Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 189
PHẪU THUẬT CẮT ĐẠI TRÀNG CHẬU HÔNG ‐ TRỰC TRÀNG 
NGÃ ĐÁY CHẬU ĐIỀU TRỊ SA TRỰC TRÀNG 
Nguyễn Thanh Phong*, Đỗ Bá Hùng* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Sa trực tràng là bệnh thường gặp ở khoa hậu môn trực tràng. Phẫu thuật cắt đại tràng chậu hông - 
trực tràng ngã đáy chậu (phẫu thuật Altemeier) thường dùng cho bệnh nhân lớn tuổi, nhiều nguy cơ, có tỉ lệ tái 
phát chấp nhận được, tỉ lệ biến chứng và tử vong thấp, không ảnh hưởng chức năng ruột sau mổ. 
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết quả sớm cắt đoạn đại tràng chậu hông và trực tràng qua ngã đáy chậu 
cho những bệnh nhân sa trực tràng có hay không có sa nghẹt. 
Đối tượng - Phương pháp: hồi cứu các trường hợp sa toàn bộ trực tràng được cắt đoạn đại tràng chậu hông 
và trực tràng qua ngã đáy chậu tại đơn vị hậu môn - trực tràng bệnh viện Bình Dân từ tháng 1/2015 đến tháng 
9/2017, bao gồm tỉ lệ tai biến, biến chứng, chức năng hậu môn trực tràng và tỉ lệ tái phát. 
Kết quả: Có 19 bệnh nhân bao gồm 13 nữ và 6 nam, tuổi trung bình 67,5 (thay đổi từ 33 đến 94 tuổi). Tất cả 
đều nhập viện vì khối sa ở hậu môn khi đi tiêu (100%), trong đó có 4 (21,1%) trường hợp sa nghẹt, tiêu máu 5 
(26,3%) trường hợp, táo bón 10 (52,6%) trường hợp và 1 (5,3%) trường hợp tiêu không tự chủ. Nội soi hậu môn 
trực tràng phát hiện 9 (47,4%) trường hợp viêm loét, hoại tử niêm mạc trực tràng, có 1 (5,3%) trường hợp chần 
đoán lầm với trĩ hỗn hợp độ 4. Chiều dài đoạn trực tràng cắt bỏ trung bình 10,9cm (thay đổi từ 3 đến 30cm). Thời 
gian nằm viện sau mổ trung bình 4,8 ngày (thay đổi từ 1 đến 10 ngày). Có 1 (5,3%) trường hợp tái phát, có 1 
(5,3%) trường hợp rỉ dịch hậu môn sau phẫu thuật và không có tử vong. Tỉ lệ mổ thành công 94,7% và bệnh 
nhân hài lòng 100%. Thời gian theo dõi sau mổ trung bình 3,8 tháng (thay đổi từ 2 đến 6 tháng). 
Kết luận: Phẫu thuật cắt đại tràng chậu hông - trực tràng ngã đáy chậu (phẫu thuật Altemeier) điều trị sa 
trực tràng là phẫu thuật an toàn, hiệu quả, tỉ lệ biến chứng sau mổ thấp và không có tử vong. Tỉ lệ tái phát ngắn 
hạn sau mổ thấp và không liên quan đến chiều dài đoạn trực tràng cắt bỏ. 
Từ khóa: Phẫu thuật Altemeier, cắt đoạn đại tràng chậu hông và trực tràng qua ngã đáy chậu, sa trực tràng 
ABSTRACT 
PERINEAL RECTOSIGMOIDECTOMY FOR RECTAL PROLAPSE 
Nguyen Thanh Phong, Do Ba Hung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 189 - 195 
Background: Rectal prolapse is a common occurrence in proctology department. Altemeier’s procedure 
(perineal rectosigmoidectomy) is the operation of choice for rectal prolapse in the elderly with high risks, the 
acceptable recurrence, lower mortality and morbidity with unaffected to functional bowel. 
The aim of the study: to evaluate the early results of the rectosigmoidectomy with perineal approach for 
treatment of total rectal prolapse with or without strangulated prolapse. 
Methods: Having retrospectively studied of all patients undergoing Altemeier’s procedure which regard to 
mortality, morbidity, anorectal function and recurrence rate, was treated in proctology unit at Binh Dan hospital 
from January 2015 to September 2017. 
* Bệnh viện Bình Dân. 
Tác giả liên lạc: PGS.Nguyễn Thanh Phong ĐT: 0901441266. Email:
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 190
Results: There were 19 patients including 13 females and 6 males with the mean age of 67.5 years (range 33 
to 94 years). Clinical manifestations were included: rectal prolapse 100%, strangulated 4 (21.1%) cases, rectal 
bleeding 5 (26.3%) cases, constipation 10 (52.6%) cases and faecal incontinence 1 (5.3%) case. With 100% 
routinely performed a sigmoidoscopy, there were 9 (47.4%) mucosal ulceration and necrosis, Stage IV hemorrhoid 
prolapse was misdiagnosed in 1 (5.3%) case. Mean rectal resection length of 10.9 cm (range 3 to 30 cm). Mean 
hospital stay was 4.8 (range 1-10) days. The recurrence rate was 1 (5.3%) case. There have been 1 (5.3%) 
complication case with temporary soilage of anus and no death. The successful rate was 94.7% and satisfied rate 
was 100%. Mean time following of 3.8 months (range 2 to 6 months). 
