Tài liệu Sự thay đổi trong chiến lược sinh kế và thu nhập của các nông hộ vùng cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế, giai đoạn 2003-2008: 75
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 62, 2010 
SỰ THAY ĐỔI TRONG CHIẾN LƯỢC SINH KẾ VÀ THU NHẬP 
CỦA CÁC NÔNG HỘ VÙNG CÁT VEN BIỂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 
GIAI ĐOẠN 2003-2008 
Nguyễn Đăng Hào 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế 
TÓM TẮT 
Dựa trên tiếp cận sinh kế và sử dụng đồng thời cả phương pháp đánh giá sinh kế có sự 
tham gia và phỏng vấn hộ, nghiên cứu này tập trung đánh giá tiến trình chiến lược sinh kế và 
thu nhập của các hộ ở vùng Cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
rằng chiến lược sinh kế hết sức đa dạng và có sự khác biệt lớn giũa các điểm nghiên cứu và 
giữa các nhóm hộ. Mặc dầu chiến lược sinh kế dựa vào nông nghiệp vẫn được áp dụng phổ biến 
nhưng có sự dịch chuyển đáng kể theo hướng đa dạng hóa. Nhờ chuyên môn hóa cao hơn vào 
phát triển chăn nuôi - các ngành nghề, dịch vụ - nuôi trồng thủy sản thu nhập của nhóm hộ khá 
đã tăng nhanh trong thời kỳ 2003-2008. Ngược lại, do phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, làm công 
và đi làm ăn xa ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
10 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 769 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thay đổi trong chiến lược sinh kế và thu nhập của các nông hộ vùng cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế, giai đoạn 2003-2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
75
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 62, 2010 
SỰ THAY ĐỔI TRONG CHIẾN LƯỢC SINH KẾ VÀ THU NHẬP 
CỦA CÁC NÔNG HỘ VÙNG CÁT VEN BIỂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 
GIAI ĐOẠN 2003-2008 
Nguyễn Đăng Hào 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế 
TÓM TẮT 
Dựa trên tiếp cận sinh kế và sử dụng đồng thời cả phương pháp đánh giá sinh kế có sự 
tham gia và phỏng vấn hộ, nghiên cứu này tập trung đánh giá tiến trình chiến lược sinh kế và 
thu nhập của các hộ ở vùng Cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
rằng chiến lược sinh kế hết sức đa dạng và có sự khác biệt lớn giũa các điểm nghiên cứu và 
giữa các nhóm hộ. Mặc dầu chiến lược sinh kế dựa vào nông nghiệp vẫn được áp dụng phổ biến 
nhưng có sự dịch chuyển đáng kể theo hướng đa dạng hóa. Nhờ chuyên môn hóa cao hơn vào 
phát triển chăn nuôi - các ngành nghề, dịch vụ - nuôi trồng thủy sản thu nhập của nhóm hộ khá 
đã tăng nhanh trong thời kỳ 2003-2008. Ngược lại, do phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, làm công 
và đi làm ăn xa thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng chậm trong cùng thời kỳ đó. Nghiên cứu này 
cho thấy rằng trong lĩnh vực phát triển nông thôn các chính sách hỗ trợ nông nghiệp trong thời 
gian gần đây có tác động lớn trong việc tăng thu nhập của nông hộ, tuy vậy các chính sách 
nông nghiệp chung đó không đáp ứng nhu cầu phát triển của tất cả địa phương, các nhóm hộ 
bởi vì có sự khác biệt lớn về tài sản sinh kế, đặc biệt là nguồn nhân lực, đất đai, tài chính và 
vốn xã hội. 
1. Đặt vấn đề 
Nằm ở phía Đông của tỉnh Thừa Thiên Huế, vùng cát ven biển đóng vai trò quan 
trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Diện tích của khu vực này chiếm 
18,2 % tổng diện tích tự nhiên của tỉnh, nhưng dân số sống trong vùng lại chiếm đến 
45% tổng dân số toàn tỉnh và phần lớn dân cư phụ thuộc vào nông nghiệp, đánh bắt và 
nuôi trồng thủy sản cho sinh kế của mình. Nhờ các chính sách đổi mới của Chính phủ 
Việt Nam, trong hơn mười năm qua nền kinh tế địa phương đã đạt được nhiều kết quả 
quan trọng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 10 %1. Cũng trong thời gian đó 
tăng trưởng nông nghiệp luôn duy trì ở mức 3 - 4 % /năm. 
