Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
25Ngày nhận bài: 3/8/2017; Ngày phản biện: 20/8/2017; Ngày duyệt đăng: 10/9/2017(1) Học viện Dân tộc; e-mail: 
[email protected]
Công tác dân tộc (CTDT) là “những hoạt 
động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm 
tác động và tạo điều kiện để đồng bào các DTTS 
cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ 
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”1.Tuy 
nhiên, không phải từ khi cách mạng thành công 
thì mới đặt ra vấn đề CTDT. Quay lại lịch sử, 
trong các triều đại phong kiến cũng đã thể hiện 
nhiều mối quan tâm với các mức độ khác nhau về 
vấn đề dân tộc. Ngay từ khi giành quyền tự chủ từ 
sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, các triều đại 
phong kiến Việt Nam luôn thể hiện sự coi trọng 
đối với các vấn đề dân tộc. Liên tục các triều đại 
từ Lý, Trần, Hồ, Lê-Trịnh, Tây Sơn đến triều 
Nguyễn đều ban hành các chính sách liên quan 
để giải quyết vấn đề dân tộc2. Điều đó chứng tỏ 
rằng, với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam 
thì chính sách dân tộc là một yếu tố quan trọng 
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ban 
hành và tổ chức thực hiện các chính sách để xây 
dựng khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ quan 
1. Chính phủ, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 
về công tác dân tộc.
2. Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam, Chính sách dân tộc của các 
chính quyền phong kiến Việt Nam. (X-XIX), NXB. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2001.
trọng để bảo vệ đất nước. Nhận thức rõ điều này 
nên từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt 
Nam đã rất coi trọng vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, 
phải từ sau cách mạng tháng Tám 1945 và bắt đầu 
vào xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng 
chế độ mới thì CTDT mới được Đảng và nhà 
nước xây dựng có hệ thống hơn. Hiến pháp nước 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã nêu 
rõ: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất 
Trung Nam Bắc không thể phân chia” (điều 2); 
“Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc 
dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện 
để chóng tiến kịp trình độ chung” (điều 8). Càng 
về sau, CTDT càng được đề cao với sự ra đời của 
hệ thống các cơ quan chức năng ở nhiều cấp độ 
khác nhau. CTDT đã góp phần quan trọng tuyên 
truyền và tổ chức thực hiện các chính sách của 
Đảng và Nhà nước đến với vùng dân tộc thiểu số 
(DTTS), vùng miền núi, góp phần quan trọng vào 
công cuộc kháng chiến kiến quốc hay xây dựng 
chủ nghĩa xã hội. 
Trong quá trình đổi mới, rồi hội nhập để 
phát triển, CTDT cũng đã góp phần to lớn vào 
việc đưa các DTTS hội nhập với thế giới, với 
nhịp thở của đất nước. Tuy nhiên, cũng phải 
SỰ THAY ĐỔI TRONG CÔNG TÁC DÂN TỘC
TỪ GIỮA THẾ KỶ XX ĐẾN NAY QUA TIẾP CẬN 
LÝ THUYẾT NHÂN HỌC
Bế Trung Anh(1)
Công tác dân tộc là một lĩnh vực rất quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam. Trải qua các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thời 
bao cấp và sang quá trình đổi mới đất nước, công tác dân tộc cũng có nhiều thay đổi. Trên 
bình diện chung, công tác dân tộc đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng vào bảo 
vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Để hiểu rõ hơn về thành 
tựu cũng như những hạn chế của công tác dân tộc từ giữa thế kỷ XX đến nay, bài viết này 
muốn qua các lăng kính của lý thuyết Nhân học để xem xét lại công tác dân tộc như là một 
đối tượng để nghiên cứu. Dù công tác dân tộc chưa là một lý thuyết hay lĩnh vực lý thuyết, 
nhưng ở một góc độ nào đó, nó cũng chịu ảnh hưởng của các lý thuyết khác nhau trong dân 
tộc học và nhân học. Và từ hướng tiếp cận các lý thuyết, phần nào đó sẽ cho chúng ta những 
lời giải thích về những tích cực cũng như hạn chế của công tác dân tộc.
Từ khóa: Công tác dân tộc; dân tộc thiểu số; chính sách dân tộc; lý thuyết Nhân học.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
26 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
nhìn nhận rằng, dù đã đạt được nhiều thành quả 
to lớn, CTDT vẫn còn nhiều hạn chế. Và phần 
nhiều những hạn chế này xuất phát từ cái nhìn 
chủ quan của những người xây dựng các chiến 
lược và chính sách phát triển. Hệ quả là CTDT 
cũng đã có những tác động tiêu cực nhiều đến sự 
phát triển của các cộng đồng DTTS. Bên cạnh 
những thành tựu đạt được về kinh tế thì các truyền 
thống văn hóa lại bị đứt gãy, bị mai một, hệ sinh 
thái tự nhiên và môi trường văn hóa xã hội bị 
tàn phá không ít. Nhưng gần như trong hơn nửa 
thế kỷ xảy ra những vấn đề này, dù được nhiều 
người nói đến song vẫn chưa đủ mạnh để tạo nên 
những thay đổi. Phải đến đầu những năm 2000, 
không chỉ các nhà nghiên cứu khoa học mà cả 
những người hoạch định chính sách bắt đầu nhận 
thức lại. Những công trình tổng kết CTDT trong 
mấy chục năm qua bắt đầu xuất hiện3. Lúc này, 
những vấn đề trong CTDT được mổ xẻ khách 
quan hơn để bắt đầu xây dựng hệ thống chính 
sách và xây dựng các hoạt động trong CTDT sao 
cho phù hợp với sự thay đổi của đất nước và tiến 
trình hội nhập với thế giới. Trong hơn một thập 
kỷ qua, CTDT không ngừng thay đổi theo hướng 
tích cực hơn. Nói vậy để thấy vấn đề CTDT vẫn 
còn phải nhìn nhận lại theo nhiều chiều hướng 
khác nhau để đổi mới và phục vụ đắc lực cho quá 
trình phát triển của các DTTS nói riêng và của 
đất nước nói chung. 
