Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Nghiên cứu Y học
 135
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG 
ĐƯỢC AN THẦN BẰNG PROPOFOL VỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM SOÁT 
NỒNG ĐỘ ĐÍCH VÀ TRUYỀN LIÊN TỤC 
Phạm Văn Hiếu* 
Đặt vấn đề: Hiệp hội chấn thương sọ não khuyến cáo theo dõi áp lực nội sọ ở bệnh nhân chấn thương 
sọ não nặng. Propofol cải thiện chất lượng an thần và có thời gian hồi tỉnh ngắn. Nghiên cứu với mục đích 
so sánh kết quả điều trị bệnh nhân chấn thương sọ não nặng được an thần bằng propofol với phương pháp 
kiểm soát nồng độ đích và truyền liên tục. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nghiên, đối chứng. Gồm 72 bệnh 
nhân chấn thương sọ não nặng có GCS 3 – 8 điểm, tuổi 16 – 65 được theo dõi áp lực nội sọ, chia ngẫu nhiên 
thành hai nhóm. Mỗi nhóm 36 bệnh nhân. Nhóm kiểm soát nồng độ đích (TCI) được truyền với nồng độ 
đích tại não 0,5 μg/ml, tăng 0,2 μg/ml mỗi 2 phút để SAS 1 – 3 và Chamorro 3 – 4 điểm. Nhóm truyền liên 
tục (CI) tiêm bolus 0,5 mg/kg sau đó tiêm lặp lại ½ liều ban đầu mỗi hai phút để SAS 1 – 3 và Chamorro 3 
– 4 điểm, duy trì với liều 1 – 4 mg/kg/giờ. Thời gian an thần ≤ 72 giờ. Tất cả bệnh nhân được nhận fentanyl 
1 μg/kg, duy trì 0,5 – 1 μg/kg/giờ. Đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân chấn thương sọ não nặng tại hồi 
sức. 
Kết quả: Tỉ lệ tử vong tại hồi sức cao hơn không có ý nghĩa ở nhóm CI 33,3% so với TCI 22,2%. Tỉ lệ 
tử vong tại hồi sức của hai nhóm 27,7%. 
Kết luận: Bệnh nhân chấn thương sọ não nặng có theo dõi áp lực nội sọ được an thần bằng propofol với 
hai phương pháp CI và TCI, tỉ lệ tử vong tại hồi sức của hai phương pháp tương tự. 
Từ khóa: Chấn thương sọ não nặng, Áp lực nội sọ, Kiểm soát nồng độ đích, Propofol, An thần. 
ABSTRACT 
COMPARASION OF OUTCOMES OF PATIENTS WITH SEVERE TRAUMATIC BRAIN INJURY 
SEDATED WITH TARGET CONTROLLED INFUSION AND CONVENTIONAL CONTINUOUS 
INFUSION OF PROPOFOL 
Pham Van Hieu *Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 3 - 2016: 135 - 139 
Background: The Brain Trauma Foundation (BTF) has established guidelines for intracranial pressure 
(ICP) monitoring in severe traumatic brain injury (TBI). Propofol has been associated with improved 
quality of sedation and faster recovery of consciousness on discontinuation of sedation. This study was 
aimed to compare outcomes of patients in severe traumatic brain injury sedated with target controlled 
infusion and conventional continuous infusion of propofol. 
Methods: This was a randomized, controlled trial (RCT), seventy-two severe TBI patients with 
Glasgow coma score (GCS) 3 – 8 and aged 16 – 65 were treated with intracranial pressure monitoring and 
sedated with propofol, randomized into two groups. The TCI (target controlled infusion) group (n = 36) 
received propofol infusion using target controlled infusion. The initial target concentration of the effective 
site of propofol was 0.5 μg/ml. We adjusted to increase the target concentration 0.2 μg/ml every two 
minutes to achieve SAS (Sedation – Agitation Scale) 1 – 3 and Chamorro 3 – 4. The CI (conventional 
continuous infusion group) group (n = 36) received initial bolus 0.5 mg/kg, repeated ½ the first dose every 
* Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bến Tre 
Tác giả liên lạc: BS CK II Phạm Văn Hiếu, ĐT: 0913606639 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016
 136
two minutes to achieve SAS (Sedation – Agitation Scale) 1 – 3 and Chamorro 3 – 4. Then infusion rate was 
1 – 4 mg/kg/hr. The duration of sedation was ≤ 72 hours. All patients in both groups were received fentanyl 
initial bolus 1 μg/kg, Then infusion rate was 0.5 – 1 μg/kg/hr. Overall ICU mortality were recorded. 