1 Tốc độ tăng GDP thời kỳ 2001-2005 là 12,94 % ở Phú Lộc, 11,7 % ở Phú Vang. 
76
Mặc dù có những chuyển đổi năng động trong chiến lược sinh kế của các nông 
hộ, khu vực này vẫn bộc lộ nhiều thách thức, bởi vì đây là vùng thường bị ảnh hưởng 
thiên tai lớn, tài nguyên tự nhiên nghèo, cơ sở hạ tầng yếu kém, đất đai bị suy thoái, ô 
nhiễm môi trường. Hậu quả là khu vực này vẫn là nơi có tỷ lệ đói nghèo cao, thu nhập 
thấp, thiếu việc làm, khai thác và sử dụng tài nguyên kém bền vững. 
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá sự thay đổi chiến lược sinh kế của 
các nông hộ ở vùng cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế và thu nhập của các nông hộ. Các 
câu hỏi chính đặt ra trong nghiên cứu này như sau: 
- Các chiến lược sinh kế chính của các nông hộ trong vùng là gì? Các thay đổi 
trong chiến lược sinh kế của các loại nông hộ trong những năm qua như thế nào? 
- Các chiến lược sinh kế có ảnh hưởng như thế nào đến thu nhập của các loại 
nông hộ? 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Tiếp cận phân tích sinh kế 
Trong nghiên cứu này, tiếp cận phân tích sinh kế được sử dụng như là phương 
pháp chính. Sinh kế bao gồm năng lực, tài sản (bao gồm cả nguồn lực tinh thần và nguồn 
lực xã hội) và các hoạt động cần thiết để mưu sinh. Sinh kế được xem là bền vững khi nó 
có thể đối phó, vượt qua và phục hồi từ các sức ép, các cú sốc, có khả năng duy trì hoặc là 
tăng cường năng lực các tài sản sinh kế ở cả thời gian hiện tại và trong tương lai mà 
không làm hủy hoại các tài nguyên thiên nhiên (Carney, 1998; Ashley and Carney,1999; 
Chambers and Conway, 1992). Dựa vào định nghĩa này, khung sinh kế bao gồm ba hợp 
phần chính, đó là tài sản sinh kế, chiến lược (hoạt động), và kết quả. Ba hợp phần có 
tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau dưới tác động của môi trường sinh kế (Scoones, 1998; 
Ellis, 2000) (Sơ đồ 1). Chiến lược sinh kế bao gồm các hoạt động như là phương tiện để 
mưu sinh của các nông hộ (Ellis, 2000). Nói cách khác, các chiến lược sinh kế phản ánh 
các phương án kết hợp các hoạt động, các sự lựa chọn có thể để tối ưu hóa việc sử dụng 
các tài nguyên hiện có nhằm đạt được các mục tiêu sinh kế của nông hộ (bao gồm các 
hoạt động sản xuất, chiến lược đầu tư, sự lựa chọn cho tái sản xuất ...). 
Sơ đồ 1. Khung phân tích chiến lược sinh kế 
Nguồn: Mô phỏng từ Scoones, 1998 và DFID 2000. 
Chính sách, thiết chế và mức độ tổn thương 
and vulnerability 
Tài sản sinh kế 
Chiến lược sinh kế Kết quả sinh kế 
Phân tích thay đổi tài 
sản sinh kế 
Phân tích thay đổi chiến 
lược sinh kế 
Phân tích thay đổi kết 
quả sinh kế 
77
Dựa theo phương pháp đánh giá có sự tham gia, trong nghiên cứu này các chiến 
lược sinh kế được phân loại theo thu nhập và cơ cấu thu nhập của nông hộ2. Các chiến 
lược sinh kế được xác định là: i) Chiến lược sinh kế dựa vào nông nghiệp, bao gồm chủ 
yếu dựa vào trồng trọt và chủ yếu dựa vào chăn nuôi; ii) Chiến lược kết hợp nông 
nghiệp với ngành nghề, dịch vụ; iii) Chiến lược kết hợp nông nghiệp - làm thuê - đi làm 
ăn xa; iv) Chiến lược dựa vào nuôi trồng thủy sản; v) Chiến lược hỗn hợp. 
