Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 68
PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐẠI TRÀNG BẨM SINH: 
KINH NGHIỆM CỦA BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ 
Phạm Trung Vỹ*, Phạm Như Hiệp*, Hồ Hữu Thiện*, Phạm Anh Vũ*, Phan Hải Thanh*, Nguyễn Thanh 
Xuân*, Trần Nghiêm Trung*, Văn Tiến Nhân*, Phạm Minh Đức*, 
Phạm Xuân Đông*, Mai Trung Hiếu* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng kết hợp kỹ thuật phẫu tích qua đường hậu môn một 
thì điều trị bệnh lý phình đại tràng bẩm sinh ở trẻ em. 
Phương pháp nghiên cứu: Gồm 17 bệnh nhân (10 nam,7 nữ) phình đại tràng bẩm sinh với đoạn vô hạch ở 
phần xa của đại tràng (ĐT) được phẫu thuật nội soi kết hợp kỹ thuật phẫu tích qua đường hậu môn từ 1/2012 
đến 6/2017. Nghiên cứu tiến cứu có theo dõi và tái khám nong hậu môn sau mổ. 
Kết quả: Tuổi trung bình 6,7 ± 1,3 tháng (2 - 65), tỷ lệ nam/nữ 1,4/1, 100% chụp đại tràng cản quang trước 
mổ với vị trí vô hạch cao. Vị trí vô hạch trong mổ: chỗ nối sigma-trực tràng 5,9%, đại tràng sigma 29,4%, chỗ nối 
đại tràng xuống-sigma 17,6%, đại tràng xuống 41,2%, góc lách 5,9%, không gặp vô hạch toàn bộ đại tràng. 
Chiều dài đoạn đại tràng cắt bỏ trung bình 23,2 ± 4,3 cm, thời gian phẫu thuật trung bình 162,2 ± 15,5 phút, thời 
gian nằm viện trung bình 5,8 ± 3,2 ngày (4 - 9). Thời gian theo dõi trung bình 37,3 ± 2,6 tháng ghi nhận 17,6% 
viêm ruột, điều trị nội khoa thành công, hẹp miệng nối nong được 11,8% và không gặp các biến chứng khác. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi kèm phẫu tích qua đường hậu môn điều trị phình đại tràng bẩm sinh là an toàn 
và hiệu quả, giải quyết được mọi thể vô hạch cao và có thể thay thế cho kỹ thuật mở bụng để hỗ trợ. 
Từ khóa: Phình đại tràng bẩm sinh, phẫu tích qua đường hậu môn. 
ABSTRACT 
LAPAROSCOPIC SURGERY FOR HIRSCHSPRUNG DISEASE: EXPERIENCES OF HUE CENTRAL 
HOSPITAL 
Pham Trung Vy, Pham Nhu Hiep, Ho Huu Thien, Pham Anh Vu, Phan Hai Thanh, Nguyen Thanh 
Xuan, Tran Nghiem Trung, Van Tien Nhan, Pham Minh Duc, Pham Xuan Dong, Mai Trung Hieu 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 68 – 73 
Objectives: To evaluate the results of laparoscopic surgical techniques combined transanal one-stage 
endorectal pull-through, the treatment of Hirschsprung’s disease (HD) in children. 
Methods: Including 17 patients of HD (10 males, 7 females) with distal colon aganglionosis were considered 
candidates for laparoscopic techniques combined transanal one-stage endorectal pull-through from 1/2012 to 
6/2017. Prospective studies with follow-up and re-examination of postoperative anal dilatation. 
Results: Average age 6.7 ± 1.3 months (2 - 65), male/female 1.4/1, 100% preoperative barium enema with 
long aganglionic segment. Intraoperative aganglionic location: sigmoid-rectum joint 5.9%, sigmoid colon 29.4%, 
descending-sigmoid colon joint 17.6%, descending colon 41.2%, splenic flexure 5.9%, without total aganglionic 
colon. Average length of aganglionic segment 23.2 ± 4.3 cm, the average length of the surgical procedure was 
162.2 ± 15.5 minutes, the length of hospital stays of 5.8 ± 3.2 days (4 - 9). Follow-up time of 37.3 ± 2.6 months 
with 17.6% enteritis, successful medical treatment, 11.8% anastigmatic stenosis of successful dilatation, without 
*Bệnh viện Trung Ương Huế. 