1.Công tác dân tộc dưới ảnh hưởng của 
các diễn ngôn phát triển
Công tác dân tộc là phương thức và quá 
trình tổ chức thực hiện các chính sách quản lý 
của nhà nước về vấn đề dân tộc với mục tiêu 
chung là đảm bảo sự ổn định và phát triển vùng 
dân tộc. Nhiều khi, CTDT cũng được thể hiện 
qua những diễn ngôn phát triển. Những diễn 
ngôn phát triển có nhiều mức độ tác động khác 
nhau, có thể mang quy mô nhân loại, cũng có thể 
chỉ là một dự án nhỏ của một cộng đồng. Ở đây, 
CTDT liên quan đến các diễn ngôn phát triển về 
vùng dân tộc, miền núi. Các diễn ngôn phát triển 
sớm đóng vai trò quan trọng trong các quá trình 
phát triển bởi nó truyền tải tư tưởng, mục tiêu 
của nhà quản lý đối với sự phát triển. Khi những 
diễn ngôn phát triển được đưa ra là tiến bộ, hợp 
lý thì quá trình phát triển của ngành đó sẽ thuận 
3. Hoàng Đức Nghi, Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi 
mới (1990-2000), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. 
lợi và có những thành tựu nhất định. Nhưng khi 
các diễn ngôn phát triển thiếu chính xác, không 
phù hợp sẽ đẩy lùi sự phát triển và gây ra nhiều 
hậu quả khác nhau. 
Các diễn ngôn phát triển liên quan đến 
CTDT ở Việt Nam luôn được đưa ra trong quá 
trình xây dựng và phát triển đất nước. Từ khi 
thành lập Đảng cho đến nay đều gắn CTDT với 
những diễn ngôn phát triển vùng dân tộc và miền 
núi. Những diễn ngôn này mang tính chỉ đạo, thể 
hiện quan điểm và định hướng của Đảng và nhà 
nước trong các điều kiện thực tế. Điều đó không 
có gì sai. Tuy nhiên, những người làm CTDT quá 
thụ động và bị chi phối quá nhiều từ các diễn 
ngôn này thì tình hình lại khác. Sự thụ động trước 
các diễn ngôn phát triển để rồi đưa vào ý chỉ chủ 
quan, xem CTDT có nhiệm vụ phải thực hiện các 
diễn ngôn đó mà không căn cứ vào tình hình thực 
tiễn của vùng dân tộc sẽ gây nên những hệ lụy 
cho quá trình phát triển. 
Phải công nhận rằng trong hai cuộc kháng 
chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, CTDT 
đã đạt được nhiều kết quả to lớn, góp phần vào 
việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát 
huy sức mạnh của tất cả các thành phần, các dân 
tộc vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Tuy nhiên, trong quá trình hoạch định phát triển 
vùng DTTS, chúng ta vẫn còn nhiều bất cập. Mà 
phần lớn các bất cập đều liên quan đến việc hoạch 
định công tác hơi máy móc, cứng nhắc, quá thụ 
động trong việc thực hiện các chỉ đạo từ trên 
xuống qua các diễn ngôn phát triển mang tầm vĩ 
mô. Xin phân tích một ví dụ để nhìn nhận sâu hơn 
về vấn đề này: 
Từ đầu những năm 1960, vấn đề CTDT 
được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhất là việc 
xây dựng đời sống mới ở vùng DTTS ở miền 
Bắc. Tại Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 đã 
nhấn mạnh vấn đề CTDT là “Làm cho miền núi 
tiến kịp miền xuôi, vùng cao và vùng biên giới 
tiến kịp vùng nội địa, các DTTS tiếp kịp dân tộc 
Kinh, giúp đỡ các dân tộc phát huy tinh thần cách 
mạng và năng lực to lớn của mình cùng nhau 
đoàn kết chặt chẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”4. Đây 
là một diễn ngôn mang tính vĩ mô, thiên hướng 
lãnh đạo từ trên xuống đối với quá trình phát triển 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn 
quốc lần thứ III, NXB. Sự thật, 1960, tr 125
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
27Số 19 - Tháng 9 năm 2017
của vùng miền núi, vùng DTTS. Quan điểm và 
mục tiêu của Đảng trong vấn đề này không có gì 
