T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 72 
PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT THẬN TRÊN NGƯỜI SỐNG CHO 
THẬN GHÉP TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH THANH HOÁ: 
NHÂN 3 TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN 
Trương Thanh Tùng1; Lê Nguyên Vũ2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá kết quả bước đầu của phương pháp cắt thận nội soi trên người sống cho 
thận ghép tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả 
3 trường hợp cắt thận nội soi trên người sống cho thận ghép tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh 
Hoá từ 07 - 2018 đến 12 - 2018: Kết quả: chỉ số trung bình: lứa tuổi, BMI, thời gian thiếu máu 
nóng, thời gian mổ và thời gian dùng thuốc giảm đau lần lượt là: 48,3 năm; 25,5 kg/m2; 5 phút 
45 giây; 125 phút và 2,5 ngày. Không gặp tai biến-biến chứng đáng kể. Kiểm tra sau mổ 3 
tháng không thấy nhiễm trùng hay thoát vị lỗ trocar. Kết luận: phẫu thuật nội soi cắt thận trên 
người sống cho thận ghép là phương pháp an toàn, ít xâm lấn, mang tính thẩm mỹ cao và giúp 
người cho thận phục hồi sau mổ nhanh hơn. Tuy mới chỉ thực hiện trên 3 trường hợp cắt thận 
phải nội soi qua ổ bụng, nhưng kết quả mang lại cho người cho thận là khả quan. 
* Từ khoá: Cắt thận; Ghép thận; Phẫu thuật nội soi. 
Laparoscopic Live Donor Nephrectomy at Thanhhoa General 
Hospital: The First 3 Cases 
Summary 
Objectives: Evaluation of initial results of laparoscopic live donor nephrectomy at Thanhhoa 
General Hospital. Subjects and methods: Description study on 3 laparoscopic liver donor 
nephrectomy patients at Thanhhoa General Hospital from 7 - 2018 to 12 - 2018. Results: 
The mean of donor age, body mass index, warm ischemic time, operative time and analgesic 
requirement time were: 48.3 years; 25.5 kg/m2; 5 minutes 45 seconds; 125 minutes and 
2.5 days, respectively. No significant complications. Three-month postoperative examination did 
not detect any infections or hernia of wound of trocar. Conclusions: Laparoscopic live donor 
nephrectomy is a safer, less invasive, and aesthetic method, as well as more recovery for the 
donor. Although only three cases of laparoscopic live donor nephrectomy, but the results are 
good for the donor. 
* Keywords: Nephrectomy; Kidney transplant; Laparoscopic surgery. 
1. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hoá 
2. Bệnh viện Việt Đức 
Người phản hồi (Correspongding): Trương Thanh Tùng (
[email protected]) 
Ngày nhận bài: 17/12/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 08/01/2019 
 Ngày bài báo được đăng: 15/02/2019 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 73 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, ghép thận là phương pháp 
hiệu quả và được ứng dụng rộng rãi để 
điều trị cho bệnh nhân (BN) suy thận mạn 
tính giai đoạn cuối. Tại các nước Âu-Mỹ, 
tỷ lệ ghép thận lấy từ người sống cho 
thận chiếm khoảng 20 - 25%. Tại Việt 
Nam, nguồn lấy thận ghép chủ yếu từ 
người sống cho thận [2]. 
Cắt thận nội soi trên người sống cho 
thận được thực hiện lần đầu tiên vào năm 
1995, đến nay đã trở thành kỹ thuật được 
ưu tiên lựa chọn và áp dụng ở nhiều quốc 
gia. Tính đến năm 2006, ở Mỹ có khoảng 
1.000 trường hợp cắt thận nội soi để 
ghép [8]. Ở nước ta, việc áp dụng kỹ 
thuật này đã được thực hiện từ năm 2004 
tại một số trung tâm: Bệnh viện Chợ Rẫy, 
Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Nhi TW, 
Bệnh viện TWQĐ 108 Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện phẫu 
thuật nội soi (PTNS) qua ổ bụng cắt thận 
trên người sống cho thận ghép từ tháng 
07 - 2018, qua 3 trường hợp đầu tiên 
thực hiện, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
này nhằm: Đưa ra một số nhận xét ban 
đầu với vai trò định hướng cho những ca 
tiếp theo. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu. 