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Trung Vỹ, ĐT: 0909279204, Email: 
[email protected]. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 69
other complications, all children have been well now. 
Conclusions: Laparoscopic surgical techniques combined transanal one-stage endorectal pull-through, the 
treatment of Hirschsprung’s disease is safe and effective, can solve all very high and can be alternative for assisted 
laparotomy. 
Keywords: Hirschsprung’s disease, transanal one-stage endorectal pull-through. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung) là 
một bệnh khá phổ biến ở trẻ em được 
Hirschsprung báo cáo đầu tiên tại hội nghị nhi 
khoa Berlin năm 1886. Bệnh có thể có biểu hiện 
lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh 
tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không 
can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp và 
mạn tính ở trẻ nhũ nhi và trẻ lớn với bệnh cảnh 
táo bón và tiêu chảy kéo dài đưa đến tình trạng 
suy dinh dưỡng, chướng bụng, chậm phát triển 
về thể chất cũng như tinh thần(9,6). 
Phẫu thuật qua đường trực tràng (phẫu 
thuật Soave hoặc endorectal pull-through) điều 
trị bệnh lý này lần đầu tiên được Franco Soave 
giới thiệu tại học viện Gaslini năm 1955 tuy 
nhiên phải đến năm 1980 ca phẫu thuật thành 
công lần đầu tiên mới được báo cáo(8). 
Năm 1998, Georgeson báo cáo đầu tiên kết 
quả phẫu thuật nội soi 80 bệnh nhân phình đại 
tràng bẩm sinh tại 6 trung tâm trong vòng 5 năm 
với kết quả đáng khích lệ(3,6). 
Tại Bệnh viện Trung ương Huế, phẫu thuật 
qua đường trực tràng (Soave) điều trị phình đại 
tràng bẩm sinh đã được thực hiện từ năm 2002(8). 
Tuy nhiên trong trường hợp đoạn vô hạch nằm 
cao, phẫu thuật phải kèm theo mở bụng phối 
hợp hạ đại tràng cùng với những bất lợi của việc 
làm này sau mổ cũng như kết quả lâu dài. 
Xuất phát từ thực tế ứng dụng phẫu thuật 
nội soi điều trị bệnh lý phình đại tràng bẩm sinh, 
chúng tôi báo cáo đề tài này nhằm đánh giá kết 
quả ứng dụng phẫu thuật nội soi ổ bụng kết hợp 
kỹ thuật phẫu tích trực tràng qua đường hậu 
môn một thì điều trị bệnh lý phình đại tràng 
bẩm sinh ở trẻ em. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng 
kết hợp kỹ thuật phẫu tích qua đường hậu môn 
một thì điều trị bệnh lý phình đại tràng bẩm sinh 
ở trẻ em. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Gồm 17 bệnh nhân phình đại tràng bẩm sinh: 
Triệu chứng lâm sàng điển hình: táo bón 
trường diễn, đòi hỏi phải bơm hậu môn để đi cầu. 
Kết quả chụp đại tràng cản quang có một 
đoạn hẹp, đoạn chuyển tiếp và đoạn đại tràng 
giãn ngay trên đoạn chuyển tiếp. Vị trí đoạn vô 
hạch ở phần xa của đại tràng (góc lách, đại tràng 
xuống và đoạn đầu sigma). Chẩn đoán được 
khẳng định lại bằng sinh thiết tức thì trong mổ 
và kết quả giải phẫu bệnh sau mổ. 
Được phẫu thuật nội soi kết hợp kỹ thuật 
phẫu tích trực tràng qua đường hậu môn theo kỹ 
thuật của Georgeson KE(3) từ 1/2012 đến 6/2017. 
