Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 31
SO SÁNH SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT CỦA TRẺ SINH RA 
TỪ CHƯƠNG TRÌNH THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM 
VỚI MANG THAI TỰ NHIÊN 
Lê Thị Minh Châu*, Võ Minh Tuấn**,Nguyễn Tâm Hồng Thúy***, Ngô Minh Xuân**** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Cộng đồng gần đây rất cần biết thông tin sức khỏe của trẻ thụ tinh ống nghiệm (TTON). Mục 
tiêu nghiên cứu nhằm so sánh cân nặng, chiều cao của trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON với trẻ mang thai tự 
nhiên từ 5- 30 tháng tuổi tại Bệnh viện Từ Dũ từ năm 2016 đến năm 2018. 
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu được thực hiện so sánh 429 trẻ TTON (điều tại Bệnh viện Từ 
Dũ) và 509 trẻ sinh tự nhiên. Đây là các trẻ đơn thai, đủ tháng bắt cặp nhau về độ tuổi. Kết quả chính là cân 
nặng, chiều cao của trẻ. 
Kết quả: Không có sự khác biệt giữa hai nhóm TTON và nhóm chứng về cân nặng (9,7±2,3 so với 9,5±1,9) 
và chiều cao (74,8±7,7 so với 75,0±6,9). Tỉ lệ dư cân-béo phì ở bé TTON cao hơn bé tự nhiên có ý nghĩa thống kê 
(11% so với 7,1%, p= 0,037). Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ dư cân-béo phì giữa 
các nhóm tuổi của hai nhóm TTON và bé tự nhiên. 
Kết luận: Nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng, chiều cao g giữa trẻ sinh 
ra bằng phương pháp TTON so với trẻ mang thai tự nhiên giai đoạn 5-30 tháng tuổi. 
Từ khóa: sự tăng trưởng, thụ tinh ống nghiệm, cân nặng trẻ, chiều cao trẻ 
ABSTRACT 
COMPARE WEIGHT AND HEIGHT OF IN VITRO FERTILIZATION (IVF) -CONCEIVED CHILDREN 
AND SPONTANEOUS CONCEIVED CHILDREN 
Le Thi Minh Chau, Vo Minh Tuan, Nguyen Tam Hong Thuy, Ngo Minh Xuan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement Vol. 23 - No 2- 2019: 31 - 36 
Objective: to compare weight and height of in vitro fertilization (IVF) -conceived children and spontaneous 
conceived children at at the stage of 5 to 30 months in Tu Du hospital from 2016 to 2018. 
Methods: This is a prospective, controlled, cohort study. A total of 429 in vitro fertilization -conceived 
children were ompared with 509 spontaneous conceived children. All children were full-term singletons. Control 
group was selected to match study group for age. Primary end-points were height and weight. 
Results: No significant differences were observed between the IVF children and controls regarding weight 
(9.7±2.3 vs 9.5±1.9) and height (74.8±7.7 vs 75.0±6.9). The percentage of overweight and obese of IVF conceived 
children were significantly higher than that of natural children (11% vs 7.1%, p= 0.037). However, no significant 
difference was found in the percentage of overweight and obese between group of age in the study 
Conclusion: the study was not found a significant difference between children conceived after IVF treatment 
and naturally conceived children in terms of weight and height from 5 to 30 months. 