Results: The rate of ICU mortality was not significantly higher in the CI group (33.3% vs 22.2%, p > 
0.05). Overall ICU mortality of both groups is 27.7%. 
Conclusions: In patients with severe TBI treated with intracranial pressure monitoring, the rate of 
ICU mortality in TCI group is similar to CI group. 
Key words: Severe traumatic brain injury (TBI), intracranial pressure (ICP), TCI, propofol, sedation. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng, 
những can thiệp như đặt nội khí quản, thở 
máy, phẫu thuật, các thủ thuật khác và tổn 
thương do chấn thương là những nguyên 
nhân gây đau. Thuốc giảm đau họ morphin 
như morphin, fentanyl, sufentanil và 
remifentanil là những thuốc đầu tiên được sử 
dụng nhằm giảm đau, an thần nhẹ và ức chế 
phản xạ đường thở. Sử dụng thuốc an thần 
hợp lý làm tăng tác dụng giảm, chống lo âu, 
hạn chế tăng áp lực nội sọ do kích thích, ho 
hoặc đau, làm dễ chăm sóc điều dưỡng và thở 
máy; giảm tiêu thụ oxy, giảm chuyển hóa não 
và giảm CO2; cải thiện sự thoải mái của bệnh 
nhân và ngăn chặn những cử động có hại của 
bệnh nhân. Một thuốc an thần lý tưởng cho 
bệnh nhân chấn thương sọ não nặng là thuốc 
có thời gian khởi phát tác dụng nhanh và hồi 
tỉnh sớm, dễ chuẩn độ để đạt được hiệu quả. 
Thuốc có tác dụng chống động kinh, làm giảm 
áp lực nội sọ và chuyển hóa cơ bản của não và 
cho phép khám thần kinh và ít ảnh hưởng đến 
tim mạch. Hiện tại, chưa có thuốc an thần nào 
có đủ các tính chất trên. 
Propofol là thuốc ngủ được chọn sử dụng 
trong tổn thương thần kinh cấp tính vì dễ 
chuẩn độ để đạt được hiệu quả và hồi tỉnh 
sớm sau khi ngừng thuốc. Những đặc tính này 
cho phép tiên đoán thời gian an thần cho phép 
thời kỳ đánh giá thần kinh. Tuy nhiên 
propofol có thể gây hạ huyết áp và hội chứng 
truyền propofol. 
Những năm gần đây, với sự phát triển của 
khoa học công nghệ đã cho ra đời máy bơm tiêm 
có kiểm soát nồng độ đích (Target Controlled 
Infusion: TCI). Phương pháp này cho phép duy 
trì nồng độ thuốc ổn định trong huyết tương 
hoặc ở vị trí tác dụng. Do đó, giảm được các giai 
đoạn quá liều hoặc thiếu liều thuốc, giảm tải 
công việc cho người thầy thuốc trong việc thay 
đổi lưu lượng truyền và tăng mức độ an toàn. 
Do vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với 
mục tiêu sau: So sánh kết quả điều trị bệnh nhân 
chấn thương sọ não nặng được an thần bằng 
propofol với phương pháp kiểm soát nồng độ 
đích và truyền liên tục. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử nghiệm lâm sàng có nhóm đối chứng. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 
Bệnh nhân chấn thương sọ não nặng (GCS 
3 – 8 điểm), đã được phẫu thuật hoặc chưa 
phẫu thuật, tuổi từ 15 đến 65. 