3 BN cho thận được PTNS cắt thận 
qua ổ bụng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Thanh Hoá từ tháng 07 - 2018 đến 12 - 
2018. Ngoài các xét nghiệm để lựa chọn 
cặp ghép (nhóm máu ABO, kháng thể 
chống bạch cầu, HLA, phản ứng chéo), 
BN được kiểm tra trước mổ bằng MSCT 
có dựng hình 3D mạch thận, hệ thống 
đường bài xuất và xạ hình thận. 
Chọn bên lấy thận theo nguyên tắc: 
nếu 2 thận có chức năng giống nhau, giải 
phẫu bình thường thì ưu tiên lấy thận trái; 
nếu chức năng 1 bên kém hơn nhưng 
vẫn đảm bảo được chức năng thận sau 
ghép thì ưu tiên để lại thận tốt hơn cho 
người cho thận. 
2. Phương pháp nghiên cứu. 
Mô tả, tiến cứu. Thu thập số liệu theo 
mẫu bệnh án nghiên cứu chung. BN 
được lựa chọn, chuẩn bị và phẫu thuật 
theo quy trình thống nhất. Kỹ thuật được 
cùng một kíp phẫu thuật viên thực hiện 
trên dàn máy nội soi 4K (Hãng Olympus). 
Sử dụng dao siêu âm Hamonic scalpel-
G11 (Hãng Ethicon Endo-Surgery). 
* Chuẩn bị BN: 
BN được gây mê nội khí quản, đặt 
huyết áp động mạch, đặt sonde dạ dày, 
sonde niệu đạo và làm sạch ruột trước 
mổ. 
* PTNS qua ổ bụng cắt thận phải để 
ghép: 
BN nằm nghiêng trái 900 có độn vùng 
thắt lưng, vai và hông cố định. Đặt trocar 
đầu tiên (12 mm) theo phương pháp mở 
hoặc sử dụng kim Veress bơm CO2, sau 
đó đặt trocar, điểm đặt trocar đầu tiên ở 
ngang rốn trên đường giữa đòn phải. 
Duy trì bơm CO2 với áp lực 10 - 12 mmHg. 
Dưới quan sát của ống kính soi, đặt tiếp 
trocar tại các vị trí như hình 1, bao gồm: 
1 trocar 12 mm và 2 trocar 5,4 mm. Rạch 
và bóc mạc Told từ mức ngang động 
mạch chậu đi lên trên góc gan, hạ đại 
tràng lên, đại tràng góc gan để di động tối 
đa và đẩy đại tràng vào trong, phẫu tích 
đẩy tiếp tá tràng vào trong bộc lộ cân 
Gerota, cơ Psoas, mặt trước thận và tĩnh 
mạch chủ dưới. Bộc lộ niệu quản xuống 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 74 
qua đoạn bắt chéo động mạch chậu, bóc 
tách niệu quản, kẹp và cắt bằng clip 
titanium hoặc Hem-o-lock. Giải phóng 
thận khỏi khoang thận. Kẹp cắt động-tĩnh 
mạch thận bằng clip titanium và Hem-o-
lock, riêng tĩnh mạch thận kẹp cắt bằng 
dụng cụ cắt nối máy nội soi (Endo-GIA). 
Lấy thận ghép ra ngoài qua đường rạch 
hố chậu phải (dài khoảng 5 cm). 
* PTNS qua ổ bụng cắt thận trái để 
ghép: 
Tương tự như bên phải nhưng phải hạ 
đại tràng xuống và đại tràng góc lách. 