Nghiên cứu tiến cứu có theo dõi, tái khám và 
nong hậu môn sau mổ. 
Chuẩn bị trước mổ 
Thụt tháo đại tràng bằng nước muối sinh lý 
hằng ngày trước mổ. 
Kháng sinh Cephalosporin thế hệ ba, tiêm 
tĩnh mạch. 
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, tư thế 
sản khoa. 
Đặt xông tiểu để làm xẹp bàng quang trong 
mổ và rút ngay sau mổ. 
Kỹ thuật phẫu thuật 
Thì bụng (phẫu thuật nội soi)(3) (Hình 1) 
Đặt 4 trocar: một trocar 5 hoặc 10 mm dưới 
rốn, một trocar 5 mm ở hố chậu trái, trocar 5mm 
ở hố chậu phải và trocar 5 mm ngang rốn phải. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 70
Bơm hơi ổ phúc mạc với áp lực 8 – 10 
mmHg. 
Sau khi đặt các trocar, vùng chuyển tiếp đại 
tràng cũng như vùng giãn trên đoạn chuyển tiếp 
sẽ được đánh giá cẩn thận để quyết định vị trí 
đại tràng cần phẫu tích, di động và sẽ cắt bỏ. 
Giải phóng đại tràng sigma và phẫu tích 
trực tràng xuống tiểu khung dưới nếp phúc 
mạc phía trước 2 – 3 cm và phía sau ngang 
mức xương cụt. Chú ý phẫu tích sát thành trực 
tràng để tránh làm tổn thương các nhánh thần 
kinh niệu – sinh dục. 
Các nhánh động mạch sigma được clip và cắt 
gần sát thành đại tràng. 
Thông thường, mạc treo đại tràng được giải 
phóng ngang mức động mạch mạc treo tràng 
dưới. Tuy nhiên, nếu đoạn vô hạch nằm cao trên 
đại tràng sigma thì việc phẫu tích và di động đại 
tràng góc lách là kỹ thuật bắt buộc. Việc phẫu 
tích và di động đại tràng xuống, đại tràng góc 
lách và thậm chí đại tràng ngang nhằm 2 mục 
đích: vừa giúp cho việc cắt bỏ hết đoạn đại tràng 
vô hạch hoặc giãn mất trương lực do ứ đọng lâu 
ngày và vừa tránh được sự căng của miệng nối 
đại tràng - ống hậu môn(3). 
Thì hậu môn(3) (Hình 2) 
Dùng van Lone Star để bộc lộ hậu môn. 
Rạch đường vòng ống niêm mạc trên đường 
lược khoảng 0,5-1 cm. 
Phẫu tích ống niêm mạc lên cao 5-6 cm, mở 
lớp thanh cơ thành trước trực tràng theo chiều dọc. 
Vào tiểu khung gặp đoạn trực tràng đã 
được phẫu tích bằng nội soi, giải phóng hoàn 
toàn trực tràng. 
Trực tràng, đại tràng sigma được kéo ra 
ngoài qua ống hậu môn. Vị trí đại tràng dự 
định khâu nối được làm sinh thiết tức thì để 
khẳng định. 
Đoạn đại - trực tràng vô hạch và đoạn giãn 
được cắt bỏ. Nối đại tràng bình thường với ống 
hậu môn trên đường lược 0,5-1 cm bằng các mũi 
khâu rời. 
Chăm sóc sau mổ 
Cho trẻ uống nước, sữa hoặc bú mẹ sau 
khi có đại tiện sau mổ. 
Hướng dẫn nong hậu môn từ 2 tuần sau 
mổ và 1 tháng tiếp theo. 
Khám kiểm tra sau mổ mỗi 3-6 tháng. 