Điều trị tại khoa Gây mê - Hồi sức Bệnh viện 
Nguyễn Đình Chiểu tỉnh Bến Tre và khoa Hồi 
sức ngoại Thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy trong 
tháng 10 năm 2011 đến tháng 03 năm 2014. 
Tiêu chuẩn không chọn bệnh 
Bệnh nhân đang được sử dụng các thuốc 
như midazolam, thiopental, các thuốc dãn cơ 
và morphine. 
Chống chỉ định với propofol. 
Có tiền sử bệnh thần kinh như tâm thần, 
động kinh, nghiện thuốc ngủ, thuốc phiện, 
nghiện rượu. 
Bị điếc hoặc chấn thương cơ quan thính 
giác và chết não. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Nghiên cứu Y học
 137
Thang điểm đánh giá và định nghĩa biến 
số nghiên cứu chính 
Thang điểm SAS (Sedation – Agitation 
Scale) 
Mức độ Hành vi 
7 Cực kỳ kích động. Tự kéo hoặc rút ống NKQ, 
catheter. 
6 Rất kích động. Kích thích, cắn ống nội khí 
quản. 
5 Kích động. Kích thích, cố gắng ngồi dậy, ưỡn 
người, kích thích từng lúc. 
4 Bình tĩnh và hợp tác. Bình tĩnh, thức tỉnh dễ 
dàng, làm theo lệnh 
3 An thần. Đánh thức khó khăn, mở mắt hay 
đáp ứng khi lay gọi 
2 Rất an thần. Mở mắt hay đáp ứng khi kích 
thích đau, có thể có những cử động tự phát 
1 Không thể thức tỉnh. Đáp ứng rất yếu hoặc 
không đáp ứng với những kích thích mạnh. 
Thang điểm Chamorro 
A. Bệnh nhân thở theo máy thở Điểm 
Hoàn toàn thở theo máy liên tục 
Thỉnh thoảng chống máy thở 
Thường xuyên chống máy thở 
2 
1 
0 
B. Bệnh nhân tự thở Điểm 
Không hoặc nhịp tự thở phối hợp với máy thở 
Thỉnh thoảng, nhịp tự thở chống lại máy thở 
Thường xuyên, nhịp tự thở chống lại máy thở 
2 
1 
0 
Bảng điểm được tính là tổng số điểm ở 
phần A và B 
- 4 điểm: Mức độ an thần hiệu quả 
- 3 điểm: Mức độ an thần chấp nhận đươc 
- ≤ 2 điểm: Mức độ an thần không hiệu quả 
Các bước tiến hành 
Tất cả bệnh nhân được theo dõi áp lực sọ 
não, điều trị chấn thương sọ não theo cùng 
một phác đồ và được an thần theo hai nhóm: 
Nhóm TCI (n=36): An thần với propofol có 
kiểm soát nồng độ đích. 
- Nồng độ đích ban đầu 0,5 μg/ml, tăng 0,2 
μg/ml mỗi hai phút cho đến khi đạt được độ 
an thần theo thang điểm SAS từ 1 đến 3 và 
Chamorro 3 – 4. 
Nhóm CI (n=36): An thần với propofol 
truyền liên tục. 
- Tiêm propofol liều bolus 0,5 mg/kg, lặp 
lại ½ liều ban đầu sau mỗi hai phút cho đến 
khi đạt được độ an thần theo thang điểm SAS 
từ 1 đến 3. Sau đó duy trì 1 – 4 mg/kg/giờ để 
duy trì độ an thần SAS từ 1 đến 3 và 
Chamorro 3 – 4. 
- Bệnh nhân hai nhóm được giảm đau 
fentanyl, liều bolus 1 μg/kg, duy trì 0,5 – 1 
μg/kg/giờ để NCS-R (Nociception Coma Scale-
Revised) ≤ 4 điểm. 
- Thời gian an thần tối đa bằng propofol 72 
giờ, sau đó chuyển sang midazolam nếu có chỉ 
định. 
Xử lý số liệu 
Sử dụng phần mềm thống kê Stata 12.0. 
