. Một thí dụ: ngành y tế nhờ các phương tiện truyền thơng mở một đợt vận động dân chúng đến khám sức khỏe tại các trạm y tế địa phương. Đĩ là mục đích cơng khai của chiến dịch tuyên truyền. Thế nhưng, trong quá trình tiến hành, chiến dịch này cĩ thể dẫn đến những hậu quả bất ngờ, nằm ngồi ý định của các nhà y tế lẫn các nhà truyền thơng. Quả vậy, cuộc điều tra về kết quả của chiến dịch vận động đã khám phá ra rằng hình ảnh nhân viên y tế địa phương trong con mắt của người dân đã được cải thiện rất nhiều so với trước: cơng việc vốn thầm lặng của nhân viên y tế nay bỗng nhiên được mọi người quan tâm chú ý và kính trọng hơn (nhờ tác động của các phương tiện truyền thơng). Chính nhờ đĩ mà người dân tin cậy hơn vào các tổ chức y tế, và đồng thời, bản thân lĩnh vực quản lý ngành y tế cũng được củng cố và hồn thiện thêm. Đây là một hiệu quả xã hội quan trọng, nhưng bất ngờ, của chiến dịch vận động tuyên truyền y tế này. Merton gọi những hiệu quả mà người ta muốn đạt được là những chức năng “cơng khai” (manifest), cịn những hiệu quả xảy ra mà người ta khơng ngờ đến, là những chức năng “tiềm ẩn” (latent). Trong lý thuyết của mình, Merton cịn phân biệt giữa “chức năng” (function) và “phản chức năng” (dysfunction). Chức năng là cái làm cho một hệ thống duy trì được sự tồn tại của mình và tiếp tục vận động trơi chảy. Cịn phản chức năng là cái gì gây cản trở cho quá trình đĩ. Một hoạt động cĩ thể vừa cĩ những chức năng lẫn những phản chức năng. Chẳng hạn, chiến dịch vận động đi khám sức khỏe nĩi trên đây cũng cĩ thể cĩ tác dụng làm cho một số người đâm ra khiếp sợ hơn đối với ngành y tế (chẳng hạn khi thấy cảnh phịng mổ, xe cấp cứu...), và họ sẽ khơng dám đến phịng khám. Lasswell, một trong những tác giả tiên phong nghiên cứu về 47 truyền thơng đại chúng, đã nêu lên ba chức năng chính của truyền thơng đại chúng, đĩ là: kiểm sốt mơi trường xã hội; liên kết các bộ phận của xã hội với nhau; truyền tải di sản xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác. Charles Wright cịn bổ sung thêm một chức năng thứ tư : giải trí. Xét về tầm quan trọng của truyền thơng đại chúng đối với cá nhân, người ta cĩ thể liệt kê ra những chức năng như sau. Chức năng đầu tiên dễ thấy nhất là cĩ thể nhanh chĩng báo động cho mọi người dân về một mối hiểm nguy sắp xảy ra, thí dụ một trận bão lớn sắp đổ bộ vào đất liền, hay một cuộc chiến tranh chẳng hạn. Vì mọi người đều cĩ thể tiếp nhận được thơng tin qua các phương tiện truyền thơng, nên người ta cĩ thể tìm cách tránh được các tai họa đã loan báo. Chức năng thứ hai là đáp ứng những nhu cầu thực tế hàng ngày của người dân trong xã hội. Năm 1954, nhân dịp xảy ra một cuộc đình cơng của giới báo chí ở New York, Berelson đã tranh thủ cơ hội này để điều tra xem người dân thiếu những gì khi họ khơng nhận được tờ nhật báo như mọi bữa: đĩ trước hết là những thơng tin liên quan đến cuộc sống thực tế của họ như các chương trình truyền hình, rađiơ, lịch chiếu phim, những cửa tiệm bán hàng giảm giá, tin thời tiết, v.v... Rõ ràng tờ báo là một cơng cụ cĩ rất nhiều chức năng đa dạng trong cuộc sống hàng ngày. Chức năng quan trọng thứ ba của truyền thơng đại chúng là nâng cao một hình ảnh xã hội nào đĩ, hay hợp thức hĩa một vị trí xã hội nào đĩ. Chúng ta thường thấy là khi một ai đĩ được nêu tên trên báo (dĩ nhiên là theo hướng được biểu dương về một hành động tích cực nào đĩ, chứ khơng phải vì một chuyện tiêu cực), thì người này cảm thấy uy tín hay uy thế của mình được nâng cao, vì đơn giản là được nhiều người chú ý và biết đến mình. Đối với các tổ chức hay cơng ty cũng thế, do đĩ khi muốn quảng cáo cho đơn vị của mình, người ta 48 thường sử dụng đến các phương tiện thơng tin đại chúng như báo chí hoặc ti-vi. Những người đang ra tranh cử vào một chức vụ nào đĩ cùng thường thích được xuất hiện trên báo chí bằng cách này hay cách khác (được chụp hình, được phỏng vấn...) để gián tiếp vận động cử tri dồn phiếu cho mình. Chức năng quan trọng thứ tư là củng cố sự kiểm sốt của xã hội. Một vụ “bể hụi” chẳng hạn, chỉ là chuyện cĩ liên quan tới mười mấy hai chục người, và chỉ cĩ ít người biết; nhưng nếu sự kiện lừa đảo này được đăng lên báo, thì nĩ trở thành một sự kiện cơng khai, được nhiều người biết đến, bàn tán, và lên án. Từ đĩ hình thành một áp lực của dư luận xã hội lên trên những hành vi tương tự, và đồng thời áp lực này trở thành một thứ rào cản hữu hiệu đối với các cá