sai, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì những 
người làm CTDT lại nhìn vấn đề theo nhận thức 
tiến hóa luận giản đơn, bỏ qua sự khác biệt, sự đa 
dạng giữa các vùng miền, các dân tộc và cả các 
cộng đồng dân cư khác nhau. Nó góp phần tạo 
nên sự mặc định trong nhận thức của các nhà phát 
triển: Miền núi, vùng DTTS, là vùng nghèo nàn, 
lạc hậu, kém phát triển. Người DTTS là những 
tộc người đang ở ngưỡng cửa văn minh và người 
Kinh từ đồng bằng có nhiệm vụ giúp đỡ người 
DTTS phát triển để họ “tiến” theo kịp và bước 
vào nền văn minh. Quan điểm đó đã dẫn đến việc 
lấy người Kinh làm chuẩn cho quá trình phát 
triển. Quan điểm “đưa miền núi tiến kịp miền 
xuôi” cũng thể hiện tư duy cào bằng trong phát 
triển vùng mà trung tâm là các chỉ tiêu, thước đo 
về kinh tế. “Các nhà phát triển” đã xem tiêu chí 
kinh tế làm trung tâm, là mục tiêu của quá trình 
phát triển. Đầu tư cơ sở vật chất để đẩy mạnh tăng 
trưởng kinh tế ở miền núi là con đường để ‘tiến 
kịp miền xuôi” trong quá trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước. Nhưng kết quả, khoảng 
cách kinh tế giữa miền xuôi và miền núi ngày 
càng lớn thêm như một minh chứng hùng hồn cho 
một thực tế là kinh tế miền núi không thể theo 
kịp miền xuôi theo các tiêu chí của các nhà phát 
triển đưa ra. 
Công tác dân tộc trong giai đoạn kháng 
chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc 
nhìn chung là thụ động. Các nhà CTDT chủ yếu 
trở thành những người đi làm công tác tuyên 
truyền các chính sách của Đảng và nhà nước đến 
với người dân. Họ cũng là những người góp phần 
quan trọng trong việc xây dựng và thực thi hệ 
thống chính sách phát triển vùng dân tộc, miền 
núi. Tuy đạt được nhiều kết quả trong việc vận 
động đồng bào ủng hộ và giúp đỡ cách mạng để 
bảo vệ Tổ quốc cũng như hăng hái tham gia vào 
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, 
cái nhìn mang tính giản đơn về sự phát triển của 
vùng dân tộc cũng như sự cứng nhắc, máy móc, 
lệ thuộc quá nhiều vào các diễn ngôn phát triển 
đã làm cho CTDT gặp phải nhiều hạn chế và chưa 
đạt được hiệu quả nhất định. Bên cạnh đó, các 
công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực 
này hay ý kiến của các nhà dân tộc học-nhân học 
cũng ít được quan tâm trong quá trình xây dựng 
CTDT. Đến thời kỳ bao cấp, khi cả nước lâm 
vào điều kiện khó khăn do nền sản xuất trì trệ 
thì CTDT cũng gặp nhiều khó khăn trước những 
thay đổi trong ứng xử của đồng bào với quá trình 
phát triển cũng như sự vận động, biến đổi của đời 
sống kinh tế xã hội vùng dân tộc. Lúc này, người 
ta mới bắt đầu nhìn nhận lại quá trình hoạch định 
CTDT. Các diễn ngôn phát triển thể hiện quan 
điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước về 
vấn đề dân tộc vẫn là kim chỉ nam của CTDT. 
Tuy nhiên, những người thực hiện đã bắt đầu linh 
động, tiếp cận hợp lý hơn với điều kiện thực tế. 
Đó cũng là quá trình đổi mới CTDT trong hơn 
một thập kỷ cuối của thế kỷ XX.
2.Tiếp cận “từ khách thể” đến tiếp cận 
“từ chủ thể” và sự thay đổi trong công tác dân 
tộc thời kỳ đổi mới
Tiếp cận “từ khách thể” (Etic) và tiếp cận 
“từ chủ thể” (Emic) là những phương pháp tiếp 
cận trong nghiên cứu nhân học khá phổ biến trên 
thế giới trong nửa sau thế kỷ XX. Các tiếp cận này 
do nhà ngôn ngữ học và nhân học Mỹ, Kenneth 
Pike đưa ra vào giữa những năm 1950 trong các 
nghiên cứu về âm vị học. Sau đó, nó được nhiều 
nhà nghiên cứu dân tộc học-nhân học vận dụng 
khá rộng rãi, nhất là trong nghiên cứu văn hóa. 