Nếu các biến số là biến định lượng sẽ được 
kiểm định bằng t test. Nếu các biến số là biến 
định tính sẽ được kiểm định bằng test chi bình 
phương χ2 hoặc Fisher’s exact test. Các phép 
kiểm có giá trị p < 0,05 được xem là khác biệt 
có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1. Các đặc điểm chung 
Biến số 
Nhóm CI 
(n=36) 
Nhóm TCI 
(n=36) 
p 
Tuổi (năm) 32,61 ± 13,05
39,52 ± 16,46 0,052 
Cân nặng (kg) 60,02 ± 6,19 58,60 ± 5,59 0,302 
Chiều cao (cm) 163,66 ± 7,13 162,72 ± 5,06 0,519 
BMI (kg/m
2
) 22,33 ± 0,58 22,09 ± 1,49 0,366 
GCS lúc vào viện 6,05 ± 1,06 6,58 ± 1,53 0,095 
Nam giới (%) 77,8 86,1 0,358 
Nhận xét: Các đặc điểm chung của hai 
nhóm tương đồng nhau 
Bảng 2. Tỉ lệ mở khí quản và tử vong tại hồi sức 
Kết quả 
Nhóm CI 
(n=36) 
Nhóm TCI 
(n=36) 
Tổng p 
Mở khí 
quản 
8 (22,2) 10 (27,8) 18(25) 
0,58
6 
Tử vong 12 (33,3) 8 (22,2) 
20 
(27,7) 
0,29
3 
Giá trị là số bệnh nhân (%). 
Nhận xét: Tỉ lệ bệnh nhân mở khí quản và 
tử vong của hai nhóm khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016
 138
Bảng 3. So sánh nhóm điểm GCS lúc bệnh nhân 
rời phòng hồi sức 
GCS 
Nhóm CI 
(n=24) 
Nhóm TCI 
(n=28) 
Tổng 
p 
3 – 5 2 (8,33) 1 (3,57) 3 (5,77) 
0,448 
6 – 8 11 (45,83) 8 (28,57) 19 (36,54) 
9 – 12 10 (41,67) 16 (57,14) 26 (50,00) 
13 – 15 1 (4,17) 3 (10,71) 4 (7,69) 
Giá trị là số bệnh nhân (%). 
Nhận xét: Tỉ lệ phân nhóm bệnh nhân theo 
điểm GCS ở hai nhóm nghiên cứu khác nhau 
không có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 4. Mối tương quan giữa GCS lúc vào viện 
với tử vong 
Kết quả GCS 3-5 GCS 6-8 OR p 
Tử vong 11 9 
5,13 0,002 
Sống 10 42 
Nhận xét: bệnh nhân có GCS lúc vào viện 3 
– 5 điểm có tỉ lệ tử vong cao gấp 5,13 lần so với 
bệnh nhân có GCS 6 – 8 điểm (p < 0,05). 
Bảng 5. Mối tương quan giữa bệnh nhân có tăng 
ALNS với tử vong 
Kết quả ALNS ≥20 ALNS<20 OR p 
Tử vong 9 11 
20,45 < 0,001 
Sống 2 50 
Nhận xét: Bệnh nhân có ALNS ≥ 20 mmHg 
có nguy cơ tử vong cao hơn 20,45 lần so với 
các bệnh nhân có ALNS < 20 mmHg (sự khác 
nhau có ý nghĩa thống kê, p < 0,001). 
BÀN LUẬN 
Bảng 2 cho thấy tỉ lệ mở khí quản ở nhóm 
CI 22,2% và 27,8% ở nhóm TCI (p > 0,05). Chỉ 
định mở khí quản trên các bệnh nhân trong 
nghiên cứu của chúng tôi sau thời gian an 
thần (khoảng 7 ngày từ khi được hồi sức). 