Hình 1. Vị trí trocar và phẫu tích di động đại trực tràng(3). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 71
Hình 2. Kéo đại trực tràng ra ngoài, cắt và khâu nối qua ống hậu môn(3) 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm chung 
Đặc điểm chung n=17 % 
Tuổi trung bình (tháng) 6,7 ± 1,3 
< 1 tháng 0 0 
2-6 tháng 11 64,7 
> 6 tháng 6 35,3 
Tỷ lệ nam/nữ 10/7 1,4/1 
Chụp ĐT cản quang trước mổ 17 100 
Bảng 2. Kết quả phẫu thuật 
Kết quả phẫu thuật n % 
Vị trí vô hạch trong mổ 
Chỗ nối sigma-trực tràng 1 5,9 
Đại tràng sigma 5 29,4 
Chỗ nối ĐT xuống-sigma 3 17,6 
Đại tràng xuống 7 41,2 
Đại tràng góc lách 1 5,9 
Toàn bộ đại tràng 0 0 
Chiều dài đoạn ĐT cắt bỏ (cm) 23,2 ± 4,3 
Thời gian phẫu thuật (phút) 
162,2 ± 15,5 (125 – 240 
phút) 
Tai biến, biến chứng 
Viêm phổi sau mổ 2 11,8 
Chảy máu 0 0 
Dò miệng nối 0 0 
Nhiểm khuẩn vết mổ 2 11,8 
Mở thông hồi tràng kèm theo 3 17,6 
Chuyển mổ mở 0 0 
Thời gian nằm viện trung bình 
(ngày) 
5,8 ± 3,2 (thấp nhất 4, cao 
nhất 9) 
Bảng 3. Kết quả theo dõi và tái khám 
Kết quả theo dõi và tái khám n % 
Thời gian theo dõi trung bình 
(tháng) 
37,3 ± 2,6 (thấp nhất 5,cao 
nhất 62) 
Viêm ruột, điều trị nội khoa 
thành công 
3 17,6 
Hẹp miệng nối nong được 2 11,8 
Táo bón tái phát 0 0 
Tắc ruột sau mổ 0 0 
BÀN LUẬN 
Qua 17 trường hợp được phẫu thuật nội soi 
một thì kết hợp phẫu tích qua đường hậu môn 
trong hơn 5 năm, điều trị bệnh lý phình đại 
tràng bẩm sinh tại bệnh viện Trung ương Huế, 
chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm và nhấn 
mạnh 3 vấn đề cần bàn luận sau đây. 
Thứ nhất, độ tuổi nào thì phẫu thuật nội soi 
được chỉ định 
Phẫu thuật nội soi là kỹ thuật xâm nhập tối 
thiểu đã được ứng dụng vào phẫu thuật nội soi 
nhi từ nhiều năm nay. 
Với sự tiến bộ của phương pháp chẩn đoán 
cũng như những phát triển về gây mê hồi sức, 
việc phẫu thuật sớm và một thì để điều trị bệnh 
Hirschsprung đã chứng tỏ nhiều ưu điểm, bệnh 
nhân không phải chịu phẫu thuật 3 thì như trước 
với những biến chứng về phẫu thuật, gây mê hồi 
sức cũng như chăm sóc hậu môn nhân tạo(7). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi thấp nhất 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 72
là 2 tháng, cao nhất là 65 tháng, nghiên cứu của 
Jona JZ(4), tuổi trung bình là 7 tuần, thấp nhất 1 
tuần và cao nhất 28 tuần. 
Việc tiến hành phẫu thuật nội soi cần có một 
khoảng không gian thao tác (Surgical space). Vì 
vậy trong trường hợp trẻ nhỏ, các quai ruột 
chướng hơi và dịch vì ứ đọng sẽ khó có thể áp 
dụng kỹ thuật này. Tuy nhiên theo Georgeson và 
cộng sự tuổi thấp nhất mà tác giả phẫu thuật nội 
soi là 3 ngày tuổi (cao nhất là 96 tháng) điều này 
có thể thấy việc sàng lọc chẩn đoán và theo dõi 
trong thai kỳ đối với bệnh lý này cũng như các 
tổn thương phối hợp đã được tiến hành một 
cách có hệ thống. Bên cạnh đó, sự ra đời các 
dụng cụ và camera có đường kính nhỏ từ 2 – 5 
mm cũng như sự phát triển của gây mê hồi sức 
nhi đã giúp cho việc áp dụng kỹ thuật nội soi 
cho trẻ sơ sinh ngày càng được rộng rãi (2). 