Công tác dân tộc trước thời kỳ đổi mới chủ 
yếu thể hiện cách tiếp cận “từ khách thể”, tức là 
chịu sự chi phối của những nhà làm CTDT, từ 
những người đưa ra quan điểm đến những người 
hoạch định và thực thi chính sách. Những người 
làm CTDT, một mặt bị chi phối từ các diễn ngôn 
phát triển của những nhà lãnh đạo như phân tích 
ở trên. Mặt khác, những người làm CTDT cũng 
đưa cái nhìn chủ quan của mình vào để hoạch 
định CTDT, trong khi những cơ sở dữ liệu từ 
thực tế cuộc sống của những cộng đồng dân tộc 
chưa đầy đủ để giúp cho việc hoạch định CTDT 
được khách quan hơn. Bên cạnh đó, quan điểm 
của những người làm CTDT cũng chịu nhiều ảnh 
hưởng của thuyết trung tâm-ngoại vi. Dù họ cố ý 
vận dụng vào hoặc vô tình nhận thức như vậy thì 
những quan điểm này cũng đã ảnh hưởng mạnh 
đến CTDT. Những người làm CTDT đã lấy người 
Kinh, lấy miền xuôi làm trung tâm, là khu vực 
phát triển và coi vùng miền núi, vùng DTTS là 
vùng ngoại vi, vùng kém phát triển và cần phải hỗ 
trợ, giúp đỡ. Họ cũng lấy người Kinh làm trung 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
28 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
tâm, coi đây là khuôn mẫu, là điển hình của sự 
phát triển, là hệ giá trị chuẩn mực và xem các 
DTTS là lạc hậu, kém phát triển và phải được 
khai sáng. Nó khá giống với quan điểm của một 
số nhà dân tộc học thực dân sang nghiên cứu ở 
Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. 
Tuy nhiên, mục đích thì hoàn toàn khác nhau. 
Trong khi dân tộc học thực dân nghiên cứu để mở 
đường cho sự xâm lược và cai trị của đế quốc thì 
các nhà làm CTDT của ta chỉ vì sốt sắng, mong 
muốn giúp đỡ, hỗ trợ cho vùng miền núi, vùng 
đồng bào DTTS phát triển và tiến lên chủ nghĩa 
xã hội nhanh hơn. Mong muốn đó, vào thời đoạn 
đó là chính đáng, lại thêm điều kiện chiến tranh 
nên công tác nghiên cứu, thu thập thông tin cũng 
không dễ dàng, thêm vào tâm lý nóng ruột đã làm 
cho hoạch định về CTDT lại mang tính chủ quan, 
duy ý chí hơn. Hệ quả là nhiều truyền thống văn 
hóa của người DTTS bị coi là lạc hậu, không phù 
hợp và bị tìm cách để xóa bỏ (lễ hội “cầu Mường 
của đồng bào Thái ở Mường Chiềng, Đà Bắc, 
Hòa Bình vừa được khôi phục lại). Đồng thời 
cũng đưa nhiều yếu tố văn hóa lên vùng DTTS 
theo lối áp đặt khiến nền văn hóa xã hội của các 
dân tộc bị đứt đoạn.
Để cụ thể hơn vấn đề này, xin phân tích 
một ví dụ về CTDT và chính sách phát triển miền 
núi ở Nghệ An từ đầu những năm 1950 đến cuối 
thế kỷ. Ngay sau khi hòa bình lập lại ở miền 
Bắc năm 1954, Nghệ An bắt đầu công cuộc khôi 
phục và phát triển kinh tế, cải tạo xã hội. Những 
người làm CTDT dù chưa nắm rõ được tình hình 
phát triển của vùng dân tộc ở miền núi Nghệ An 
nhưng đã tiến hành đưa hàng vạn người Kinh từ 
miền xuôi lên để xây dựng các lâm trường, nông 
trường quốc doanh. Họ coi đây là điều quan trọng 
để phát triển miền núi và giúp đồng bào dân tộc 
phát triển theo kịp miền xuôi. Từ năm 1954 đến 
năm 1955, các lâm trường mới như Khe Kiền, 
Trịnh Môn, Bãi Phủ, Đông Hiếu, Tây Hiếu, Sông 
Con... đi vào hoạt động thu hút một số lượng công 
nhân từ miền xuôi lên. Từ đầu những năm 1960, 
NghệAn tiếp tục di dân từ miền xuôi lên miền 
ngược. Tính đến năm 1978, chính quyền Nghệ 
Tĩnh đã đưa hơn 30 vạn người miền xuôi đi khai 
hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới ở miền núi 
Nghệ An (và một số địa phương ở miền núi Hà 
Tĩnh sau khi nhập tỉnh năm 1975). Theo thống 
kê của Ban Dân tộc và Miền núi Nghệ An, thì 
đến đầu những năm 1990, số lượng người Kinh ở 
miền núi khoảng gần 300 nghìn người và chiếm 
gần 50% dân số miền núi, và đến năm 2009 đã 
hơn 700 nghìn người, chiếm 62% dân số miền 
núi. Như vậy, từ ý chỉ chủ quan của những người 
hoạch định chính sách, những người làm CTDT 
đã không căn cứ vào tình hình thực tiễn mà vội 
vàng đưa một lượng dân cư miền xuôi lên cư trú 
bên cạnh các cộng đồng DTTS tạo nên sự cư trú 
xen kẽ nhiều tộc người với nhau. Nhưng phương 
thức sản xuất, vị thế xã hội cũng như bản sắc văn 
hóa của người Kinh khác nhiều so với các cộng 
đồng còn lại nên đã có ảnh hưởng lớn đến quá 
trình phát triển miền núi. Hệ quả trực tiếp của vấn 
đề này là sự biến đổi văn hóa không mong muốn 
của các cộng đồng DTTS. Đó là một ví dụ về tác 
động của CTDT theo sự tiếp cận chủ quan của 
người hoạch định chính sách.
Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi 
mới 1986, CTDT cũng bắt đầu có những thay đổi 
để phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước, 
nhất là thực hiện nhiệm vụ đưa các vùng DTTS 
hội nhập và phát triển. Liên tiếp có các quan điểm 
chỉ đạo mới về liên quan đến CTDT kể từ sau Đại 
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Năm 1989, 
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 22-NQTƯ và 
năm 1990 Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định 
72-HĐBT là những văn bản chỉ đạo trực tiếp về 
CTDT và miền núi lúc này. “Đây là hai văn bản 
quan trọng bậc nhất thể hiện cho sự đổi mới trong 
CTDT của Đảng và Nhà nước”5. Đây là quãng 
thời gian mở đầu cho việc nhìn nhận lại và đổi 
mới CTDT. Một trong những điểm nhấn của sự 
đổi mới CTDT lúc này là chuyển từ tiếp cận “từ 
khách thể” sang tiếp cận “từ chủ thể” và sau đó 
là sự nhấn mạnh kết hợp cả hai phương pháp tiếp 
cận này để xây dựng cơ sở dữ liệu và hoạch định 
chính sách, CTDT. Các cơ quan phụ trách CTDT 
đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến tiếng nói của 
những người trong cuộc, chính là những người 
dân ở miền núi, là các đồng bào DTTS. Một mặt, 
người dân được thể hiện nhiều ý kiến của mình 
hơn trong việc góp ý về các chính sách liên quan 
đến sự phát triển của cộng đồng mình. Mặt khác, 
trong quá trình thực hiện các chính sách dân tộc 
thì những người liên quan cũng được thể hiện ý 
kiến góp ý để làm cho CTDT ngày càng tốt hơn và 
5. Lâm Bá Nam, Chính sách dân tộc của Đảng trong thời kỳ đổi 
mới, in trong “Đảng Cộng sản Việt Nam: 80 năm xây dựng và 
trưởng thành”, NBX. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
29Số 19 - Tháng 9 năm 2017
đảm bảo được sự ổn định, phát triển ở vùng dân 
tộc. Sự đổi mới trong CTDT đã ảnh hưởng tích 
cực đến sự phát triển của vùng dân tộc và miền 
núi, nó góp phần quan trọng “tạo được những 
chuyển biến đáng kể về phát triển kinh tế xã hội, 
xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết những vấn 
đề xã hội bức xúc ở miền núi. Nhiều mô hình 
sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã được hình 
thành và phát triển. Cơ cấu kinh tế miền núi đã có 
chuyển biến tích cực, tạo đà phát triển mới theo 
hướng sản xuất hàng hóa và từng bước chuyển 
dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”6. 
Để đạt được kết quả đó, những người làm CTDT 
đã thay đổi từ quan điểm chủ quan, tiếp cận “từ 
khách thể” sang kết hợp hai cách tiếp cận, tôn 
trọng ý kiến của đồng bào dân tộc, lắng nghe ý 
kiến của các nhà khoa học trong và ngoài nước. 
Nói đúng hơn, CTDT trong giai đoạn này đã tiếp 
nhận được những luồng gió mới trong nghiên 
cứu dân tộc học và các ngành khác dưới ánh sáng 
của đổi mới. Bởi lúc đó, nhiều nhà nghiên cứu 
nước ngoài và trong nước đã có nhiều công trình 
phân tích về tác động của các chính sách cũng 
như sự biến đổi của các dân tộc trong nhiều năm 
trước đó. Trong đó, các học giả nước ngoài như 
Gerald Hickey (Mỹ), Futura Moto (Nhật Bản), 
Orcar Salemink (Hà Lan) hay Patricia Pelly (Mỹ) 
thường tập trung vào việc phân tích thực trạng và 
các chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với 
các dân tộc cũng như tác động của các chính sách 
ấy lên tình hình phát triển vùng dân tộc. Trong 
khi các nhà khoa học Việt Nam lại tập trung vào 
ba vấn đề chính: Thực trạng kinh tế - xã hội ở 
miền núi; Chính sách của Nhà nước đối với vùng 
miền núi, đồng bào DTTS; Đề xuất giải pháp đào 
tạo nguồn nhân lực cho vùng miền núi. 
Dù đạt được những kết quả quan trọng 
trong quá trình đổi mới CTDT, chính sách dân 
tộc, nhưng sự phát triển kinh tế-xã hội của đất 
nước ngày càng nhanh chóng, sự hội nhập với 
thế giới dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa 
ngày càng mạnh mẽ thì CTDT, muốn đạt hiệu quả 
cao hơn lại phải tiếp tục đổi mới hơn nữa. 