Năm 2014, Dunham(3) và cộng sự đánh giá 
hiệu quả mở khí quản sớm ở bệnh nhân CTSN 
nặng. Tác giả kết luận mở khí quản sớm 
không giảm tỉ lệ viêm phổi do thở máy và 
nguy cơ tử vong tăng lên khi mở khí quản 
sớm. Trái lại, nghiên cứu của Ahmed(1) so sánh 
mở khí quản sớm (≤ 7 ngày) với mở khí quản 
muộn (> 7 ngày) ở bệnh nhân CTSN nặng. Kết 
quả nghiên cứu thể hiện mở khí quản sớm làm 
giảm thời gian nằm hồi sức. Năm 2004, Arabi(2) 
và cộng sự nghiên cứu 653 bệnh nhân tại đơn 
vị hồi sức chấn thương. Có 136 bệnh nhân 
được mở khí quản, trong đó 29 bệnh nhân mở 
khí quản sớm và 107 bệnh nhân mở khí quản 
muộn. Kết quả nghiên cứu cho thấy mở khí 
quản ở bệnh nhân chấn thương làm rút ngắn 
thời gian thở máy và nằm ở hồi sức. 
Điểm GCS trung bình lúc nhập viện 6,05 ± 
1,06 ở nhóm CI và 6,58 ± 1,53 ở nhóm TCI 
(bảng 1). Lúc rời phòng hồi sức có 5,77% bệnh 
nhân có GCS 3 – 5 điểm, 36,54% bệnh nhân có 
GCS 6 – 8 điểm, 50% bệnh nhân có GCS 9 – 12 
điểm và 7,69% bệnh nhân có GCS 13 – 15 điểm 
và GCS giữa hai nhóm khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (bảng 3). Kết quả trên cho thấy 
mức độ hồi phục chưa tốt, GCS trung bình lúc 
rời phòng hồi sức khoảng 8 – 9 điểm là 42,31% 
bệnh nhân có GCS ≤ 8 điểm và chỉ có 7,69% 
bệnh nhân có GCS 13 – 15 điểm (bảng 3). Điều 
này cho thấy CTSN nặng là bệnh lý phức tạp, 
khó điều trị. Nghiên cứu của Lê Tùng Uyên(5) 
gồm 101 bệnh nhân CTSN, GCS lúc vào viện: < 
5 điểm (40,6%), 6 – 8 điểm (31,7%), 9 - 13 điểm 
(23,7%) và > 13 điểm (4%). Sau 48 giờ điều trị 
GCS cải thiện < 5 điểm (30,7%), 6 – 8 điểm 
(29,7%), 9 - 13 điểm (24,8%) và > 13 điểm 
(14,8%). Kết quả nghiên cứu này cho thấy 
bệnh nhân có GCS thấp có tỉ lệ cải thiện thấp. 
Nghiên cứu của chúng tôi, sau thời gian hồi 
sức bệnh nhân có GCS 13 – 15 điểm thấp hơn 
của tác giả nêu trên (7,69% so với 14,8%). Lý 
do tất cả bệnh nhân của chúng tôi có CTSN 
nặng với GCS 3 – 8 điểm. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ tử vong 
của hai nhóm khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê. Tỉ lệ tử vong chung của hai nhóm 
trong thời gian điều trị tại hồi sức là 27,7% 
(bảng 2). CTSN nặng có tỉ lệ tử vong còn cao. 
Nghiên cứu của Trần Quốc Việt(10) có tỉ lệ tử 
vong và sống thực vật 56% ở nhóm bệnh nhân 
có hạ HA và 20% ở nhóm bệnh nhân có HA 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Nghiên cứu Y học
 139
bình thường. Năm 2013, Talving(9) và cộng sự 
so sánh kết quả điều trị có hoặc không theo 
dõi ALNS ở bệnh nhân CTSN nặng. Kết quả 
cho thấy nhóm theo dõi ALNS có tỉ lệ tử vong 
thấp hơn (32,7% so với 53,9%). Tương tự 
Farahvar(4), (2012) so sánh kết quả điều trị có 
hoặc không theo dõi ALNS ở bệnh nhân CTSN 
nặng. Tỉ lệ tử vong sau 2 tuần điều trị ở nhóm 
không theo dõi ALNS là 33,2% và 19,2% ở 
nhóm có theo dõi ALNS. Rocksword(8) (2007) 
và cộng sự đánh giá kết quả điều trị của NaCl 
23,4% ở 25 bệnh nhân CTSN nặng. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy có 28% tử vong sau 6 
tháng chấn thương. Maurizt(6) (2007) và cộng 
sự đánh giá kết quả điều trị CTSN nặng tại 
Australia, tỉ lệ tử vong tại hồi sức 30,8%, tỉ lệ 
tử vong 90 ngày 35,7%. Tỉ lệ tử vong của 
chúng tôi thấp hơn các tác giả trên vì nghiên 
cứu chỉ thống kê trong thời gian hồi sức. 