Thứ hai, vì sao phải phẫu thuật nội soi mà 
không ứng dụng kỹ thuật khác: 
Về mặt kỹ thuật, đây là sự phối hợp của kỹ 
thuật xâm nhập tối thiểu và phẫu tích truyền 
thống qua đường hậu môn. Mục đích của việc 
ứng dụng phẫu thuật nội soi là để tránh phải 
phẫu thuật mở bụng cùng với những ưu điểm 
của việc tổn thương phúc mạc tối thiểu. Việc 
phẫu tích và di động đại tràng xuống, đại 
tràng góc lách và thậm chí đại tràng ngang 
hoặc toàn bộ đại tràng nhằm 2 mục đích: vừa 
giúp cho việc cắt bỏ hết đoạn đại tràng vô 
hạch hoặc mất trương lực do ứ đọng lâu ngày 
và vừa tránh được sự căng của miệng nối đại 
tràng - ống hậu môn(1,3). 
Cùng một mục đích phẫu thuật là phải phẫu 
tích và di động đoạn đại phía trên đoạn vô hạch 
(đại tràng xuống, góc lách, đại tràng ngang) và 
đoạn đại tràng giãn mất trương lực, tuy nhiên so 
với đường mổ mở để phối hợp thì đây là kỹ 
thuật gây tổn thương tối thiểu phúc mạc và khác 
với các tác giả khác áp dụng phẫu thuật nội soi 
cho mọi vị trí vô hạch đại trực tràng(1,2), chúng tôi 
chỉ áp dụng kỹ thuật này cho những trường hợp 
đoạn vô hạch nằm cao, còn những trường hợp 
thấp thì phẫu thuật một thì qua đường hậu môn 
là chọn lựa hàng đầu, điều này cũng phù hợp 
với quan điểm với một số tác giả(1,2). 
Theo Georgeson KE và Cohen RD(3), việc 
phẫu tích các mạch máu và di động đoạn đại 
tràng sigma trực tràng qua phẫu thuật nội soi ổ 
bụng làm tăng sự di động của đại trực tràng và 
như vậy, việc phẫu tích cuối cùng qua đường 
hậu môn – trực tràng trỡ nên dễ dàng hơn. 
Theo Nguyễn Thanh Liêm(5) PTNS cho phép 
nhìn thấy rõ ràng hơn các thành phần của tiểu 
khung, giảm thiểu gây sang chấn cho các cơ 
quan lân cận, tránh được tai biến xoắn đại tràng 
khi hạ xuống. PTNS còn cho phép giải quyết mọi 
thể loại vô hạch cao. 
Thứ ba, kết quả và ưu điểm mang lại như thế 
nào 
Qua nghiên cứu phẫu thuật nội soi và theo 
dõi đánh giá 17 trường hợp, chúng tôi ghi nhận 
vị trí đoạn vô hạch trong mổ thường gặp nhất là 
đại tràng xuống 41,2%, đại tràng góc lách 5,9% 
và chiều dài đoạn đại trực tràng cắt bỏ trung 
bình là 23,2 ± 4,3 cm. Việc sinh thiết tức thì trong 
mổ được tiến hành thường quy, vị trí đại tràng 
dự định cắt nối được đánh giá trong thì phẫu 
thuật nội soi và việc sinh thiết được tiến hành 
qua đường hậu môn sau khi đại trực tràng được 
kéo ra ngoài. 
Thời gian phẫu thuật trung bình 162,2 ± 15,5 
phút cao hơn so với nghiên cứu của Ahmad 
M(1)và Georgeson KE(3), thời gian phẫu thuật 
trung bình 150 phút, nghiên cứu của Jona JZ(4) 
thời gian phẫu thuật trung bình 140 phút. 