3.Công tác dân tộc trong định hướng 
phát triển bền vững, giai đoạn hiện nay
6. Ủy ban Dân tộc và Miền núi, 55 năm công tác dân tộc và 
miền núi (1946-2001), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 
2001, tr. 125
Tiếp nối những kết quả đạt được trong thời 
kỳ đầu đổi mới, bước sang thế kỷ mới, CTDT lại 
tiếp tục thay đổi và hòa nhập với sự phát triển trên 
thế giới khi nhân loại đi vào kỷ nguyên phát triển 
bền vững. CTDT trong giai đoạn hiện nay dựa 
trên quan điểm, định hướng phát triển bền vững 
và cách tiếp cận đa chiều cả về lý thuyết cũng 
như thực tiễn. Tiếp cận đa chiều ở đây không phải 
là một lý thuyết mà là một hệ thống quan điểm 
và phương pháp tiếp cận phức hợp, cho chúng 
ta cái nhìn từ nhiều chiều hướng khác nhau, tiến 
tới nhận thức toàn diện và khách quan hơn về các 
vấn đề trên. Trong khi đó, phát triển bền vững 
đang là chiến lược, là định hướng phát triển của 
nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. 
Xuất hiện trên diễn đàn thế giới từ đầu 
những năm 1970, thuật ngữ phát triển bền vững 
(Sustainable Development) ngày càng được phổ 
biến và được xem là một khái niệm mang tính 
thời đại. Chiến lược phát triển bền vững toàn cầu 
trải qua 3 hội nghị lớn của Liên Hợp quốc, từ 
Hội nghị Thượng đỉnh Rio de Janeiro (1992) đến 
Hội nghị Thượng đỉnh Johannesburg (2002) và 
gần nhất là Hội nghị Thượng đỉnh Rio de Janeiro 
(2012), mục tiêu và nội dung của phát triển được 
hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn và cụ thể hơn. Khái 
niệm phát triển bền vững hiện nay được hiểu là: 
Quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp 
lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là 
phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi 
trường... Ngoài ra còn phải quan tâm đến các khía 
cạnh khác của sự phát triển bền vững như chính 
trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc.... Một vấn đề quan 
trọng mà gần đây mới được nhắc đến nhiều hơn 
là phát triển bền vững con người trong toàn thế 
giới để vượt qua các ngăn cách chủng tộc, quốc 
gia, dân tộc và tôn giáo... Tóm lại, khung mẫu 
phát triển bền vững phải bao gồm 6 thành tố: 
i- Phát triển bền vững kinh tế, ii- Phát triển bền 
vững chính trị, iii- Phát triển bền vững văn hóa, 
iv- Phát triển bền vững xã hội, v- Phát triển bền 
vững con người, vi- Bảo vệ môi trường bền vững.
Việt Nam là một trong những quốc gia 
tham gia chương trình phát triển bền vững khá 
sớm. Từ Hội nghị Thượng đỉnh ở Rio de Janeiro 
(1992) Chính phủ Việt Nam đã ký Tuyên bố 
chung của Liên hợp quốc về phát triển bền vững. 
Năm 1993, Quốc hội ban hành luật Bảo vệ môi 
trường. Năm 1996, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
30 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
thị số 36-CT/TW về “Tăng cường công tác bảo 
vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước”. Năm 2004, Chính phủ 
ban hành Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam 
với tên gọi “Định hướng chiến lược phát triển bền 
vững ở Việt Nam”. Chương trình phát triển bền 
vững ở Việt Nam được tiến hành trên ba phương 
diện: i- Thành lập các tổ chức từ trung ương đến 
địa phương để quản lý các chương trình phát 
triển bền vững; ii- Phổ biến nội dung, xây dựng 
kế hoạch và tuyên truyền các yêu cầu phát triển 
bền vững đến các cơ quan, đoàn thể và toàn dân; 
iii- Tổ chức nghiên cứu, đánh giá để bổ sung các 
nội dung cụ thể và xây dựng các mô hình phát 
triển bền vững cho các đối tượng khác nhau ở các 
địa phương. Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ 
tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược phát 
triển bền vững Việt Nam, ngày 12 tháng 4 năm 
2012, nhấn mạnh quan điểm phát triển bền vững 
lấy con người làm trung tâm, lấy khoa học làm 
nền tảng. Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên 
suốt và toàn diện trong quá trình phát triển đất 
nước, và là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn 
Dân, các Cơ quan nhà nước và ngoài nhà nước. 
Như vậy, CTDT trong kỷ nguyên phát triển bền 
vững cũng phải thay đổi cả về nhận thức và cách 
tiếp cận.
Tiếp cận đa chiều trong CTDT là kết hợp 
sử dụng nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau 
sao cho hợp lý và hiệu quả. CTDT hiện nay có 
sự tham gia của nhiều bên, trong đó có nhiều nhà 
lãnh đạo, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính 
sách dân tộc, các nhà nghiên cứu khoa học, các 
nhà doanh nghiệp và người dân. Trong hoạch 
định CTDT cần phải tranh thủ được ý kiến của 
nhiều người cùng tham gia bàn luận, trao đổi và 
tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả của CTDT. 