Đánh giá mối liên quan giữa điểm GCS với 
tử vong. Bảng 4 cho thấy bệnh nhân có GCS 3 
– 5 điểm có nguy cơ chết gấp 5,13 lần bệnh 
nhân có GCS 6 – 8 điểm (p < 0,05). Bệnh nhân 
có biểu hiện tăng ALNS ≥ 20 mmHg có nguy 
cơ tử vong gấp 20,45 lần bệnh nhân có ALNS < 
20 mmHg (bảng 5). Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi tương tự như kết quả nghiên cứu 
của Nguyễn Ngọc Anh(1) (có OR = 20). 
KẾT LUẬN 
Bệnh nhân chấn thương sọ não nặng có 
theo dõi áp lực nội sọ được an thần bằng 
propofol với hai phương pháp CI và TCI, tỉ lệ 
tử vong tại hồi sức của hai phương pháp 
tương tự. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahmed N, Kuo YH (2007), Early versus late tracheostomy 
in patients with severe traumatic head injury. Surg Infect 
(Larchmt), 8 (3), 343-7. 
2. Arabi Y, Haddad S, Shirawi N, Al Shimemeri A (2004), 
Early tracheostomy in intensive care trauma patients 
improves resource utilization: a cohort study and 
literature review. Crit Care, 8 (5), R347-52. 
3. Dunham CM, Cutrona AF, Gruber BS, et al (2014), Early 
tracheostomy in severe traumatic brain injury: evidence 
for decreased mechanical ventilation and increased 
hospital mortality. Int J Burns Trauma, 4 (1), 14-24. 
4. Farahvar A, Gerber LM, Chiu YL, et al (2012), Increased 
mortality in patients with severe traumatic brain injury 
treated without intracranial pressure monitoring. J 
Neurosurg, 117 (4), 729-34. 
5. Lê Hoàng Tùng Uyên, Trần Quang Vinh (2010), Tiên 
lượng chấn thương sọ não trong 48 giờ đầu bằng thang 
điểm Glasgow Y Học TP. Hồ Chí Minh, 14 (2), 639-642. 
6. Mauritz W., Janciak I., Wilbacher I., Rusnak M. (2007), 
Severe traumatic brain injury in Austria IV: intensive care 
management. Wien Klin Wochenschr, 119 (1-2), 46-55. 
7. Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thị Huệ (2011), Đánh giá 
hiệu quả chống phù não trên bệnh nhân chấn thương sọ 
não nặng đươc theo dõi áp lực trong sọ. Y Học TP. Hồ Chí 
Minh, 15 (3), 57-64. 
8. Rockswold GL, Solid CA, Paredes-Andrade E, et al (2009), 
Hypertonic saline and its effect on intracranial pressure, 
cerebral perfusion pressure, and brain tissue oxygen. 
Neurosurgery, 65 (6), 1035-41; discussion 1041-2. 
9. Talving P, Karamanos E, Teixeira PG, et al (2013), 
Intracranial pressure monitoring in severe head injury: 
compliance with Brain Trauma Foundation guidelines 
and effect on outcomes: a prospective study. J Neurosurg, 
119 (5), 1248-54. 
10. Trần Quốc Việt, Nguyễn Văn Chừng (2005), Ảnh hường 
của hạ huyết áp động mạch đến tiên lượng bệnh nhân bị 
chấn thương sọ não nặng. Y Học TP. Hồ Chí Minh, 9 (1), 
101-105. 
Ngày nhận bài báo: 20/11/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2015 
Ngày bài báo được đăng: 28/04/2016