2.2. Nguồn số liệu 
Nghiên cứu này sử dụng cả số liệu từ các hoạt động đánh giá có sự tham gia 
thông qua các cuộc thảo luận nhóm, hội thảo, phỏng vấn bán cấu trúc và số liệu phỏng 
vấn hộ do dự án PIC3 thực hiện trong năm 2004 và năm 2008-2009. Bằng phương pháp 
chọn mẫu phân tầng, 146 hộ gia đình đã được lựa chọn từ 7 thôn4 ở năm 2004, sau đó 
138 hộ đã được phỏng vấn lặp lại vào năm 2008-2009. Các hộ được phỏng vấn được 
phân chia thành ba nhóm gồm: hộ khá, hộ trung bình và hộ nghèo. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Chiến lược sinh kế 
3.1.1. Chiến lược sinh kế khác biệt giữa các loại hộ 
Biểu đồ 1 chỉ rõ rằng tỷ trọng các hộ có chiến lược sinh kế chủ yếu dựa vào 
nông nghiệp đã giảm dần trong thời kỳ 2003-2008. Tuy vậy, chiến lược sinh kế này vẫn 
phổ biến và được áp dụng với phần lớn các nông hộ ở vùng cát ven biển. Trong năm 
2007-2008, khoảng 60% số hộ được phỏng vấn áp dụng chiến lược chủ yếu dựa vào 
nông nghiệp, trong đó các hộ khá có chiến lược sinh kế phụ thuộc lớn hơn vào chăn 
nuôi – đây là ngành cho phép các hộ khá có thu nhập cao hơn, bởi vì trong những năm 
gần đây thị trường chăn nuôi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, giá các sản phẩm chăn 
nuôi tăng khá khi mà mức sống của người được cải thiện nhanh. Số liệu thống kê trong 
những năm qua cho thấy rằng các sản phẩm chăn nuôi có tốc độ tăng giá hàng năm 
nhanh nhất, chẳng hạn giá thịt bò, thịt lợn có mức tăng giá hàng năm khoảng 25%. Kết 
quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nhóm hộ nghèo thường thiếu các nguồn lực sản xuất 
như vốn, đất đai và kiến thức. Bởi vậy, các hộ nghèo thường sử dụng các nguồn lực hạn 
chế hiện có cho lựa chọn ưu tiên hàng đầu là sản xuất lương thực. 
2 Thu nhập từ các hoạt động sinh kế chính được xác định chiếm trên 50% tổng thu nhập của hộ. 
3 Dự án nghiên cứu phối hợp giữa Trường Đại học Nông Lâm Huế và Viện Nông hóa – Thổ nhưỡng, 
Université Catholique de Louvain, Faculté Universitaire des Sciences Agronomiques de Gembloux. 
4 7 thôn của vùng cát ven biển được lựa chọn gồm: (1) Thôn Đức Phú - xã Phong Hòa, huyện Phong 
Điền; (2) thôn Đông Cao - xã Quảng Thái (3) Thôn Thủy Lập xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền; (4) 
Thôn Xuân Thiên Thượng - xã Vinh Xuân, (5) thôn Vinh Lưu - xã Phú Lương, (6) thôn Nghĩa Lập - xã 
Vinh Phú, huyện Phú Vang; (7) thôn Phụng Chánh - xã Vinh Hưng, huyện Phú Lộc. Về mặt thống kê, các 
thôn này được phân bổ một cách hợp lý và có tính chất đại diện cho tình hình phát triển kinh tế – xã hội 
của vùng cát ven biển, tỉnh Thừa Thiên Huế. 
78
Bên cạnh đó, nhóm hộ khá thường kết hợp nông nghiệp với các ngành nghề phi 
nông nghiệp và kết hợp nông nghiệp với nuôi trồng thủy sản. Các hoạt động ngành nghề, 
dịch vụ đang trở thành ngày càng quan trọng với các hộ khá. Ngược lại, các chiến lược 
của nhóm hộ nghèo là nông nghiệp - làm thuê - đi làm ăn xa và chiến lược hỗn hợp. 