Các vấn đề dân tộc hiện tại không còn là một vấn 
đề riêng biệt mà luôn tồn tại nhiều mối quan hệ 
chặt chẽ với các vấn đề khác, nên cần phải có cái 
nhìn toàn diện hơn để đi đến hoạch định chính 
sách phát triển vùng dân tộc hiện nay. Nói tóm lại, 
CTDT hiện tại phải tiếp cận từ nhiều phía, cả chủ 
thể và khách thể, của các nhà quản lý, nhà nghiên 
cứu, nhà doanh nghiệp và người dân; đồng thời 
phải nhìn từ nhiều mối quan hệ với nhau: Từ tự 
nhiên, con người, văn hóa, xã hội, chính trị. 
Điều đó đòi hỏi người làm CTDT phải luôn biết 
lắng nghe, biết trao đổi và biết tích hợp các hạt 
nhân hợp lý từ nhiều phía liên quan trong một vấn 
đề để xử lý mọi việc một cách hiệu quả nhất. 
Dựa trên quan điểm và định hướng phát 
triển bền vững, lấy tiếp cận đa chiều làm nền 
tảng nên CTDT ở Việt Nam hiện nay được xác 
lập và thực hiện trên 4 nguyên tắc cơ bản được 
Chính phủ quy định (Theo Nghị định 05/2011/
NĐ-CP của Chính phủ về CTDT):1- Thực hiện 
chính sách dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng, 
đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.2- 
Đảm bảo và thực hiện chính sách phát triển toàn 
diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất và 
tinh thần của đồng bào DTTS.3- Đảm bảo việc 
giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát 
huy những phong tục, tập quán, truyền thống và 
văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.4- Các dân tộc 
có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của 
nhau, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam 
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các nguyên tắc này dựa trên nền tảng quan 
điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và CTDT được 
khẳng định qua các kỳ Đại hội gần đây. Và nó 
cũng thể hiện được định hướng phát triển CTDT 
trong kỷ nguyên phát triển bền vững và toàn cầu 
hóa hiện nay. Đây cũng là điều kiện để có thể 
thực hiện được nhiệm vụ về CTDT đã được thông 
qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) 
và khẳng định lại trong các Đại hội lần thứ XI và 
XII: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam 
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau 
cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật 
chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao 
trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn 
hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp 
của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát 
triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng 
xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm 
tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng 
kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân 
cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, 
quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ 
thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào các DTTS; 
động viên, phát huy vai trò của những người tiêu 
biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu 
tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là 
người DTTS. Cán bộ công tác ở vùng DTTS và 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
31Số 19 - Tháng 9 năm 2017
miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, 
tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác 
dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia 
rẽ dân tộc”7. 
Những phân tích trên về CTDT từ giữa 
thế kỷ XX đến nay xuất phát từ việc tiếp cận các 
hướng lý thuyết nhằm để nhận thức lại một góc 
nào đó về CTDT. Những thảo luận trên không 
nhằm mục đích khẳng định rằng CTDT vận dụng 
các lý thuyết đã trình bày vào quá trình hoạch 
định chính sách hay thực thi các chính sách dân 
tộc, mà nó chỉ là một khung lý thuyết giúp cho 
chúng ta tiếp cận với CTDT với tư cách là một 
đối tượng nghiên cứu. Theo đó, CTDT trong các 
giai đoạn của những năm qua có những vấn đề 
khác nhau. Tiến trình phát triển của CTDT theo 
hướng từ chủ quan duy ý chí đến việc ngày càng 
tiếp cận khách quan hơn và đạt được nhiều kết 
quả hơn, góp phần vào quá trình xây dựng và 
phát triển đất nước nhiều hơn.
Về cơ bản, CTDT trước thời kỳ đổi mới 
chịu nhiều ảnh hưởng của những diễn ngôn phát 
triển từ trên xuống, mang tính chủ quan. Đây là 
giai đoạn CTDT mang tính chính trị và tập trung 
vào việc tập hợp lực lượng, xây dựng khối đoàn 
kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc để chống giặc 
ngoại xâm, giải phóng đất nước. Và bên cạnh đó 
là việc xây dựng và phát triển cơ sở kinh tế xã hội 
chủ nghĩa ở vùng DTTS và miền núi. Kết quả là 
chúng ta đã huy động được sức mạnh để giành 
thắng lợi trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. 
Nhưng mặt khác, CTDT bị ảnh hưởng bởi các 
diễn ngôn phát triển mang tính chính trị đã gây 
đứt gãy đối với các nền văn hóa truyền thống của 
các DTTS. Cùng với đó là gây ra sự xáo trộn giữa 
địa bàn cư trú của các dân tộc làm cho sự tiếp xúc 
văn hóa càng mạnh mẽ hơn.