Trong thì xử lý mạch thận, hết sức lưu ý 
đến các nhánh tĩnh mạch sinh dục, tĩnh 
mạch thượng thận chính và tĩnh mạch 
thắt lưng. 
Hình 1: Đặt các trocar trong cắt thận nội 
soi qua ổ bụng để ghép. 
* Theo dõi: 
- Tình trạng toàn thân, huyết động, 
hô hấp và tại chỗ trong mổ. Kháng sinh 
dự phòng: nhóm cephalosporine kết hợp 
nhóm quinolon. Giảm đau: morphin và 
non-steroid. 
- Thời gian thiếu máu nóng, thời gian 
mổ, thời gian dùng thuốc giảm đau, thời 
gian nằm viện (tính từ ngày mổ đến khi 
ra viện). 
- Các tai biến-biến chứng, kiểm tra 
chức năng thận ghép các ngày sau mổ, 
kiểm tra lại BN cho thận sau mổ 3 tháng. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ 
BÀN LUẬN 
1. Đặc điểm BN. 
Tuổi trung bình 48,3, tỷ lệ nam/nữ = 2/1, 
có quan hệ huyết thống giữa người cho 
và người nhận, 02 trường hợp cắt thận 
phải, 01 trường hợp cắt thận trái nội soi 
qua ổ bụng. Trần Ngọc Sinh (2008) 
nghiên cứu 38 trường hợp cắt thận nội 
soi sau phúc mạc để ghép: tuổi trung bình 
33,94 ± 9,85, không cùng huyết thống 
2,63%, lấy thận bên trái 68,42%. Gao 
Zhen-Li (2007) nghiên cứu 19 trường hợp 
cắt thận nội soi qua ổ bụng để ghép: 
tuổi trung bình 42,3 ± 10,6, tỷ lệ nam/nữ = 
8/11 [3, 8]. 
Chỉ số BMI trung bình 25,5 kg/m2, 
01 trường hợp BMI = 27,5 kg/m2, cao hơn 
không ý nghĩa thống kê so với nghiên cứu 
của Gao Zhen-Li (2007) là 23,8 ± 4,3 kg/m2. 
BMI càng lớn, xác suất cuộc mổ càng 
khó. Theo Guidelines của Anh (2000): khi 
BMI > 30 kg/m2: chống chỉ định tương 
đối, > 35 kg/m2: chống chỉ định tuyệt đối 
tiến hành PTNS [4, 8]. 
2. Quá trình tiến hành. 
* Đặt trocar và bơm CO2 ổ bụng: 
Cả 3 trường hợp đều đặt trocar đầu 
theo phương pháp mở. Đặt trocar đầu 
theo phương pháp mở hay cách sử dụng 
kim Veress hiện còn nhiều quan điểm, có 
tác giả cho rằng sử dụng kim Veress đơn 
giản hơn, số khác lại cho rằng đặt theo 
phương pháp mở an toàn hơn [1, 10]. 
Mặc dù số liệu chưa đủ để kết luận, 
nhưng qua kinh nghiệm từ những trường 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 75 
hợp cắt thận bệnh lý lành tính nội soi, 
chúng tôi thiên về cách đặt theo phương 
pháp mở. 
Không gặp tai biến nào khi duy trì áp lực 
bơm CO2 trong mổ ở mức 10 - 12 mmHg 
trên BN. Theo Trần Bình Giang (2003), 
nên duy trì áp lực CO2 ≤ 12 mmHg để 
tránh ảnh hưởng đến tuần hoàn và hô 
hấp. Theo Chung Hsiao-Jen (2009): nên 
đặt BN ở tư thế Trendelenberg khi bắt 
đầu bơm CO2 để tránh tắc mạch khí 
thường xảy ra trong 5 - 8 phút đầu cuộc 
mổ. Trần Ngọc Sinh (2008) khuyên nên 
duy trì áp lực CO2 ≤ 10 mmHg để tránh 
ảnh hưởng đến thận ghép [1, 3, 7]. 