Biểu đồ 1. Các loại chiến lược sinh kế chính của ba nhóm nông hộ và các điểm nghiên cứu, thời 
kỳ 2003-2008 (% số hộ phỏng vấn) 
3.1.2. Chiến lược sinh kế khác biệt giữa các điểm nghiên cứu 
Biểu đồ 1 cũng cho thấy rằng, các chiến lược sinh kế rất khác biệt tại các điểm 
nghiên cứu thuộc vùng cát ven biển. Chiến lược sinh kế chủ yếu dựa vào nông nghiệp 
được áp dụng chủ yếu bởi các nông hộ ở các xã Phong Hòa, Quảng Thái, Quảng Lợi và 
Phú Lương. Ở xã Phú Lương, nông hộ chủ yếu dựa vào trồng trọt (chủ yếu là sản xuất 
lúa), khi mà có đến 90% các hộ phỏng vấn có thu nhập từ ngành trồng trọt chiếm trên 
79
50% tổng thu nhập của hộ. Lí do chính giải thích cho phát hiện này là do sự khác biệt về 
qui mô đất đai giữa các điểm nghiên cứu. Nhìn chung, quỹ đất nông nghiệp ở các xã 
Phong Hòa, Phú Lương lớn hơn nhiều so với các xã Vinh Phú, Vinh Xuân và Vinh 
Hưng. Chiến lược sinh kế dựa vào nuôi trồng thủy sản đóng vai trò quan trọng cho các 
hộ ở Vinh Hưng và Vinh Xuân. Trong khi đó, do qui mô diện tích đất đai thấp, chiến 
lược sinh kế nông nghiệp - làm thuê - đi làm ăn xa lại trở nên quan trọng với các nông 
hộ ở Vinh Phú và Vinh Xuân. Bên cạnh đó các nông hộ trong các xã này cũng áp dụng 
chiến lược sinh kế hỗn hợp. 
3.2. Thu nhập của các nông hộ 
3.2.1. Giữa các nhóm hộ 
Biểu đồ 2. Thu nhập và cơ cấu thu nhập của các nhóm hộ, thời kỳ 2003-2008 
(triệu đồng/hộ và %) 
80
Biểu đồ 2 cho thấy, tổng thu nhập thực tế của các hộ đã tăng lên đáng kể trong 
thời kỳ 2003-2004 và 2007-2008. Bình quân tổng thu nhập của các hộ đã tăng từ 14,91 
triệu đồng năm 2003-2004 lên 25,18 triệu đồng năm 2007-2008. Tuy vậy, có sự khác 
biệt lớn về thu nhập giữa các nhóm hộ ở vùng cát ven biển. Tổng thu nhập của nhóm hộ 
khá cao hơn nhiều thu nhập của nhóm hộ trung bình và nhóm hộ nghèo. Trong thời kỳ 
2003-2008, tổng thu nhập của hộ khá tăng lên 20,33 triệu đồng. Cũng trong thời gian 
đó, tổng thu nhập hộ nghèo chỉ tăng 4,79 triệu đồng. Kết quả là khoảng cách thu nhập 
giữa hai nhóm hộ tăng lên, hệ số Gini tăng từ 0,30 năm 2003-2004 lên 0,34 năm 2007-
2008. 
Bên cạnh sự khác biệt lớn về qui mô thu nhập, còn có sự khác biệt về cơ cấu thu 
nhập của các nhóm hộ. Nông lâm ngư nghiệp vẫn còn vô cùng quan trọng đối với các 
hộ vùng cát, bởi vì thu nhập từ nông nghiệp vẫn chiếm xấp xỉ 60% tổng thu của các 
nhóm hộ. So với nhóm hộ khá, thu nhập từ trồng trọt đóng vai trò quan trọng hơn đối 
với nhóm hộ nghèo. Nó như là kết quả tất yếu khi mà nhóm hộ này lựa chọn chiến lược 
sinh kế chủ yếu dựa vào trồng trọt (sự ưu tiên lớn nhất cho sản xuất lương thực) như 
phân tích ở phần trước. Thu nhập từ chăn nuôi đang trở dần ngày càng quan trọng hơn 
đối với nhóm hộ khá. 