nhân. Chính là nhờ quá trình này mà truyền thơng đại chúng củng cố vai trị kiểm sốt của xã hội lên trên cá nhân, gĩp phần hạn chế những hành vi tiêu cực (hay “lệch chiều” - deviant) trong xã hội. Xét về mặt xã hội học, thì truyền thơng đại chúng là một trong những định chế gĩp phần vào quá trình xã hội hĩa các cá nhân. Chính là thơng qua các kênh thơng tin này mà các giá trị xã hội, các qui tắc, luật lệ thành văn cũng như bất thành văn của xã hội được phổ biến và nhắc đi nhắc lại cho mọi người cùng biết, thuyết phục mọi người cùng đồng tình, và vận động mọi người cùng nhau tuân thủ. Truyền thơng đại chúng là một phương tiện cĩ khả năng làm cho xã hội trở nên đồn kết, gắn bĩ với nhau, hội nhập cá nhân vào xã hội. Tuy nhiên, truyền thơng đại chúng cũng cĩ thể cĩ những phản chức năng đối với xã hội. Cách thơng tin của đài truyền hình CNN của Mỹ trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 hay của nhiều phương tiện truyền thơng của Mỹ trong cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Irak gần đây là những trường hợp điển hình về việc các giới chính trị và quân sự sử dụng và lèo lái các phương tiện truyền thơng 49 phục vụ cho mục đích của mình, và điều này đã bị nhiều tác giả nghiên cứu về truyền thơng đại chúng phê phán gay gắt. Những thơng tin loan truyền trên phương tiện truyền thơng cĩ thể làm gia tăng nỗi âu lo của các cá nhân, nhất là khi đăng tải những tin chém giết, nổi loạn, ly tán. cướp của... Nếu phát đi một cách dồn dập những loại tin u ám này mà khơng cĩ bình luận, khơng cĩ giải thích, thì rất dễ gây ra tâm lý hoang mang nơi người dân. Qua các cuộc điều tra, người ta nhận thấy: tình trạng đưa quá nhiều thơng tin cũng cĩ thể gây nên hậu quả là làm cho cá nhân rút lui về thế giới riêng tư của mình. Bị tràn ngập bởi các thơng tin mà họ khơng tự mình lý giải được, cá nhân cảm thấy bị mất phương hướng, nên nơi rút lui an tồn nhất đối với những người này là gia đình, hay các thú vui giải trí... Điều này cĩ thể dẫn đến chỗ làm cho họ trở nên “vơ cảm” (apathy) trước những vấn đề chính trị và xã hội. Qua nhiều cuộc điều tra ở các nước phương Tây, người ta khám phá ra điều thoạt đầu tưởng chừng như nghịch lý, đĩ là những người coi tin tức nhiều giờ đồng hồ mỗi ngày khơng phải là những người tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội và chính trị. Cĩ lẽ do bỏ ra quá nhiều thời gian để coi ti-vi, nên những người này khơng cịn thời gian và sức lực để dấn thân vào các hoạt động xã hội. Người ta cĩ thể nghiên cứu những chức năng và những phản chức năng của những thơng tin do các phương tiện truyền thơng phát đi đối với những tầng lớp xã hội cụ thể, thí dụ thiếu nhi, phụ nữ, cơng nhân, người già, một nhĩm người dân tộc thiểu số... để khảo sát vai trị của truyền thơng đại chúng trong xã hội. Truyền thơng đại chúng trong một quốc gia cĩ thể cĩ những tác động lên trên thái độ và ứng xử của người dân, cĩ thể gĩp phần bảo tồn và phát triển nền văn hĩa dân tộc, hoặc ngược lại. Truyền thơng đại chúng từ nước ngồi truyền vào trong nước cĩ thể làm phong phú 50 thêm cho bản sắc văn hĩa địa phương, nhưng đồng thời cũng cĩ thể là hiểm họa của một cuộc “xâm lược” về văn hĩa, dần dà làm mất đi những truyền thống và bản sắc văn hĩa của địa phương. Chính là nhằm hạn chế những tính chất “phản chức năng” của thơng tin đại chúng, người ta luơn luơn nhấn mạnh đến trách nhiệm (xét về mặt xã hội học thì đây là chức năng) hướng dẫn dư luận của các phương tiện truyền thơng. Chức năng này được thực hiện thơng qua việc chọn lọc những tin tức để đăng tải, cùng với việc cung cấp những lời giải thích và bình luận cần thiết kèm theo các sự kiện. Lẽ tất nhiên, chức năng này được thực hiện thế nào là cịn tùy thuộc vào quan điểm chính trị-xã hội và quan điểm thơng tin của ban biên tập mỗi tờ báo. Nhưng nĩi chung, đĩ chính là cơng việc hàng ngày mà các ban biên tập và tịa soạn của các tờ báo đều phải làm. Chúng ta thấy trên các tờ báo, người ta thường xếp loại tin tức, bài vở theo từng trang mục riêng biệt, chẳng hạn trang Tin tức trong nước, trang Kinh tế, trang Thể thao, trang Văn hĩa, trang Thời sự quốc tế v.v... để độc giả dễ theo dõi tùy theo nhu cầu quan tâm của mỗi người. Riêng ở trang nhất của một tờ nhật báo, người ta thường cịn chọn lọc một tin tức quan trọng đáng chú ý nhất trong ngày làm “tin vơ-đét", cho in ở đầu trang, cĩ nhiều cột, tít lớn, nhằm thu hút trọng tâm chú ý của