Vị trí đặt trocar hiện cũng có nhiều 
cách: kiểu chữ L, kiểu hình kim cương 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đặt 3 - 4 
trocar theo kiểu hình bình hành hoặc chữ 
L (hình 1). Theo Bollens R (2009), đây là 
cách đặt trocar thuận lợi hơn cho cắt thận 
nội soi qua ổ bụng để ghép [6, 7, 10]. 
* Bộc lộ thận, xử lý niệu quản và mạch 
máu cuống thận: 
Quá trình hạ đại tràng lên, đại tràng 
góc gan sẽ quyết định việc bộc lộ mặt 
trước thận và cuống thận [7, 10]. BN 
trong nghiên cứu đều được giải phóng 
phúc mạc thành từ bờ đại tràng góc gan 
đến đoạn đại tràng lên, manh tràng và tận 
ngang mức mạch chậu nhằm di động và 
đẩy tối đa đại tràng vào trong. Chúng tôi 
không gặp nhiều khó khăn do cả 3 BN có 
BMI không > 30 kg/m2, vì nếu quá cân sẽ 
có nhiều mỡ bám cùng các dây chằng và 
lớp mỡ cạnh thận dày gây cản trở cho 
quá trình phẫu tích. 
Tìm và xử lý niệu quản được bắt đầu 
từ ngang cực dưới thận, đi xuống giải 
phóng và cắt niệu quản ở ngang mức 
dưới chỗ bắt chéo mạch chậu. Chúng tôi 
không gặp trường hợp nào bị niệu quản 
ngắn do cắt ở mức cao hơn chỗ bắt chéo 
mạch chậu, các niệu quản đều đủ để 
khâu nối được bằng cách trồng niệu 
quản-bàng quang kiểu Lich-Gregoire. 
Theo Nogueira M (2005), Chung Hsiao-
Jen (2009) và Breda A (2006), mức cắt 
niệu quản phải ở dưới chỗ bắt chéo mạch 
chậu mới đủ độ dài để ghép. Cùng với 
đó, việc giữ lại lớp mỡ quanh niệu quản 
và lớp mỡ giữa niệu quản với tĩnh mạch 
sinh dục cũng rất quan trọng, vì đa số các 
mạch nuôi niệu quản đều xuất phát từ đây, 
nếu lấy đi lớp mỡ này, nguy cơ hẹp niệu 
quản sau ghép tăng đáng kể [5, 7, 10]. 
Hình 2: Giới hạn cắt và bảo tồn lớp mỡ quanh niệu quản. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 76 
Hình 3: Kẹp cắt mạch cuống thận. 
Xử lý mạch cuống là vấn đề không dễ, 
phải duy trì đủ độ dài cũng như sự toàn 
vẹn các mạch. Đối với động mạch, không 
gặp trường hợp nào động mạch thận bị 
ngắn hay 2 - 3 động mạch thận. Trần 
Ngọc Sinh (2008) cho rằng với trường 
hợp có 2 - 3 động mạch thận vẫn có chỉ 
định lấy thận nội soi để ghép, mặc dù thời 
gian thiếu máu nóng kéo dài hơn, nhưng 
vẫn đảm bảo ở mức cho phép [3]. 
Đối với tĩnh mạch thận, 1 trường hợp 
cắt tĩnh mạch thận bị ngắn, nguyên nhân 
do tĩnh mạch thận phải thường ngắn hơn 
tĩnh mạch thận trái và khi cắt đã chưa 
phẫu tích đến sát điểm đổ tĩnh mạch thận 
vào tĩnh mạch chủ dưới, đây là ca đầu 
tiên tiến hành PTNS lấy thận nên kinh 
nghiệm còn hạn chế, tuy nhiên khi ghép 
chỉ cần phẫu tích cắt các nhánh tĩnh mạc 
chậu trong nhằm di động tối đa tĩnh mạch 
chậu ngoài nên quá trình nối tĩnh mạch 
thận ghép với tĩnh mạch chậu ngoài 
không gặp khó khăn. Chung Hsiao-Jen 
(2009) cảnh báo nếu kẹp cắt các nhánh 
tĩnh mạch tuyến thượng thận, sinh dục và 
thắt lưng bằng clip nội soi hay Hem-o-lock 
có thể là nguyên nhân gây thất bại khi sử 
dụng Endo-GIA để kẹp cắt tĩnh mạch thận 
ngay sau đó [7]. 