Key word: growth, in vitro fertilization, weight of children, height of children 
*Bệnh viện Từ Dũ **BM Sản, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
***Bệnh viện Tâm Thần Tp. Hồ Chí Minh ****Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: PGS TS BS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: 
[email protected]. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 32
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thụ tinh trong ống nghiệm (TTON) là giải 
pháp hữu hiệu cho các cặp vợ chồng hiếm muộn 
và cho đến nay đã có hơn 4 triệu em bé ra đời 
bằng phương pháp này(10). Tuy nhiên, TTON là 
giải pháp can thiệp vào sự sống. Sau TTON có 
nhiều vấn đề cần quan tâm như: bất thường di 
truyền, sanh non, các vấn đề tiền sản, chậm phát 
triển(12). Về sự phát triển thể chất sự tăng trưởng 
của trẻ liên quan đến chiều cao, cân nặng, Miles 
và cộng sự năm 2007 ghi nhận trong một đoàn 
hệ gồm 69 trẻ TTON tuổi từ 4-10 tuổi có chiều 
cao và nồng độ IGF-I, IGF-II cao hơn có ý nghĩa 
thống kê so với 71 trẻ sinh tự nhiên sau khi hiệu 
chỉnh về tuổi và chiều cao của cha mẹ. Bài báo 
cho rằng sự khác biệt này có thể do sự thay đổi 
nhỏ trong những dạng methyl hóa DNA của các 
dấu ấn gen trong quá trình TTON(9). Theo 
Koivurova và cộng sự trong một nghiên cứu 
đoàn hệ vào năm 2003 cho thấy 299 trẻ TTON có 
cân nặng nhẹ hơn có ý nghĩa thống kê so với 588 
trẻ sinh tự nhiên ở giai đoạn cho đến 3 tuổi(6). 
Một số nghiên cứu khác không tìm thấy sự khác 
biệt về chiều cao và cân nặng giữa hai nhóm trẻ 
sanh sau điều trị hỗ trợ sinh sản (HTSS) và sinh 
tự nhiên(3,13). 
Tại Việt Nam, chương trình TTON bắt đầu 
từ năm 1997, đến nay có hơn 23 trung tâm 
TTON ra đời. Chúng ta đã thực hiện nhiều kỹ 
thuật hiện đại, mang về tỉ lệ thành công cao, 
tuy nhiên hiện vẫn chưa có nghiên cứu có 
nhóm chứng đánh giá về sự phát triển thể chất 
của trẻ TTON. 
Để trả lời cho câu hỏi: “có sự khác biệt nào 
không về sự phát triển thể chất của trẻ TTON so 
với trẻ mang thai tự nhiên?” Chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu so sánh sự phát triển cân nặng, chiều 
cao của trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON so 
với trẻ mang thai tự nhiên tại Bệnh viện Từ Dũ 
từ năm 2016 đến năm 2018. 
Mục tiêu nghiên cứu 
So sánh sự phát triển cân nặng, chiều cao của 
trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON với trẻ 
mang thai tự nhiên từ 5- 30 tháng tuổi tại Bệnh 
viện Từ Dũ từ năm 2016 đến năm 2018. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. 
Dân số mục tiêu 
Trẻ sinh ra từ phương pháp thụ tinh trong 
ống nghiệm Việt Nam. 
Dân số nghiên cứu 
Trẻ sinh ra bằng phương pháp thụ tinh 
trong ống nghiệm tại Bệnh viện Từ Dũ, TP. Hồ 
Chí Minh. 
Dân số chọn mẫu 
Trẻ sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong 
ống nghiệm 5-30 tháng tuổi được khám 2015-
2018 tại Bệnh viện Từ Dũ, không phân biệt giới 
tính, ở TP. Hồ Chí Minh. 
Tiêu chuẩn nhận mẫu 
Nằm trong độ tuổi 5-30 tháng, 
Tuổi thai lúc sinh ≥ 37 tuần, 
Đơn thai, 
Không nhẹ cân, 
Trẻ được mang thai bằng phương pháp 
TTON tại Bệnh viện Từ Dũ, sanh từ 2015 tại 
Bệnh viện Từ Dũ (nếu là nhóm TTON), 
Trẻ thụ thai tự nhiên (không dùng bất kỳ 
biện pháp hỗ trợ sinh sản nào), sanh từ 2015 
Bệnh viện Từ Dũ (nếu là nhóm tự nhiên). 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Trẻ 
Bệnh lý trong thai kỳ, 
Biến chứng trong khi sinh, 
Mắc bệnh truyền nhiễm, 
Bị chấn thương sau sinh. 
Mẹ 
Tiền căn bệnh lý nội ngoại khoa, 
Mắc bệnh do thai kỳ, 
Có rượu, thuốc lá, chất gây nghiện, 
Sức khỏe tâm thần. 