người đọc. Ngồi ra, trong việc xử lý các tin tức, bài vở (tức là viết và biên tập), người ta cịn thường bổ sung thêm vài dịng để nhắc lại bối cảnh của câu chuyện để bạn đọc tiện theo dõi và dễ nắm bắt được vấn đề hơn. Người ta thường ví cơng việc sắp xếp và biên tập âm thầm ấy của tịa soạn (âm thầm vì người làm cơng việc tịa soạn khơng xuất hiện tên tuổi trên mặt báo) như là cơng việc “bếp núc”. Tất cả những kỹ thuật “xào nấu” ấy của tịa soạn đều chỉ nhằm một mục tiêu là giúp bạn đọc cĩ được một định hướng theo dịng thời sự hàng ngày, hiểu được tình hình thời sự của thế giới xung quanh, tránh cho người đọc 51 một cảm giác tràn ngập và mất phương hướng trước một mớ tin tức hỗn độn nếu khơng được xử lý. Qua một cuộc điều tra nhân cuộc đình cơng của giới báo chí ở New York năm 1948, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận được rằng cái mà người dân cảm thấy thiếu thốn khơng phải chỉ là thiếu thơng tin (vì những ngày hơm đĩ khơng cĩ báo đọc), mà cịn là và nhất là thiếu những lời bình luận đi kèm theo các thơng tin đĩ [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 36]. Báo chí là cơng cụ khơng những chỉ giúp cho người đọc theo dõi được tin tức, thời sự, mà cịn giúp họ hiểu được thời sự. Nĩi rộng ra hơn, đĩ là giúp cho họ định hướng được cuộc sống của chính họ trong dịng thời sự xã hội đĩ. Tuy nhiên, ngay điểm này cũng cĩ mặt trái của nĩ: nếu tờ báo đưa ra quá nhiều bình luận và khơng dành một khoảng trống nào đĩ cho việc tự mình suy nghĩ và chọn lựa thái độ của chính người đọc, và nếu người đọc cũng hồn tồn chỉ biết trơng chờ vào ý kiến bình luận cĩ sẵn trên tờ báo, nấu sẵn theo kiểu “mì ăn liền", thì người đọc sẽ khơng cịn khả năng phân tích, bình luận, hay phê phán của chính mình nữa. Hướng tiếp cận về các phương tiện truyền thơng đại chúng theo lý thuyết chức năng thường bị chỉ trích là nặng về quan điểm bảo thủ. Nĩ thường chỉ xem xét truyền thơng đại chúng như là một phương tiện nhằm duy trì sự ổn định của xã hội, chứ khơng như là một nhân tố cĩ thể làm thay đổi xã hội. Tuy nhiên, như Max Weber nĩi, nếu chúng ta sử dụng hướng tiếp cận nghiên cứu này như một cơng cụ trung gian để khảo sát thực tế thì cũng vẫn cĩ thể bổ ích cho cơng cuộc nghiên cứu. 52 CÁC LÝ THUYẾT PHÊ PHÁN Trong lĩnh vực nghiên cứu về truyền thơng đại chúng, đối lập với quan điểm chức năng, là quan điểm của các nhà nghiên cứu theo các lý thuyết phê phán (critical theorists) (người ta cịn gọi đây là các lý thuyết về xung đột xã hội - theories of social conflict). Các lý thuyết phê phán đều cách này hay cách khác bắt nguồn từ những tư tưởng và lập luận của lý thuyết mác-xít để phân tích vấn đề. Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng phê phán này cho rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, truyền thơng đại chúng là cơng cụ nhằm phục vụ cho việc củng cố và tái sản xuất hệ tư tưởng thống trị. Họ thường chỉ trích các tác giả theo quan điểm chức năng là quá nhấn mạnh tới bản thân quá trình truyền thơng, mà xem nhẹ bối cảnh xã hội trong đĩ diễn ra quá trình truyền thơng. Theo họ, chính nhân tố kinh tế hoặc nhân tố hệ tư tưởng (tùy theo trường phái) mới là nhân tố quyết định tính chất của hệ thống các phương tiện truyền thơng. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là trường phái Frankfurt, vốn được thành lập năm 1923 bởi Max Horkheimer, trong đĩ gồm cĩ những nhà nghiên cứu tên tuổi như T. Adorno, L. Lowenthal, E. Fromm, H. Marcuse. Họ cho rằng sở dĩ quá trình chuyển biến cách mạng của xã hội tư bản chủ nghĩa khơng thành cơng được, đĩ là do kiến trúc thượng tầng của hệ thống tư bản chủ nghĩa, trong đĩ đặc biệt là các phương tiện truyền thơng đại chúng đã đĩng vai trị khuynh đảo và cản trở quá trình diễn biến cách mạng của xã hội. Theo họ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nền sản xuất hàng loạt (mass production), và đi kèm theo đĩ là nền “văn hĩa đại chúng” (mass culture), là những cơ sở tạo nên huyền thoại về một xã hội khơng cĩ giai cấp. Các tác giả theo trường phái phê phán này quan niệm rằng cần phải vạch trần cái sự thật bị che giấu bên dưới cái hệ thống thống trị 53 đĩ. Chính vì thế mà họ đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc phân tích cái bối cảnh xã hội vốn bao trùm lên cả quá trình truyền thơng, chứ khơng phải chỉ phân tích riêng lẻ quá trình truyền thơng mà thơi. Họ gọi tồn bộ các hoạt động truyền thơng đại chúng