Cũng cần ghi nhận rằng, các hoạt động ngành nghề tạo ra nhiều thu nhập hơn 
cho nhóm hộ khá khi mà thu nhập từ ngành nghề chiếm khoảng 19% tổng thu nhập của 
nhóm hộ này. Thông tin các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn hộ cho thấy rằng trong 
các năm gần đây nhóm hộ khá đã đầu tư nhiều vào các hoạt động ngành nghề như xay 
xát, chế biến, buôn bán vật tư, hàng hóa, mua máy móc để kinh doanh các dịch vụ như 
làm đất, thu hoạch, vận chuyển. 
Ngược lại thu nhập từ đi làm thuê và tiền con cái làm ăn xa gửi về lại trở nên 
quan trọng với nhóm hộ nghèo và nhóm hộ trung bình hơn là đối với nhóm hộ khá, với 
mức đóng góp tương ứng 16% và 10%. 
3.2.2. Giữa các điểm nghiên cứu 
Có sự khác biệt đáng kể về qui mô thu nhập của các hộ tại các điểm nghiên cứu. 
Biểu đồ 3 cho thấy rằng thu nhập bình quân của các hộ ở xã Phú Lương và Phong Hòa 
là cao nhất. Phát hiện này cho thấy rằng mặc dầu các điểm nghiên cứu đều thuộc vùng 
cát ven biển, nhưng thu nhập của các hộ rất khác biệt từ điểm này qua điểm khác. Lí do 
dẫn đến sự khác biệt này trước hết là do sự khác biệt về tài sản sinh kế, đặc biệt là đất 
đai và khả năng tiếp cận mà tương ứng với nó là các chiến lược sinh kế khác nhau áp 
dụng bởi nông hộ tại các điểm nghiên cứu. 
Xem xét cơ cấu thu nhập nông hộ cho thấy có sự khác biệt lớn giữa 7 điểm nghiên 
cứu được phỏng vấn. Trong các xã chủ yếu dựa vào nông nghiệp như Phong Hòa, Phú 
Lương, Quảng Thái và Quảng Lợi, thu nhập được tạo ra chủ yếu bởi các hoạt động nông 
nghiệp. Ví dụ, nông nghiệp đem lại khoảng 80% trong tổng thu nhập của các hộ ở Phú 
81
Lương, 63% ở Phong Hòa, 60% ở Quảng Thái và 59% ở Quảng Lợi (Biểu đồ 3). 
Biểu đồ 3. Qui mô và cơ cấu thu nhập của các hộ tại các điểm nghiên cứu, năm 2007-2008 
(Triệu đồng/hộ; %). 
So sánh giữa các điểm nghiên cứu, thu nhập từ cây lúa quan trọng hơn đối với 
một số điểm. Ví dụ, tỷ trọng thu nhập từ sản xuất lúa chiếm khoảng 60% tổng thu nhập 
của các hộ ở xã Phú Lương. Lí do chính giải thích cho vấn đề này là Phú Lương có điều 
kiện tương đối thuận lợi hơn cho sản xuất lúa, chẳng hạn là diện tích sản xuất lúa lớn, 
đất đai tốt hơn, điều kiện thủy lợi thuận lợi. Thu nhập từ sản xuất lúa trong thu nhập của 
các hộ tăng lên nhờ vào cả việc tăng năng suất và giá lúa trong những năm gần đây. 
Tương tự, cây lúa cũng tương đối quan trọng với các hộ ở Quảng Thái, thu nhập từ sản 
xuất lúa chiếm khoảng 20% tổng thu nhập của các hộ ở đây. Ở xã Phong Hòa, sắn, lạc 
và khoai lang lại tạo ra thu nhập quan trọng hơn. Ở Quảng Thái, Quảng Lợi thì lạc và 
82
thuốc lá lại đóng góp quan trọng trong thu nhập của hộ. Trong khi đó, rau lại trở nên 
quan trọng với các hộ ở Vinh Phú, đặc biệt tại Vinh Xuân các hộ sản xuất nhiều loại rau 
khác nhau như dưa lê, dưa chuột, ớt, rau cảiCác loại rau này tạo ra thu nhập quan 
trọng cho các hộ ở đây. 