Không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 33
Cỡ mẫu 
Lấy mẫu toàn bộ cho nhóm TTON trong 
khoảng thời gian nghiên cứu khoảng 400 
trường hợp. Lấy mẫu ngẫu nhiên đơn cho 
nhóm thụ thai thường với số lượng gần tương 
ứng với nhóm TTON. 
Phương pháp tiến hành 
Chuẩn bị danh sách các trẻ TTON cần khám 
Lập danh sách tất cả các trường hợp TTON 
thành công và đã sinh em bé từ năm 2015 từ sổ 
ghi nhận và theo dõi thai tại đơn vị TTON Bệnh 
viện Từ Dũ. Chia các bé thành 5 nhóm tuổi (dưới 
8 tháng, 8-12 tháng, 12-18 tháng, 18-24 tháng, từ 
24 tháng trở lên). 
Thông báo và chọn đối tượng nghiên cứu 
Nhóm TTON 
Gọi điện theo danh sách đã lọc, tư vấn qua 
điện thoại về chương trình khám và mời đến 
khám. Nếu gia đình đồng ý sẽ được gửi thư mời 
khám. Khám vào hai buổi sáng thứ hai và thứ 
tư. 
Nhóm tự nhiên 
Tư vấn tại đơn vị phòng khám trẻ lành mạnh 
Bệnh viện Từ Dũ mời khám bắt cặp theo nhóm 
tuổi của nhóm TTON trong tuần khám. Khám 2 
buổi sáng thứ 3 và thứ 5. 
Phỏng vấn và khám thử 
Tổ chức thu thập số liệu thử 30 trẻ (mỗi 
nhóm TTON và tự nhiên là 15 trẻ). 
Triển khai khám và thu thập số liệu: gồm 2 
bước tư vấn-hỏi và khám 
Tư vấn-hỏi 
Thông tin giới thiệu nghiên cứu, hướng dẫn 
cha mẹ đọc, giải đáp các thắc mắc và ký tên vào 
phiếu đồng thuận tham gia nghiên cứu. Hỏi cha 
mẹ về các kiện kinh tế-văn hóa-xã hội, sản khoa, 
bệnh sử TTON theo bảng câu hỏi soạn sẵn. 
Khám 
Cân, đo trực tiếp cho từng trẻ một 
Tổng hợp số liệu 
Số liệu sẽ được nhập theo từng ngày khám 
để xử lý kịp thời các trường hợp thông tin bị 
thiếu, sai, đảm bảo có số liệu đủ và đúng. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bảng câu hỏi soạn sẵn về thông tin sản khoa 
và đặc điểm kinh tế-văn hóa-xã hội. 
Dữ liệu cân, đo trực tiếp mỗi trẻ. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ tháng 8/2016 đến tháng 
9/2018, theo danh sách thai TTON của khoa 
hiếm muộn Bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi đã gửi 
480 thư mời (400 thư mời chính thức và 80 thư 
mời dự bị). Kết quả có 441 bé đến theo lịch hẹn, 
12 bé không đạt tiêu chuẩn nhận. Tổng cộng 
chúng tôi khám 429 bé nhóm TTON và 509 bé 
nhóm tự nhiên. 