Số lượng clip nội soi hay Hem-o-lock 
sử dụng cho mỗi mạch thận của chúng tôi 
phù hợp với quan điểm của Trần Ngọc 
Sinh (2008): mỗi động mạch hay tĩnh 
mạch thận dùng 1 Hem-o-lock + 2 clip 
titanium hoặc 2 Hem-o-lock và 1 clip 
titanium [3]. Do mới triển khai cắt thận nội 
soi để ghép nên chúng tôi chủ trương sử 
dụng Endo-GIA để đảm bảo an toàn và 
tối ưu độ dài của tĩnh mạch thận, mặc dù 
dụng cụ này thường có giá thành cao và 
làm tăng chi phí cuộc mổ. 
* Giải phóng tổ chức quanh thận và lấy 
thận: 
Theo Chung Hsiao-Jen (2009), không 
nên giải phóng toàn bộ thận ngay từ ban 
đầu mà chỉ sau khi kẹp cắt niệu quản. 
Bollens R (2009) cho rằng nên giữ lại lớp 
mỡ phía bờ thận để cắt sau cùng [6, 7]. 
BN trong nghiên cứu đều được giải 
phóng di động toàn bộ thận bằng dao 
siêu âm sau khi kẹp cắt niệu quản, các 
mạch cuống thận được kẹp cắt sau cùng 
(khi đã chuẩn bị sẵn sàng để lấy thận). 
Lấy thận bằng dụng cụ mổ mở qua vết 
rạch da 5 cm vùng hố chậu. Theo Trần 
Ngọc Sinh (2008), ở điều kiện nước ta, 
để tiết kiệm cho BN nên lấy thận hỗ trợ 
bằng tay [3]. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 77 
Hình 4: Vết khâu chân trocar và 
đường rạch lấy thận. 
* Một số kết quả: 
Thời gian thiếu máu nóng trung bình 
5 phút 45 giây, không trường hợp nào 
kéo dài quá 7 phút. Kết quả khác biệt 
không đáng kể so với Trần Ngọc Sinh 
(2008) là 5 phút 7 giây ± 2 phút 4 giây. 
Mặc dù mới triển khai kỹ thuật, nhưng 
duy trì mức thời gian thiếu máu nóng như 
vậy là chấp nhận được [3]. 
Thời gian mổ trung bình 125 phút. 
Khác biệt không có ý nghĩa thống kê so 
với: Breda A (2006) là 180 ± 55 phút, 
Nougueira M (2005) là 230 ± 29 phút. Khi 
so sánh mổ nội soi với mổ mở trong cắt 
thận để ghép, Nougueira M (2005) nhận 
thấy, mặc dù mổ nội soi có thời gian mổ 
lâu hơn, nhưng lượng máu mất trong mổ 
ít hơn so với mổ mở [5, 10]. 
Thời gian dùng thuốc giảm đau trung 
bình 2,5 ngày. Giảm đau dùng nhóm non-
steroid kết hợp với nhóm morphin trong 
ngày đầu. Nghiên cứu của Nougueira M 
(2005) cho thấy, với mổ nội soi, lượng 
thuốc cũng như số lượng thuốc giảm đau 
giảm đáng kể so với mổ mở [10]. Thời 
gian nằm viện trung bình 7 ngày, tất cả 
BN đều được chúng tôi giữ lại điều trị 
nhằm nâng đỡ cơ thể và cắt chỉ xong mới 
cho xuất viện, không trường hợp nào phải 
ở lại viện thêm ngày do biến chứng sau 
mổ nội soi. 