Thời gian theo dõi trung bình 37,3 ± 2,6 
tháng, thấp nhất 5 tháng, cao nhất 62 tháng và 
ghi nhận viêm ruột, điều trị nội khoa thành công 
17,6%, hẹp miệng nối nong được 11,8%. Nghiên 
cứu của Nguyễn Thanh Liêm gặp dò miệng nối 
1,3% và theo báo cáo của các tác giả hẹp miệng 
nối sau mổ là 5%(2). 
KẾT LUẬN 
Kết quả bước đầu cho thấy phẫu thuật nội 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 73
soi kết hợp phẫu tích qua đường hậu môn điều 
trị phình đại tràng bẩm sinh là an toàn và hiệu 
quả, giải quyết được mọi thể vô hạch cao nên có 
thể thay thế cho kỹ thuật mở bụng hỗ trợ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahmad M, Sadat El (2009), Laparoscopic-Assisted Transanal 
Endorectal Pull-Through for Hirschsprung’s Disease: Experience 
with 15 Cases, Annals of Pediatric Surgery, Vol 5, No 3, pp: 181-186. 
2. Aubdoollah TH, Li K, Zhang X, Li S, Yang L, Lei HJ, Dolo PR 
(2015), Clinical outcomes and ergonomics analysis of three 
laparoscopic techniques for Hirschsprung's disease, World J 
Gastroenterol, Vol 21(29), pp: 8903-8911. 
3. Georgeson KE, Cohen RD, Hebra A (1999), Primary 
laparoscopic-assisted endorectal colon pull-through for 
Hirschsprung’s disease: A new gold standard, Ann Surg, 
Vol.229(5), pp: 678-682. 
4. Jona JZ (2005), Laparoscopic pull through for Hirschsprung’s 
disease in infants, J Indian Assoc Pediatr Surg, Vol 10 (1), pp: 28 – 30. 
5. Nguyễn Thanh Liêm, Bùi Đức Hậu, Trần Anh Quỳnh (2011), So 
sánh kết quả ban đầu giữa hai phương pháp phẫu thuật một thì 
nội soi và đường qua hậu môn điều trị bệnh phình đại tràng 
bẩm sinh, Y Học TP. Hồ Chí Minh, Tập 15, Phụ bản của Số 3, 
Chuyên Đề Ngoại Nhi, tr: 33 – 36. 
6. Thomson D, Allin B, Long AM, Bradnock T, Walker G (2015), 
Laparoscopic assistance for primary transanal pull-through in 
Hirschsprung’s disease: a systematic review and meta-analysis, 
BMJ Open, doi: 10.1136/bmjopen-2014-006063. 
7. Trương Nguyễn Uy Linh, Phan Thị Ngọc Linh, Nguyễn Kinh 
Bang, Đào Trung Hiếu (2005), Điều trị phẫu thuật triệt để, một 
thì ở trẻ bệnh Hirschsprung dưới ba tháng tuổi, Y Học TP. Hồ 
Chí Minh, Tập 9, Phụ bản của Số 1, tr: 1 – 4. 
8. Vu PA, Thien HH, Hiep PN (2010), Transanal one-stage 
endorectal pull-through for Hirschsprung disease: experiences 
with 51 newborn patients, Pediatr Surg Int, DOI 101007/s00383-
010-2599-0. 
9. Vũ Tuấn Ngọc, Trương Nguyễn Uy Linh, Đào Trung Hiếu 
(2005), Điều trị phẫu thuật triệt để ở trẻ bệnh Hirschsprung bằng 
kỹ thuật hạ đại tràng qua ngã hậu môn, Y Học TP. Hồ Chí Minh, 
Tập 9, Phụ bản của Số 1, tr: 5-11. 
Ngày nhận bài báo: 20/06/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/06/2018 
Ngày bài báo được đăng: 15/08/2018