Bảng 1. Đặc điểm của bố mẹ và bé trong mẫu nghiên cứu (N=938) 
Đặc điểm TTON(n=429) Thường(n=509) Chung(n=938) P 
Tuổi mẹ 0,001 
≤ 25 10(2,3%) 52(10,2%) 62(6,6%) 
26-30 90(21,0%) 228(44,8%) 318(33,9%) 
31-35 193(45,0%) 153(30,1%) 346(36,9%) 
36-40 110(25,6%) 59(11,6%) 169(18,0%) 
>41 26(6,1%) 17(3,3%) 43(4,6%) 
Học vấn mẹ 0,001 
≤ Cấp 1 21(4,9%) 13(2,6%) 34(3,6%) 
Cấp 2 95(22,1%) 54(10,6%) 149(15,9%) 
Cấp 3 107(24,9%) 123(24,2%) 230(24,5%) 
Cao đẳng – Đại học 206(48,0%) 319(62,7%) 525(56,0%) 
Kinh tế gia đình 0,258 
Khó khăn 63(1,7%) 59(11,6%) 122(13,0%) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 34
Đặc điểm TTON(n=429) Thường(n=509) Chung(n=938) P 
Đủ sống 232(54,1%) 272(53,4%) 504(53,7%) 
Dư dã 134(31,2%) 178(35,0%) 312(33,3%) 
Tuổi cha 
≤ 25 8(1,9%) 45(8,8%) 53(5,7%) 0,001 
26-30 89(20,7%) 216(42,4%) 305(32,5%) 
31-35 191(44,5%) 165(32,4%) 356(38,0%) 
36-40 112(26,1%) 60(11,8%) 172(18,3%) 
≥ 41 29(6,8%) 23(4,5%) 52(5,5%) 
Học vấn cha 0,002 
 ≤ Cấp 1 14 (3,3%) 11 (2,2%) 25 (2,7%) 
Cấp 2 75 (17,5%) 52 (10,2%) 127 (13,5%) 
Cấp 3 109 (25,4%) 116 (22,8%) 225 (24%) 
Cao đẳng – Đại học 231 (53,9%) 330 (64,8%) 561 (59,9%) 
Tuổi bé (tháng) 0,139 
<8 173(40,3%) 192(37,7%) 365(38,9%) 
8-12 71(16,6%) 94(18,5%) 165(17,6%) 
13-18 113(26,3%) 151(29,7%) 264(28,1%) 
19-24 26(6,1%) 38(7,5%) 64(6,8%) 
>24 46(10,7%) 34(6,7%) 80(8,5%) 
Thứ tự bé 
1 356(83,0%) 356(69,9%) 712(75,9%) 0,001 
2 68(15,9%) 130(25,5%) 198(21,1%) 
3 4(0,9%) 21(4,1%) 25(2,7%) 
4 1(0,2%) 2(0,4%) 3(0,3%) 
Tuổi mẹ và tuổi cha ở nhóm TTON đều lớn 
tuổi hơn so với nhóm thai tự nhiên có ý nghĩa 
thống kê, đặc biệt là ở mức trên 35 tuổi. Ngoài 
ra, trong nhóm TTON, tỉ lệ đây là lần mang 
thai đầu tiên khá cao (83%) so với nhóm sinh 
thường (69,9%) và sự khác biệt về thứ tự bé 
mang thai lần này có ý nghĩa thống kê. Các bà 
mẹ mang thai do TTON có học vấn thấp hơn 
có ý nghĩa thông kê so với nhóm bà mẹ thụ 
thai thường, kết quả này tương tự cho bố. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống về 
nhóm tuổi giữa hai nhóm TTON và thường 
(Bảng 2). 
Bảng 2. So sánh trung bình của các chỉ số tăng 
trưởng của bé TTON và bé tự nhiên 
Chỉ số phát triển TTON 
(n=429) 
Thường 
(n=509) 
Khác 
biệt 
P* 
Cân nặng (kg) 9,7±2,3 9,5±1,9 0,19 0,177 
Chiều cao (cm) 74,8±7,7 75,0±6,9 -0,26 0,592 
(*) Independent samples TTest phân phối chuẩn 
Chúng tôi tìm thấy không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê về cân nặng trung bình, chiều 
cao trung bình giữa hai nhóm trẻ TTON và trẻ tự 
nhiên. Kết quả này đồng thuận với nhiều nghiên 
cứu thiết kế tốt trên thế giới khảo sát về sự tăng 
trưởng của các bé TTON(1,2,5,7,14) (Bảng 3). 