Tai biến-biến chứng: do mới bước đầu 
triển khai kỹ thuật và số liệu còn ít nên 
chưa gặp tai biến-biến chứng nào đáng 
kể. Nghiên cứu của Gao Zhen-Li (2007), 
tỷ lệ tai biến-biến chứng của mổ nội soi 
đường qua ổ bụng 5,3%. Nougueira M 
(2005): tỷ lệ tai biến-biến chứng trong 200 
ca đầu là 17%, trong đó tổn thương mạch 
máu thận nhiều nhất (2,3%). Halgrimson 
W.R (2010) tổng hợp hơn 37 nghiên cứu 
cho thấy tỷ lệ tai biến và biến chứng 
chung lần lượt là 5,2% và 6,7%, trong đó: 
tổn thương ruột 0,4%; tổn thương gan, 
mạc treo ruột và lách 0,7%; tràn khí màng 
phổi 0,1%; tổn thương mạch 1,4%; tắc 
ruột sau mổ 0,5% và nhiễm trùng chân 
trocar 1,4% [8, 9, 10]. 
Kiểm tra chức năng thận ghép các 
ngày sau mổ đều trong giới hạn cho phép. 
Kiểm tra sau mổ 3 tháng được 2 BN, 
không có hiện tượng nhiễm trùng hay 
thoát vị chân trocar, BN đã trở về sinh 
hoạt bình thường. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật nội soi cắt thận trên người 
sống cho thận ghép là phương pháp an 
toàn, ít xâm lấn, mang tính thẩm mỹ cao 
và giúp người cho thận phục hồi sau mổ 
nhanh hơn. Tuy mới chỉ thực hiện được 
trên 3 trường hợp cắt thận phải nội soi 
qua ổ bụng, nhưng kết quả mang lại cho 
người cho thận là khả quan. Trong thời 
gian tới, chúng tôi sẽ chỉ định thường quy 
hơn cho những trường hợp cắt thận ghép 
trên người sống cho thận. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 78 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Bình Giang, Tôn Thất Bách. PTNS 
ổ bụng. Nhà xuất bản Y học. 2003. 
2. Lê Trung Hải. Ghép tạng - một số kiến 
thức chuyên ngành và quy trình kỹ thuật. 
Nhà xuất bản Y học. 2009. 
3. Trần Ngọc Sinh và CS. Kết quả cắt thận 
nội soi qua ngả sau phúc mạc để ghép tại 
Bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp chí Y học TP. Hồ 
Chí Minh. 2008, 12 (4), tr.175-181. 
4. A working party of the British 
Transplantation Society and the Renal 
Association. Giudelines for living donor kidney 
transplantation. 2000, Jan. 
5. Breda A, Bui M.H, Liao J.C, Albin G.H, 
Schulam P.G. Incidence of ureteral strictures 
after laparoscopic donor nephrectomy. The 
Journal of Urology. 2006, 176, pp.1065-1068. 
6. Bollens R. Laparoscopic living donor 
nephrectomy. Congress book of 17th annual 
meeting of FAUA. 2009. 
7. Chung Hsiao-Jen. Tips for a successful 
transperitoneal laparoscopic nephrectomy. 
JTUA. 2009, 20 (1), pp.4-9. 
8. Gao Zhen-Li et al. Comparison of 
transperitoneal and retroperitoneal laparoscopic 
living donor nephrectomy. Chin Med J. 2007, 
120 (4), pp.2314-2316. 
 9. Halgrimson W.R et al. Donor 
complications following laparoscopic 
compared to hand-assisted living donor 
nephrectomy: An analysis of the literature. 
Journal of Transplantation. 2010, p.10. 
10. Nogueira M, Kavoussi L.R, Bhayani 
S.B. Laparoscopic live donor nephrectomy: 
Current status. BJU International. 2005, 95 (2), 
pp.59-64.