Biểu đồ 3 cũng chỉ ra rằng, ở một số điểm nghiên cứu với chiến lược sinh kế dựa 
vào nông nghiệp, chăn nuôi cũng là hoạt động quan trọng trong việc tạo ra thu nhập cho 
các hộ. Chăn nuôi lợn đóng góp quan trọng nhất trong thu nhập của ngành chăn nuôi đối 
với các nông hộ. Trong tất cả các điểm nghiên cứu, thu nhập từ chăn nuôi lợn luôn 
chiếm tỷ trọng cao nhất trong thu nhập ngành chăn nuôi. 
Nuôi trồng thủy sản cũng đóng góp thu nhập quan trọng trong thu nhập của các 
hộ. Thông tin từ thảo luận nhóm và phỏng vấn hộ cho thấy rằng hơn một nửa các hộ ở 
Phong Hòa có hồ nuôi cá với diện tích mỗi hồ khoảng 0,1 ha. Các hộ khá có hồ nuôi cá 
với diện tích từ 0,2 đến 0,85 ha. Thu nhập từ chăn nuôi cá chiếm từ 8 đến 10% trong thu 
nhập của các hộ. Ở xã Vinh Hưng và Vinh Xuân các hộ được phỏng vấn có chiến lược 
sinh kế chủ yếu dựa vào nuôi trồng thủy sản. Biểu đồ 3 cho thấy nuôi trồng thủy sản tạo 
ra thu nhập quan trọng nhất cho các hộ ở đây. Trong khi đó, các hộ ở Vinh Phú lại áp 
dụng chiến lược sinh kế hỗn hợp, thu nhập của họ được đưa lại từ nhiều ngành khác 
nhau. Bên cạnh khoảng 50% thu nhập từ nông nghiệp, thu nhập từ ngành nghề, đi làm 
thuê, đi làm ăn xa, cũng rất quan trọng. Như đã phân tích ở phần trước Vinh Phú là một 
xã có điều kiện tự nhiên khó khăn, đặc biệt là khó khăn về đất đai, do vậy, phần lớn các 
hộ được phỏng vấn đều cho rằng đi làm ăn xa, làm thuê là cách quan trọng để tạo thu 
nhập. 
4. Kết luận và đề xuất 
Các chiến lược sinh kế áp dụng bởi các hộ ở vùng cát ven biển đã được phân 
tích bởi sự kết hợp cả thông tin định tính từ phương pháp đánh giá có sự tham gia và 
thông tin định lượng từ các cuộc phỏng vấn hộ. Nhìn chung, sinh kế các hộ trong khu 
vực phụ thuộc lớn vào nông nghiệp. Mức độ phụ thuộc vào nông nghiệp có sự khác biệt 
lớn giữa các điểm nghiên cứu và giữa các nhóm hộ. Ở một số điểm nghiên cứu, chẳng 
hạn như Phong Hòa, Quảng Thái, Quảng Lợi và Phú Lương thu nhập các hộ phụ thuộc 
lớn hơn vào nông nghiệp, nhưng các hộ ở Vinh Hưng lại phụ thuộc lớn hơn vào thủy 
sản. Ở các điểm nghiên cứu khác như Vinh Hưng, Vinh Xuân các hộ lại áp dụng nhiều 
chiến lược sinh kế khác nhau. Một số hộ dựa chủ yếu nông nghiệp và thủy sản, trong 
khi đó một số hộ khác lại phụ thuộc vào tiền làm thuê và tiền đi làm ăn xa. Sự khác biệt 
lớn về chiến lược sinh kế của các nhóm hộ cũng được phát hiện. Chiến lược dựa vào 
nông nghiệp quan trọng cho phần lớn các hộ trong vùng, nhóm hộ khá phụ thuộc lớn 
hơn vào chăn nuôi, ngành nghề và thủy sản; ngược lại trồng trọt, làm thuê, đi làm ăn xa 
lại quan trọng hơn với các hộ nghèo. 