Bảng 2. So sánh tỉ lệ bé suy dinh dưỡng vừa-nặng và 
dư cân-béophì giữa bé TTON và bé tự nhiên theo 
phân loại cân nặng theo chiều cao (weight-for-length) 
của WHO 
Phân loại theo hệ thống 
weight-for-length 
TTON 
(n=429) 
Thường 
(n=509) 
P* 
Suy dinh dưỡng 
vừa-nặng 
Có 14 (3,3%) 22 (4,3%) 0,4 
 Không 415 (96,7%) 487(95,7%) 
Dư cân-béo phì Có 47(11%) 36 (7,1%) 0,037 
 Không 382(89%) 473(92,93%) 
(*) Kiểm định ᵡ2 
Bảng 3. So sánh tỉ lệ dư cân-béophì theo nhóm tháng 
tuổi giữa bé TTON và bé tự nhiên 
Dư cân-béo 
phì 
 TTON 
(n=429) 
Thường 
(n=509) 
P* 
8 tháng Có 12 (6,9%) 5 (2,6%) 0,05 
 Không 161 (93,1%) 187(97,4%) 
8-12 tháng Có 7(9,9%) 6 (6,4%) 0,412 
 Không 64(90,1%) 88(93,6%) 
12-18 tháng Có 11 (9,7%) 14 (9,3%) 0,899 
 Không 102 (90,3%) 137 (90,7) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 35
Dư cân-béo 
phì 
 TTON 
(n=429) 
Thường 
(n=509) 
P* 
18-24 tháng Có 3 (11,5%) 6(15,8%) 0,728 
 Không 23 (88,5%) 32 (84,2%) 
>24 tháng Có 14 (30,4%) 5 (14,7%) 0,102 
 Không 32(69,6%) 29(85,3%) 
(*) Kiểm định ᵡ2 hay Fisher’s exact 
Khi so sánh tỉ lệ dư cân-béo phì theo nhóm 
tháng tuổi giữa hai nhóm, nhận thấy: chỉ có 
nhóm <8 tháng có thể có nguy cơ béo phì ở 
nhóm bé TTON cao hơn bé tự nhiên, còn lại ở tất 
cả nhóm tuổi khác không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa bé TTON và bé tự nhiên 
(p>0,05) (Bảng 4). 
BÀN LUẬN 
Với phân loại dinh dưỡng theo z-scores, 
phân tích cân nặng theo chiều cao bé (weight-
for-length) theo tiêu chuẩn của WHO, chúng tôi 
so sánh ở tỉ lệ bất thường về dinh dưỡng. Kết 
quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về mức độ suy dinh dưỡng vừa-nặng 
giữa hai nhóm trẻ. Tuy nhiên tỉ lệ dư cân-béo phì 
ở bé TTON cao hơn bé tự nhiên có ý nghĩa thống 
kê (p< 0,05). Nghiên cứu chúng tôi khác với kết 
quả một số nghiên cứu. Ludwig năm 2009 
(nghiên cứu mô tả bên trên) đã tìm thấy trẻ ICSI 
có chỉ số BMI thấp hơn trẻ tự nhiên có ý nghĩa 
thống, tuy nhiên sự khác biệt này khá nhỏ và 
không có liên quan đến phương diện lâm 
sàng(7). Nghiên cứu tiến cứu của Belva khảo sát 
tình trạng sức khỏe 150 trẻ 8 tuổi đơn thai ICSI 
(sanh từ tuần 32 trở lên) so với 147 trẻ tự nhiên, 
ông không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về chỉ số BMI giữa hai nhóm(1). Gần 
đây hơn năm 2017, Meddeb và cộng sự đã công 
bố kết quả một nghiên cứu dọc theo dõi sự tăng 
trưởng của 118 trẻ TTON (IVF và ICSI) sinh đơn 
thai từ lúc mới sinh đến 5 tuổi tại Pháp so với 
320 trẻ tự nhiên, trong đó BMI là kết quả đo đạc 
chính. Kết quả tìm thấy không có sự khác biệt về 
trung bình BMI giữa các nhóm bất chấp thời 
điểm, kể cả khi kiểm soát các yếu tố gây nhiễu 
liên quan đến cha mẹ, thai kỳ, đặc điểm của trẻ 
và lối sống(8). Như vậy, đa số nghiên cứu có ghi 
nhận chỉ số tăng trưởng đều không có sự khác 