trong xã hội tư bản chủ nghĩa là một thứ “cơng nghiệp văn hĩa” (cultural industry). Và theo họ, sở dĩ ngành cơng nghiệp này cĩ thể phổ biến các sản phẩm của mình đến với mọi người, thì đĩ khơng phải là do bản thân tính chất “dân chủ” của chế độ, mà đơn giản chỉ là do sự mở rộng và phát triển của thị trường. Nếu mọi người đều cĩ thể hưởng thụ các sản phẩm của ngành cơng nghiệp văn hĩa này, thì chúng ta khơng thể coi đây là một điều kiện cĩ khả năng tạo nên sự bình đẳng về văn hĩa. Trái lại, theo các tác giả này, “văn hĩa đại chúng” chỉ là một thứ sản phẩm dị dạng xuyên tạc nền dân chủ đúng nghĩa. Herbert Marcuse đã gọi xã hội tư bản chủ nghĩa này là xã hội mang tính chất “một chiều” (one-dimensional) vì nĩ vốn được tạo nên bởi thứ cơng nghiệp văn hĩa đĩ, và ơng ta coi các kỹ thuật truyền thơng đại chúng chỉ là cơng cụ mê hoặc và điều khiển dân chúng, nhào nặn nên thái độ và suy nghĩ của người dân. Chính trong bối cảnh đĩ mà Marcuse nĩi đến tình trạng tha hĩa của người dân. Nếu người dân thích xem các sản phẩm truyền thơng đại chúng, thì chính là vì họ đã bị tha hĩa, bị nơ lệ vào dịng thác của thơng tin đại chúng. Marcuse cho rằng chủ nghĩa tư bản đã xoa dịu những nỗi bất bình của tầng lớp bị trị bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thơng để kích thích những thị hiếu vật chất và tầm thường vốn dễ dàng được thoả mãn. Vì thế, theo Marcuse, các phương tiện truyền thơng đại chúng chính là một trong những nhân tố quyết định trong việc thống trị dân chúng trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khuynh hướng phê phán trong lĩnh vực nghiên cứu về truyền thơng đại chúng hiện nay vẫn cịn được tiếp nối với nhiều trường phái 54 khác nhau. Chẳng hạn, lý thuyết kinh tế chính trị cĩ quan điểm là luơn nhấn mạnh tới nhân tố kinh tế khi phân tích về truyền thơng đại chúng. Lý thuyết này khẳng định rằng cơ sở kinh tế quyết định hệ tư tưởng, chứ khơng phải ngược lại. Các tác giả theo quan điểm này chú ý đặc biệt tới cơ cấu sở hữu của các phương tiện truyền thơng. Họ quan niệm rằng cần coi các phương tiện truyền thơng như là một bộ phận thuộc về hệ thống kinh tế, và qua đĩ cũng gắn liền với hệ thống chính trị. Do đĩ, họ coi truyền thơng đại chúng như là một phương tiện được sử dụng để hợp thức hĩa (legitimation) và duy trì sự phân tầng kinh tế-xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa. Các tác giả theo trường phái này cũng thường lưu ý tới hiện tượng tập trung nhiều phương tiện truyền thơng đại chúng vào trong tay của một vài tập đồn lớn. Quả thật là ngày nay, chúng ta thấy ngày càng cĩ nhiều vụ liên kết hoặc sát nhập giữa các đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, và nhà xuất bản với nhau. Xu hướng này bộc lộ sự tập trung quyền lực ngay trong nội bộ giới truyền thơng. Các tác giả cho rằng một trong hậu quả của hiện tượng tập trung này là hạn chế tính đa dạng trong cách thức thơng tin cũng như trong các ý kiến bình luận về thời sự. Kế tục xu hướng của lý thuyết phê phán, cũng cĩ một lối tiếp cận nữa từ gĩc độ văn hĩa, thường được gọi là trào lưu “Cultural Studies” (“nghiên cứu văn hĩa”). Đây là một trào lưu rất thịnh hành ở Anh và Mỹ trong những năm 1970-1990, ra đời từ đại học Birmingham (Anh) vào đầu thập niên 1960. Những người thường được coi là sáng lập ra trào lưu này là Richard Hoggart, Edward Thompson, Raymond Williams, và Stuart Hall. Xu hướng nghiên cứu này lúc đầu chịu ảnh hưởng phần nào của tư tưởng trường phái Frankfurt trong lối phân tích phê phán sự thống trị văn hĩa trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng họ khơng chấp nhận quan điểm chỉ nhấn mạnh tới nền văn hĩa “tinh 55 hoa” (elitist) của trường phái Frankfurt, vì họ cho rằng suy nghĩ như vậy vơ hình trung coi thường “văn hĩa đại chúng” hay “văn hĩa bình dân” và coi các tầng lớp lao động như khơng cĩ khả năng sáng tạo ra một nền văn hĩa thực thụ vì đã bị làm cho tha hĩa bởi các phương tiện truyền thơng đại chúng. Trào lưu này, ngược lại, nhấn mạnh tới khả năng đề kháng cũng như khả năng sáng tạo phong phú của cơng chúng, nhất là nơi các tầng lớp bình dân, trong việc sử dụng và tiếp nhận các thơng điệp truyền thơng đại chúng. Theo trào lưu “Cultural Studies”, văn hĩa “bình dân” hay văn hĩa “đại chúng” khơng phải chỉ là một sự phản ánh đơn thuần của sự thống trị, mà là sự biểu hiện một mối quan hệ đối thoại hay thương lượng (giữa văn hĩa của các tầng lớp