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có sự khác biệt lớn không chỉ về qui mô thu 
83
nhập mà còn cả cơ cấu thu nhập giữa các loại hộ. Bên cạnh nông nghiệp, thu nhập từ 
ngành nghề, thủy sản đang trở nên quan trọng với các hộ khá. Trong khi đó, thu nhập từ 
nông nghiệp, làm công, đi làm ăn xa lại trở nên quan trọng hơn với nhóm hộ nghèo và 
trung bình. Điều này chỉ ra rằng trong các chính sách phát triển nông thôn, đặc biệt là 
chính sách kích thích tăng trưởng gắn với giảm nghèo cần tiếp cận đúng đối tượng 
hưởng lợi. Ở vùng cát ven biển, trong những năm gần đây đã có nhiều chính sách hỗ trợ 
trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản, chẳng hạn như chính sách giao đất cho nuôi trồng thủy 
sản, trợ giá cho giống cây trồng, vật nuôi, giao đất thành lập trang trại qui mô lớn. Các 
chính sách này rõ ràng chỉ mang lại lợi ích cho nhóm hộ khá, bởi vì họ có năng lực cao 
hơn đối với cả các tài sản hữu hình (như vốn, đất đai, trang thiết bị, máy móc) và tài sản 
vô hình (như kiến thức, kỹ năng, và năng lực tiếp cận), vẫn thiếu các chính sách nâng 
cao năng lực, tạo việc làm, và cải thiện thu nhập cho nhóm hộ nghèo. Kết quả là nhóm 
hộ nghèo có thể bị lãng quên trong một số chính sách kinh tế. Vì vậy, sự cần thiết cần 
phải có các chính sách khuyến khích sự phát triển thị trường lao động, tập huấn, đào tạo 
về các ngành nghề mới để nhóm hộ nghèo có thể được hưởng lợi nhiều từ các chính 
sách này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ashley, C & Carney, D. Sustainable Livelihoods: Lessons from early experience DFID, 
1999. 
[2]. Carswell, G. Agricultural Intensification and Rural Sustainable Livelihoods: A “Think 
Piece”, IDS Working paper, 64, (1997). 
[3]. Chambers, R. Conway, G. Sustainable Rural Livelihoods: Practical Concepts for the 
21st Century. IDS DP296 Feb 1992. 
[4]. DFID. Sustainable Livelihoods Guidance Sheets  2000. 
[5]. Ellis, F. Household strategies and rural livelihood diversification. Journal of 
Development Studies. Vol.35, No.1, (1998), 1-38. 
[6]. Ellis, F. Rural livelihoods and diversity in developingcountries. Oxford: OUP, 2000. 
[7]. Hussein, K. and J. Nelson. Sustainable Livelihood and Livelihood Diversification, IDS 
Working Paper, 69, (1998). 
[8]. Project PIC. Report on the survey of the socio-economic situation and farming system 
in the housheolds in the coastal sandy region of Thua Thien Hue province. FUSAGX; 
UCL; NISF, HUAF, 2005. 
[9]. Scoones, I. Sustainable rural livelihoods: A framework for analysis. IDS Working 
Paper No.72. Brighton: IDS, 1998. 
[10]. Cục Thống kê Thừa Thiên Huế, Niên giám Thống kê 2005, 2006, 2007, 2008, 2009. 
84
EVOLUTION OF LIVELIHOOD STRATEGY AND INCOME OF THE 
HOUSHEOLDS IN THE COASTAL SANDY ZONE OF THUA THIEN HUE 
PROVINCE DURING PERIOD 2003-2008 
Nguyen Dang Hao 
College of Economics, Hue University 
SUMMARY 
Based on livelihood approach and using both livelihood strategy participatory 
assessment and household survey data this study mainly focus on assessment of the evolution of 
the livelihood strategy and income of households in the Coastal Sandy Zone of Thua Thien Hue 
Province. Findings indicated that livelihood strategies are very dynamic and considerably 
difference between the wealth categories of households and among the study sites. Although 
agriculture –based strategy is one of the most popular among the livelihood strategies there are 
considerable changes. Thanks to more specialization on livestock-non-farm business – 
aquaculture the better-off category has rapidly increased their income during the period 2003-
2008. By contrast, due to more dependence on food crop, wage work and migration, income of 
the poor slowly improved in the same period. These findings implicate that in the context of 
rural development, support policies introduced by the government have positively influenced the 
household income, but these general policies cannot meet the development needs from various 
locations as well as different household categories because there is a marked difference in 
livelihood assets, human source, landholding, financial and social capitals in particular. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
62_8_1545_1053_2117787.pdf