biệt có ý nghĩa hoặc khác biệt không liên quan 
đến phân loại lâm sàng trong khi bé TTON của 
chúng tôi lại có tỉ lệ béo phì cao hơn. Nghiên cứu 
của Foix-L’Hélias có kết quả tương tự với chúng 
tôi khi theo dõi sự phát triển về tăng trưởng của 
các bé trưởng thành trứng non trong ống 
nghiệm (IVM) từ lúc mới sinh đến 2 tuổi, BMI ở 
nhóm TTON cao hơn nhóm chứng (TTON 
không IVM) có ý nghĩa thống kê(4). Tuy nhiên, 
nghiên cứu này chỉ có 38 trẻ mỗi nhóm, chỉ 
chuyên biệt so sánh cho trẻ TTON bằng kỹ thuật 
IVM, nhóm chứng là nhóm TTON không IVM 
và sự khác biệt BMI này là ổn định từ lúc 1 tuổi 
đến 2 tuổi. Khác với Foix-L’Hélias, nghiên cứu 
của chúng tôi là sự đa dạng về kỹ thuật, chỉ có 3 
trường hợp thực hiện IVM (chiếm 0,7%) mặc dù 
có tỉ lệ bé béo phì nhiều hơn nhưng khi phân 
nhóm theo tháng tuổi, chỉ có nhóm <8 tháng có 
thể có nguy cơ béo phì ở nhóm bé TTON cao 
hơn bé tự nhiên, còn lại ở tất cả nhóm tuổi khác 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
bé TTON và bé tự nhiên (p>0,05), vì vậy khả 
năng bé béo phì là do sự thay đổi kiểu hình 
thông qua sự methyl hóa gen do thực hiện 
TTON còn chưa rõ ràng, cần có sự theo dõi thêm 
về sau. Một hạn chế trong nghiên cứu của chúng 
tôi là chiều cao, cân nặng, BMI của cha mẹ chưa 
được kiểm soát như là các yếu tố ảnh hưởng đến 
kết quả tăng trưởng của con. Hơn nữa 83% bé 
TTON là con thứ nhất, cha mẹ ở nhóm này lớn 
tuổi hơn cha mẹ nhóm bé tự nhiên có ý nghĩa 
thống kế (p<0,05) nên trong gia đình có thể sẽ có 
“môi trường con quý”(11), cha mẹ có thể sẽ có sự 
quan tâm, chăm sóc trẻ ở mức độ cao. Mặt khác 
trình độ học vấn của cha, mẹ bé TTON thấp hơn 
ở nhóm thường có ý nghĩa thống kê. Điều này có 
thể ảnh hưởng đến cách chăm sóc, hướng dẫn 
chế độ ăn uống cho con có thể ảnh hưởng đến 
chế độ dinh dưỡng của bé. Vì vậy, sự khác biệt 
về phân độ dinh dưỡng của bé TTON, chúng tôi 
suy nghĩ nghiêng về phương diện chăm sóc 
trong chế độ dinh tưỡng của bé hơn là tình trạng 
bệnh lý. Tuy nhiên, sự khác biệt được tìm thấy 
về phân loại dinh dưỡng trong nghiên cứu của 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 36
chúng tôi nên được tiếp tục theo dõi, khảo sát 
chi tiết ở những nghiên cứu tiếp theo ở độ tuổi 
trẻ lớn hơn. 
KẾT LUẬN 
Khảo sát 938 trường hợp, tất cả trẻ được cân, 
đo trực tiếp. Không có trường hợp nào từ chối 
tham gia nghiên cứu sau khi được tư vấn mời 
tham gia nghiên cứu. Kết quả chúng tôi tìm thấy: 
Không có sự khác biệt về chiều cao, cân nặng 
giữa trẻ sinh ra bằng phương pháp TTTON so 
với trẻ mang thai tự nhiên giai đoạn 5-30 tháng 
tuổi. Phổ biến rộng rãi kết quả nghiên cứu đến 
các trung tâm TTON trên cả nước. Đây là kết 
quả hữu ích có thể sử dụng để thông tin, tư vấn 
cho bệnh nhân trong điều trị hỗ trợ sinh sản. 