lao động với văn hĩa của các tầng lớp thống trị), mặc dù kết quả của quá trình “thương lượng” (hay điều đình) này tất nhiên cuối cùng thường ngả về phía cĩ lợi cho các tầng lớp thống trị. MỘT VÀI HƯỚNG TIẾP CẬN KHÁC Một hướng tiếp cận khác khơng liên quan tới hai luồng tư tưởng chức năng và phê phán trên đây, đĩ là lý thuyết quyết định luận kỹ thuật (technological determinism) xuất phát từ trường phái Toronto. Cha đẻ của lý thuyết này là Harold Innis cho rằng chính kỹ thuật của các phương tiện truyền thơng là yếu tố quyết định cách thức suy nghĩ và ứng xử của người dân. Ơng phân tích về những ảnh hưởng của kỹ thuật truyền thơng đối với lĩnh vực chính trị. Sở dĩ đế quốc La Mã cĩ thể đứng vững một thời gian tương đối dài chính là vì lúc ấy đã tồn tại văn hĩa chữ viết, nhờ đĩ mà người ta thiết lập được một bộ máy hành chánh, cĩ khả năng quản lý được cả những vùng xa xơi. Nhưng kể từ khi kỹ thuật máy in ra đời, người ta bắt đầu cĩ cơ sở để đương đầu lại 56 với guồng máy hành chánh thống trị nĩi trên và hình thành nên ý thức quốc gia, và sau đĩ là phát triển ý thức cá nhân. Marshall McLuhan đã phát triển thêm những tư tưởng của Innis. McLuhan cho rằng kỹ thuật là sự nối dài của hệ thống thần kinh của con người, vì thế những thay đổi về kỹ thuật cĩ thể dẫn tới những cách thức tri giác và nhận thức mới. Ơng ta cho rằng các phương tiện truyền thơng điện tử đã tạo nên một dạng ý thức trực tiếp mới, trong đĩ những phạm trù cũ về khơng gian và thời gian khơng cịn phù hợp nữa. Mặc dù sau này, người ta đã bác bỏ những nhận định của McLuhan, nhất là những ý tưởng của ơng liên quan đến những hậu quả của các phương tiện truyền thơng thính thị, nhưng cơng trình nghiên cứu độc đáo của McLuhan vẫn được coi là nêu ra được những gợi ý bổ ích. Ngày nay, nhất là khi mà Internet đang ngày càng phát triển và xâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau, một số nhà nghiên cứu đang cĩ xu hướng trở lại với luận điểm của Innis: họ cho rằng những đặc trưng kỹ thuật của một phương tiện truyền thơng cĩ thể là một trong những nhân tố quan trọng cần lưu tâm khi nghiên cứu về những chuyển biến xã hội. Lý thuyết văn hĩa của G. Gerbner thì cho rằng truyền hình, vốn mạnh nhất trong các phương tiện truyền thơng đại chúng, gĩp phần tạo nên quan niệm của cơng chúng về thực tại. Chính truyền hình đã củng cố và duy trì những lối ứng xử và suy nghĩ truyền thống của người dân, chứ khơng hề làm suy yếu chúng như một số tác giả quan niệm. Vì thế, truyền hình là cơng cụ bảo tồn hiện trạng xã hội. Chức năng văn hĩa của truyền hình là phổ biến và duy trì những khuơn thước xã hội, chứ khơng phải là khuyến khích sự thay đổi. Truyền hình là một phương tiện xã hội hĩa các vai trị trong xã hội, và do đĩ củng cố trật tự xã hội. Gerbner đã tiến hành phân tích nội dung đối với các chương trình 57 được phát trên đài truyền hình, và đồng thời, ơng ta khảo sát xem cơng chúng tiếp nhận và lý giải các thơng điệp ấy như thế nào. Trái ngược với nhiều tác giả khác, Gerbner cho rằng truyền hình cĩ một ảnh hưởng lâu dài đối với việc hình thành dư luận cơng chúng. Truyền hình khơng phải chỉ là phương tiện thơng tin và giải trí, nĩ cịn trình bày cho cơng chúng một “hình ảnh lý tưởng” của xã hội, nĩ gĩp phần lèo lái và nhào nặn nên những thái độ, thị hiếu, và sở thích của cơng chúng. Cái thế giới mà truyền hình chiếu cho chúng ta coi, theo Gerbner, chỉ là một thứ thế giới “ảo”, rất ít giống với thực tại xã hội mà chúng ta đang sống. Vì thế, người nghiên cứu khơng thể chỉ nghiên cứu một buổi phát hình là đủ, mà phải khảo sát tổng thể hàng loạt chương trình thì mới cĩ thể tìm ra được những trục tư tưởng nằm tiềm ẩn bên dưới các thơng điệp được truyền tải trên màn hình hàng ngày [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 31-43]. Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 3: - Một số khái niệm và luận điểm chính thường được sử dụng trong trường phái chức năng luận như “chức năng”, “phản chức năng”, “chức năng cơng khai” và “chức năng tiềm ẩn”... - Những đặc điểm chính của trường phái lý thuyết phê phán. - Lý thuyết quyết định luận kỹ thuật (technological determinism). Câu hỏi ơn tập: 1. Trong lịch sử nghiên cứu xã hội học về truyền thơng đại chúng, người ta thường phân biệt ra mấy giai đoạn chính? Hãy nêu đặc điểm của mỗi giai đoạn. 58 2. Theo trường phái chức năng luận, các phương tiện truyền thơng đại chúng cĩ những chức năng xã hội nào? 3. Hãy nêu vắn tắt vài luận điểm của các trường phái theo khuynh hướng phê phán đối với truyền thơng đại chúng. Câu hỏi thảo luận nhĩm: (hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân) 1. Hãy thử tìm những chức năng xã hội của tờ báo Tuổi trẻ. 59 Bài 4 NGHIÊN CỨU CƠNG CHÚNG Giới thiệu khái quát: Chương này trình bày những đặc điểm của cơng chúng, ứng xử truyền thơng của cơng chúng, và cách sử dụng các phương tiện truyền thơng đại chúng nơi các tầng lớp cơng chúng khác nhau. Một số lý thuyết xã hội học cĩ liên quan tới lĩnh vực nghiên cứu về cơng chúng cũng được điểm qua trong chương này. Mục tiêu của chương này: Làm sao hiểu được những đặc trưng của khái niệm “cơng chúng” của các phương tiện truyền thơng đại chúng, và nắm được một số nội dung thường được khảo sát trong lĩnh vực nghiên cứu về cơng chúng. Các phương tiện thơng tin đại chúng luơn nhắm tới đơng đảo mọi người trong cơng chúng mà khơng hề phân biệt hay hạn chế bất cứ ai. Ai muốn mua báo đọc cũng được; ai muốn mở rađiơ nghe hay coi ti-vi lúc nào cũng được, khơng ai cấm mà cũng khơng ai bắt phải mở; và đọc, nghe hoặc xem càng đơng càng tốt, dưới con mắt của nhà truyền thơng. Cơng chúng của các phương tiện truyền thơng đại chúng cĩ những đặc trưng chính như sau: tính chất rộng lớn; tính chất dị biệt (bao gồm rất nhiều giới và tầng lớp khác nhau); và tính chất nặc danh (nhà truyền thơng khơng thể biết đích xác cơng chúng của mình gồm 60 những ai; và trong khối “cơng chúng” đĩ, cũng khơng ai biết ai). Do tính chất rộng lớn và mơ hồ đĩ, nên chúng ta khơng nên coi “cơng chúng” như một đối tượng nghiên cứu thuần nhất và đồng dạng. Ngược lại, cần hiểu rằng cơng chúng của một phương tiện truyền thơng là một tập hợp xã hội rộng lớn, được cấu thành một cách phức tạp bởi nhiều giới, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, và đang sống trong những mối quan hệ xã hội nhất định. Khi nghiên cứu về cơng chúng của một phương tiện thơng tin đại chúng, chúng ta khơng thể tách những độc giả hay khán giả này ra khỏi mơi trường sống của họ, mà ngược lại, phải tìm hiểu họ trong bối cảnh các điều kiện sống cũng như các mối quan hệ xã hội của họ. Như chúng ta đã biết, trong thời kỳ đầu nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thơng đại chúng đối với dư luận và ứng xử của cơng chúng, các nhà nghiên cứu đã quá nhấn mạnh tới tác dụng tiêu cực của các phương tiện thơng tin đại chúng. Mơ hình ảnh hưởng “vạn năng” của truyền thơng đại chúng trong thời kỳ này thường được gọi là mơ hình “mũi kim tiêm” hoặc “viên đạn thần kỳ”. Những cơng trình nghiên cứu về sau đã bác bỏ mơ hình trên, vì nĩ quá giản lược. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh nhiều hơn tới bối cảnh xã hội của cá nhân trong quá trình truyền thơng. Họ cho rằng : mặc dù quả thực là cơng chúng phần lớn đều nặc danh trước mắt các nhà truyền thơng, nhưng hiếm cĩ trường hợp nào mà độc giả hay khán thính giả hồn tồn cơ lập và đơn độc một mình trước phương tiện thơng tin. Khi coi ti-vi hay nghe rađiơ (dù là để theo dõi một trận bĩng đá, hay để theo dõi tin tức), thường thường người ta coi hoặc nghe cùng với một vài người khác trong gia đình hoặc bạn bè. Dù cĩ đọc báo hay coi ti-vi một mình đi nữa, thì bên cạnh tư cách là độc giả của một tờ báo, hay khán giả của đài truyền hình, mỗi cá nhân chúng ta đều vẫn là thành viên của một gia đình, của một nhĩm bạn bè, của một 61 tổ chức nghề nghiệp hay một đồn thể xã hội nào đĩ. Những nhĩm xã hội này luơn luơn ảnh hưởng tới ý kiến, thái độ và cách ứng xử của mỗi cá nhân, và ảnh hưởng cả tới cách thức mà mỗi người tiếp nhận thơng tin từ các phương tiện truyền thơng. Các phương tiện truyền thơng tác động đối với cá nhân phần lớn đều thơng qua các nhĩm xã hội ấy. Hai nhà nghiên cứu Matilda Riley và John Riley đã chứng minh được tầm quan trọng của những mối liên hệ liên cá nhân trong quá trình truyền thơng đại chúng. Họ đã khám phá ra rằng: những đứa trẻ nào được nuơi dạy trong những gia đình đầm ấm (tức khơng bị ly tán), và hịa hợp được với bạn bè đồng trang lứa thì thường dành ít thời gian coi ti-vi hơn và ít muốn bắt chước những nhân vật trong phim hơn so với những đứa trẻ sống trong những gia đình “lục đục” (cha mẹ ly hơn chẳng hạn) và khơng hội nhập được với bạn bè cùng trang lứa. Ảnh hưởng của các phương tiện truyền thơng đại chúng đối với các cá nhân hiếm cĩ khi nào diễn ra một