Công tác dân tộc trước và trong giai đoạn 
đầu của công cuộc đổi mới cũng chủ yếu theo lối 
tiếp cận “từ khách thể”. Những người làm CTDT 
đã quá chủ quan, duy ý chí khi quá nhấn mạnh 
quan điểm của mình vào trong hoạch định CTDT 
mà thiếu cơ sở dữ liệu về thực tế ở vùng dân tộc 
và miền núi. Tuy nhiên, từ khi đổi mới, nhận thức 
về CTDT cũng thay đổi, từ nhấn mạnh ý kiến của 
khách thể chuyển sang coi trọng ý kiến của chủ 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn 
quốc lần thứ X, 2006, tr 121-122
thể các nền văn hóa. Cùng với đó là tiếng nói 
của các nhà nghiên cứu dân tộc học-nhân học và 
nhiều ngành khác cũng được tôn trọng hơn. Đó là 
quá trình đổi mới CTDT và nó tạo cơ sở cho việc 
CTDT ngày càng đổi mới, hiệu quả hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, CTDT được 
hoạch định và xây dựng theo hướng phát triển 
bền vững và tiếp cận đa chiều. Vẫn giữ vững 
quan điểm lãnh đạo của Đảng về vấn đề dân tộc 
và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước 
về CTDT, nhưng những người làm CTDT đã trở 
nên chuyên nghiệp hơn. Họ biết tranh thủ ý kiến 
của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, các 
nhà doanh nghiệp và tôn trọng ý kiến của người 
dân-là những người chủ thể, trực tiếp nhận tác 
động từ CTDT. Sự nhìn nhận sâu sắc, tiếp cận đa 
phương, đa chiều hơn là nền tảng cho quá trình 
hoạch định CTDT hiện nay. Các nghiên cứu về 
dân tộc, CTDT được thực hiện với các tiếp cận 
liên ngành, dựa trên các dữ liệu, cơ sở dữ liệu 
về DTTS. Điều này cũng đặt ra một nhiệm vụ 
rất lớn, đó là phải tiến hành không chậm trễ, xây 
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu Quốc gia về DTTS, 
làm luận cứ minh chứng cho những giả thuyết đặt 
ra trong các nghiên cứu. Với những điều kiện cơ 
bản như vậy, có thể tin tưởng rằng CTDT sẽ ngày 
càng hiệu quả và có nhiều đóng góp trong quá 
trình xây dựng và phát triển đất nước.
Tài liệu tham khảo
[1] Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam (2001), 
Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà 
nước phong kiến Việt Nam (X-XIX), NXB. Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội;
[2] Khổng Diễn (2003), Tổng quan về dân 
tộc học Việt Nam trong một thế kỷ qua. In trong 
“Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những năm 
đầu thế kỷ XXI”, NXB. Khoa học Xã hội;
[3] Bế Viết Đẳng (1977), Nghị quyết đại 
học Đảng toàn quốc lần thứ IV và công tác nghiên 
cứu dân tộc học hiện nay. Tạp chí Dân tộc học 
số 1-1977. In trong Dân tộc học Việt Nam: Định 
hướng và thành tựu nghiên cứu (1973-1998), 
NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006;
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, NXB. 
Sự thật, Hà Nội;
[5] Nguyễn Hữu Hải, Nguyễn Xuân Thu, 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
32 Số 19 - Tháng 9 năm 2017
CHANGES IN ETHNIC WORK FROM THE MID- 20th CENTURY TO NOW 
FROM STUDYING ANTHROPOLOGICAL THEORY
Abstract: Ethnic affairs are a very important field in the directions and policies of the 
Party and the State of Vietnam. Through the national defense war, the subsidy period and 
the process of national renewal, the work of ethnic minorities also has many changes. On 
the general level, ethnic work has contributed significantly to the construction of national 
defense. However, there are still many shortcomings. To better understand the achievements 
and limitations of ethnic work from the mid-twentieth century, this article emphasizes on 
adopting the lens of Anthropological Theory to review ethnic work as a statue to study. 
Although ethnographic work is not a theoretical or theoretical field, it is, to some extent, 
influenced by different theories used in ethnography and anthropology.
Keywords: Ethnic affairs; ethnic minorities; national policy; Anthropological theory.
Lưu Minh Thiệu, Lê Vui, Trịnh Quang Cảnh 
(1997), 50 năm Công tác dân tộc (1946-1996), 
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
[6] Trần Tiến Hoà, Nguyễn Mạnh Hiền 
(2004), Một số vấn đề cần biết về dân tộc và 
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, 
NXB. Lao Động, Hà Nội;
[7] Phan Văn Hùng (chủ biên) (2015), Một 
số vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và chính 
sách dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội;
[8] Lâm Bá Nam (2010), Chính sách dân 
tộc của Đảng trong thời kỳ đổi mới. In trong 
“Đảng Cộng sản Việt Nam: 80 năm xây dựng và 
trưởng thành”, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
[9] Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác 
dân tộc trong 10 năm đổi mới (1990-2000), NXB. 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
[10] Giàng Seo Phử (chủ biên) (2016), Một 
số vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước 
về công tác dân tộc qua 30 năm đổi mới, NXB. 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
[11] Jean Olivier De Sardan (2008), Ba lối 
tiếp cận trong ngành nhân học về sự phát triển. 
In trong “Nhân học phát triển: Lý thuyết, phương 
pháp và công cụ thực hành”, NXB. Khoa học Xã 
hội, Hà Nội;
[12] Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2001), 
55 năm công tác dân tộc và miền núi (1946-
2001), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
[13] Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê 
Ngọc Thắng , Dương Xuân Ngọc, Đặng Nghiêm 
Vạn (2002), Vấn đề dân tộc và định hướng xây 
dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB. Chính trị Quốc 
gia, Hà Nội.