Tiếp tục khảo sát sức khỏe thể chất bé ở các khía 
cạnh khác ngoài cân nặng, chiều cao như các 
bệnh lý tổng quát (tim mạch, thần kinh) hay cân 
nặng, chiều cao độ tuổi lớn hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Belva F, Henriet S, Liebaers I et al (2007). "Medical outcome of 8-
year-old singleton ICSI children (born ≥32 weeks’ gestation) and 
a spontaneously conceived comparison group". Human 
Reproduction, 22 (2), 506-515. 
2. Bonduelle M, Wennerholm UB, Loft A et al (2005). "A multi-
centre cohort study of the physical health of 5-year-old children 
conceived after intracytoplasmic sperm injection, in vitro 
fertilization and natural conception". Human Reproduction, 20 (2), 
413-419. 
3. Brandes JM, Itzkovits J, Scher A et al (1992). "Growth and 
Development of Children Conceived by In Vitro Fertilization". 
Pediatrics, 90 (3), 424-429. 
4. Foix-L'Hélias L, Grynberg M, Ducot B et al (2014). "Growth 
development of French children born after in vitro maturation". 
PloS one, 9(2), e89713-e89713. 
5. Knoester M, Helmerhorst FM, Vandenbroucke Jan P et al (2008). 
"Perinatal outcome, health, growth, and medical care utilization 
of 5- to 8-year-old intracytoplasmic sperm injection singletons". 
Fertility and sterility, 89(5), 1133-1146. 
6. Koivurova S, Hartikainen AL, Sovio U et al (2003). "Growth, 
psychomotor development and morbidity up to 3 years of age 
in children born after IVF". Human Reproduction, 18 (11), 2328-
2336. 
7. Ludwig AK, Katalinic A, Thyen U et al (2009). "Physical health 
at 5.5 years of age of term-born singletons after intracytoplasmic 
sperm injection: results of a prospective, controlled, single-
blinded study". Fertility and Sterility, 9(1), 115-124. 
8. Meddeb L, Pauly V, Boyer P et al (2017). "Longitudinal growth 
of French singleton children born after in vitro fertilization and 
intracytoplasmic sperm injection. Body mass index up to 5 years 
of age". Revue d'Épidémiologie et de Santé Publique, 65 (3), 197-208. 
9. Miles HL, Hofman PL, Peek J et al (2007). "In Vitro Fertilization 
Improves Childhood Growth and Metabolism". The Journal of 
Clinical Endocrinology & Metabolism, 92(9), 3441-3445. 
10. Nobel Prize (2010). The Nobel Prize in Physiology or Medicine 
2010 to Robert G. Edwards for the development of in vitro 
fertilization. The Nobelprize. 
https://www.nobelprize.org/nobel_prizes/medicine/laureates/20
10/press.html, 25/3/2017. 
11. Punamäki RL, Tiitinen A, Lindblom J et al (2016). "Mental health 
and developmental outcomes for children born after ART: a 
comparative prospective study on child gender and treatment 
type". Human Reproduction, 31 (1), 100-107. 
12. Squires J, Kaplan P (2007). "Developmental Outcomes of 
Children Born After Assisted Reproductive Technologies". 
Infants & Young Children, 20 (1), 2-10. 
13. Wennerholm U, Albertsson-Wikland K, Bergh C et al (1998). 
"Postnatal growth and health in children born after 
cryopreservation as embryos". The Lancet, 351 (9109), 1085-1090. 
14. Woldringh GH, Hendriks JCM, van Klingeren J et al (2011). 
"Weight of in vitro fertilization and intracytoplasmic sperm 
injection singletons in early childhood". Fertility and sterility, 95 
(8), 2775-2777. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019