cách trực tiếp giống như một “mũi kim tiêm", mà luơn luơn là gián tiếp, thơng qua nhiều tầng nấc trung gian, nhất là thơng qua ảnh hưởng của những người “hướng dẫn dư luận” trong các nhĩm xã hội (xem lại chương 1). NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA CƠNG CHÚNG Mục tiêu của xã hội học về cơng chúng là điều tra và khảo sát để hiểu cơng chúng là ai, thuộc những tầng lớp nào, họ theo dõi các phương tiện thơng tin đại chúng nào nhiều nhất, đọc báo hoặc xem ti- vi cĩ thường xuyên hay khơng, họ cĩ phản ứng hoặc thái độ thế nào đối với báo chí, rađiơ và ti-vi... Nĩi chung, mục tiêu là tìm hiểu xem các giới cơng chúng khác nhau tiếp nhận và sử dụng các phương tiện 62 truyền thơng đại chúng như thế nào. Những dữ kiện đầu tiên mà người ta thường khảo sát khi tiến hành một cuộc điều tra về cơng chúng của một tờ báo chẳng hạn, là những con số thống kê về các đặc điểm nhân khẩu học như giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn, và các đặc điểm xã hội như nghề nghiệp, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội... của số cơng chúng này. Sau đĩ, người ta khảo sát những cách thức đọc báo của độc giả tờ báo, và những phản ứng, ý kiến và thái độ của họ đối với tờ báo nĩi chung, cũng như đối với từng trang mục cụ thể nĩi riêng. Đi sâu hơn nữa, người ta cịn tìm cách phân tích và lý giải sự khác biệt giữa các giới và các tầng lớp xã hội khác nhau trong việc đọc báo và tiếp nhận nội dung của tờ báo. Trước đây, các nhà xã hội học thường chỉ chú ý khảo sát ứng xử của cơng chúng đối với một phương tiện truyền thơng. Nhưng về sau, xu hướng phổ biến trong giới nghiên cứu xã hội học là tìm cách đi xa hơn: đĩ là cố gắng nối kết ứng xử đĩ với cơ cấu xã hội, hay nĩi cách khác, đặt ứng xử của cơng chúng đối với truyền thơng đại chúng trong bối cảnh xã hội của họ (chẳng hạn, nghiên cứu về tập quán coi ti-vi nơi các tầng lớp xã hội khác nhau). Lối đặt vấn đề như vậy giúp chúng ta đo lường kỹ lưỡng hơn và lý giải sâu sắc hơn những xu hướng và chuyển biến trong ứng xử của cơng chúng. Lấy một thí dụ: những gia đình nào mà mọi thành viên đều đã học hết trung học thường cĩ những tập quán và cách thức đọc báo khác với những gia đình mà cha mẹ chưa học hết bậc trung học. Hay một thí dụ khác: những cặp vợ chồng nào đều đã học xong đại học thường cĩ thái độ đối với truyền hình khác với những cặp vợ chồng cĩ trình độ học vấn thấp hơn, hoặc chỉ cĩ một trong hai người là tốt nghiệp đại học. Các cuộc điều tra xã hội học thực nghiệm đã cho thấy là khơng phải chỉ cĩ trình độ học vấn mới ảnh hưởng tới thái độ đối với truyền thơng đại chúng, mà nhiều nhân tố xã hội khác cũng cĩ thể tác động 63 vào đây. Thí dụ ảnh hưởng của người bạn đời : nhiều cuộc điều tra ở Bắc Mỹ cho biết là những người cĩ vợ học hết bậc trung học thường cĩ tỷ lệ đọc báo và tạp chí đơng hơn so với những người cĩ vợ chưa học tới trung học. Nĩi chung, qua các cuộc điều tra, người ta cố gắng khám phá mối quan hệ giữa cách thức sử dụng truyền thơng đại chúng với các đặc điểm nhân khẩu cũng như các đặc điểm xã hội của cơng chúng. Nhà xã hội học Wright, qua những kết quả điều tra ở Mỹ, nhận xét rằng những người nào cĩ đọc báo đều đặn mỗi ngày (dù những người này cĩ coi ti-vi nhiều hay ít) đều là những người theo dõi kịp thời về thời sự chính trị và thường sẵn sàng nĩi chuyện chính trị nhiều hơn so với những người chỉ theo dõi tin tức thời sự qua truyền hình và khơng đọc báo mà cũng khơng nghe rađiơ. ỨNG XỬ TRUYỀN THƠNG CỦA CƠNG CHÚNG Ở nhiều nước cơng nghiệp phát triển, người ta đã tiến hành rất nhiều cơng trình nghiên cứu về ứng xử truyền thơng của cơng chúng (chúng tơi dùng chữ “ứng xử truyền thơng” để chỉ một cách ngắn gọn các cách thức và tập quán sử dụng truyền thơng đại chúng nơi người dân, cũng như thái độ của họ đối với truyền thơng đại chúng). Các đề tài nghiên cứu thực nghiệm thường khảo sát xem người dân thường chọn đọc báo nào, thích đọc những mục gì nhất, thường nghe hoặc xem chương trình gì trên rađiơ và ti-vi, đọc báo hoặc coi ti-vi vào lúc nào, trong bao lâu, chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong ngân sách thời gian, chiếm vị trí nào trong thời gian rảnh rỗi của người dân, thái độ của họ đối với các chương trình, các đề mục... Khi nghiên cứu về quá trình phát triển của các phương tiện thơng 64 tin đại chúng, Francis Balle đã nhận diện ra ba giai đoạn chính nơi tập quán và thái độ của cơng chúng mỗi khi cĩ một phương tiện truyền thơng mới ra đời. Đĩ là: giai đoạn mê mẩn, giai đoạn bão hịa, và giai đoạn trưởng thành. Ở giai đoạn đầu, khi một phương tiện truyền thơng vừa chào đời, cơng chúng thường tỏ ra rất hào hứng, phấn khích, và dành ra rất nhiều thời gian và tâm trí để theo dõi. Nhưng sang giai đoạn kế tiếp, người ta bắt đầu cảm thấy chán vì đã theo dõi quá nhiều; lúc này, người ta cũng tỏ ra hồi nghi và bắt đầu địi hỏi nhiều hơn đối với nội dung các trang mục hoặc chương trình. Và rồi cuối cùng chuyển sang giai đoạn thứ ba, khi mà việc theo dõi phương tiện truyền thơng này đã đi vào tập quán trong nếp sống hàng ngày của họ: lúc này, người ta khơng cịn bị mê hoặc dễ dàng như thời gian ban đầu nữa, họ bình tĩnh trở lại và sử dụng phương tiện này một cách hợp lý hơn; người ta biết phê bình nội dung chương trình này hay đề mục khác, biết chọn lọc những cái cần xem, và khơi phục lại những tập quán cũ đã cĩ từ trước trong việc sử dụng ngân sách thời gian [xem Francis Balle, Médias et société, Paris, Montchrestien, 1980, tr. 548- 550.] Cuối thập niên 1920, khi phương tiện phát thanh bắt đầu được khai sinh tại Pháp, người ta cảm thấy rất hồ hởi và ai ai cũng nơ nức mải mê nghe đài. Cứ buổi chiều, sau giờ tan sở, ai cũng vội vàng về nhà để kịp nghe các chương trình phát thanh, chứ khơng ghé qua những quán rượu làm vài ly như trước nữa. Đến mức mà năm 1927, ở miền Bắc nước Pháp, cĩ lần nghiệp đồn các nhà sản xuất rượu phải kiện lên chính quyền tỉnh và đề nghị dẹp bỏ các chương trình phát thanh, nhưng tất nhiên là khơng dẹp được. Tuy nhiên, đến sau năm 1945, khi nước Pháp vừa được giải phĩng khỏi ách phát-xít Đức, rađiơ bắt đầu bị lu mờ vì sự hồi sinh của báo chí trong thời kỳ sau chiến tranh. Nhưng sau đĩ vài năm, thì 65 người ta lại dần dần nhận thức trở lại nhu cầu nghe rađiơ trong sinh hoạt hàng ngày [xem Francis Balle, sách đã dẫn, trang 548.]. Ở Anh, W. A. Belson cũng phát hiện một quá trình tương tự khi theo dõi và khảo sát các ứng xử và thái độ của cơng chúng lúc mới cĩ truyền hình. Trong vịng hai năm liên tiếp sau khi mua chiếc máy thu hình, người ta đã giảm đi rất nhiều thời gian đọc báo, đọc sách cũng ít hơn, đi xem kịch hoặc xem phim ngồi rạp cũng thưa thớt hẳn đi, thậm chí giảm hẳn cả mật độ giao du với bạn bè. Tuy nhiên, sau thời gian bị mê hoặc ban đầu này, cơng chúng truyền hình mới dần dần bắt đầu cảm thấy lo lắng trước một số hậu quả mà họ nghĩ là do truyền hình gây ra. Họ trách cứ ti-vi là hay đưa ra nhiều cảnh bạo lực cho trẻ con xem, họ chê bai những chương trình vơ bổ, mất thì giờ, trong khi cĩ thể dành thời gian làm những chuyện cĩ ích hơn... Và Belson nhận thấy phải mất 6 năm sau khi mua chiếc ti-vi thì cơng chúng mới khơi phục lại một cách bình thường những tập quán vốn cĩ trước đây của họ, là lại tiếp tục đi xem kịch, đi xem phim, đến thăm bạn bè... Nghĩa là đến giai đoạn này, cơng chúng truyền hình mới thực sự bước vào “tuổi trưởng thành”, coi ti-vi như một phương tiện truyền thơng bình thường như các phương tiện truyền thơng khác, và biết chọn lọc những gì mà mình cần coi [xem Francis Balle, sách đã dẫn, trang 549- 550.] Cĩ một số cơng trình nghiên cứu chú trọng tới các lối ứng xử của cá nhân đối với truyền thơng đại chúng, và đề xướng việc phân loại các kiểu ứng xử khác nhau. Một cuộc điều tra nơi tầng lớp trung lưu ở vùng ngoại ơ nằm giữa Philadelphia và New York (Mỹ) đã cho thấy cĩ bốn loại ứng xử chính như sau: - Những người tiêu thụ bất kể thứ phương tiện truyền thơng đại chúng nào, xem “hổ lốn” đủ mọi thứ nội dung chương trình mà khơng hề chọn lựa; 66 - Những người “chọn lọc nguồn”: số này chỉ chọn theo dõi một loại phương tiện truyền thơng mà thơi; - Những người “chọn lọc đề tài”: số này chọn đề tài mà mình muốn xem và tìm trên các phương tiện truyền thơng khác nhau (thí dụ: những người thích coi thể thao vừa trên truyền hình, vừa trên báo in); - Cuối cùng là những người tránh né mọi phương tiện truyền thơng đại chúng; theo tác giả nghiên cứu này, thì số người thuộc loại này rất ít [xem Judith Lazar, Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, trang 81.] CÁCH SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG NƠI CÁC TẦNG LỚP CƠNG CHÚNG Khi nghiên cứu về cách thức sử dụng hay hưởng thụ sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdhmo_xa_hoi_hoc_ve_truyen_thong_dai_chung_ts_tra_n_hu_u_quang_991_2127889.pdf