Conclusion: perineal rectosigmoidectomy for rectal prolapse is safe and effect, postoperative complication 
rate was low, without death. The short-term recurrence rate after the Altemeier procedure was low and not related 
to rectal resection length. 
Key words: Altemeier’s procedure, perineal rectosigmoidectomy, rectal prolapse 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sa toàn bộ thành trực tràng thường kết hợp 
với nhiều bất thường khác của sàn chậu như: túi 
cùng Douglas xuống thấp, cơ sàn chậu và cơ 
vòng hậu môn yếu và mất sự cố định của trực 
tràng. Triệu chứng thường gặp là táo bón và tiêu 
không tự chủ. Điều trị chủ yếu là phẫu thuật 
nhằm mục tiêu phục hồi giải phẫu vùng chậu, 
cải thiện triệu chứng và ít tái phát. 
Có nhiều phương pháp điều trị được báo 
cáo trong y văn và cho đến nay vẫn còn chưa 
thống nhất, cho thấy điều trị sa trực tràng vẫn 
còn nhiều vấn đề. Phẫu thuật ngã bụng ngày 
càng phổ biến và ngã đáy chậu là chọn lựa tốt 
nhất kế tiếp cho những bệnh nhân lớn tuổi với 
nguy cơ phẫu thuật cao, những người không 
đòi hỏi chất lượng sống sau phẫu thuật quá 
cao, có bệnh tâm thần, nam giới và sa trực 
tràng nghẹt(5). 
Phẫu thuật cắt đại tràng chậu hông - trực 
tràng ngã đáy chậu có tỉ lệ tái phát chấp nhận 
được, tỉ lệ biến chứng và tử vong thấp, không 
ảnh hưởng chức năng ruột sau mổ nên thường 
được chỉ định. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết 
quả sớm phẫu thuật cắt đoạn đại tràng chậu 
hông và trực tràng qua ngã đáy chậu (phẫu 
thuật Altemeier) cho những bệnh nhân sa trực 
tràng có hay không có sa nghẹt. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu hồi cứu 19 trường hợp phẫu 
thuật cắt đoạn đại tràng chậu hông và trực tràng 
qua ngã đáy chậu (phẫu thuật Altemeier) cho 
những bệnh nhân sa trực tràng có hay không có 
sa nghẹt tại khoa ngoại tiêu hóa bệnh viện Bình 
Dân từ tháng 1/2015 đến 9/2017. 
Loại trừ những trường hợp giảm hay mất 
trương lực cơ thắt hậu môn. 
Theo mức độ sa chia làm 4 độ: 
Độ 1: trực tràng chỉ sa khi gắng sức mạnh, 
khi rặn đại tiện sau đó tự co lại nhanh chóng. 
Chiều dài của đoạn sa 3 - 5 cm, toàn thân không 
có ảnh hưởng gì, các than phiền của bệnh nhân 
chỉ do đoạn trực tràng sa gây nên. 
Độ 2: trực tràng luôn sa khi đại tiện tự co lên 
rất chậm phải lấy tay đẩy vào, có các vết trợt ở 
niêm mạc, phù nề niêm mạc, hậu môn bị lõm 
vào, cơ thắt có thay đổi ít, toàn thân bình thường, 
đoạn trực tràng sa dài 6 - 8 cm. 
Độ 3: trực tràng sa khi gắng sức nhẹ (ho, 
cười, hắt hơi, đi bộ, ngồi xổm...) và không tự co 
vào được. Niêm mạc tuyến của trực tràng bị hoại 
tử từng đám một vài nơi có sẹo, hậu môn mất 
trương lực cơ thắt nhão. Tinh thần bị ức chế, 
niêm mạc chảy máu, trung tiện mất tự chủ, đoạn 
ruột sa dài 9 - 12 cm. 
Độ 4: ruột sa thường xuyên liên tục khi đi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 191
bộ, khi đứng. Niêm mạc tuyến bị loét hoại tử, 
thành sẹo, cơ thắt mất trương lực, trung đại 
tiện mất tự chủ. Rối loạn cảm giác vùng hậu 
môn, eczema vùng đáy chậu; đoạn ruột sa dài 
trên 12 cm. 
Đánh giá tự chủ sau mổ của hậu môn theo 4 
mức độ: 
-Tự chủ hoàn toàn bình thường. 
-Không tự chủ với phân lỏng. 
-Không tự chủ với phân đặc. 
-Không tự chủ với hơi, phân lỏng và đặc. 
Độ I và II coi như tiêu tự chủ còn độ III và IV 
là tiêu không tự chủ. 
Chưa thực hiện xét nghiệm đánh giá trương 
lực cơ thắt hậu môn 
Thời gian nằm viện sau mổ được tính từ 
ngày phẫu thuật đến khi xuất viện. 
Tỉ lệ mổ thành công, thất bại: Phẫu thuật 
được xem là thất bại khi chuyển sang kỹ thuật 
khác hay tái phát trong thời gian 6 tháng sau mổ. 
Mức độ hài lòng của bệnh nhân: 
Trước khi xuất viện hướng dẫn cho bệnh 
nhân tự đánh giá mức độ hài lòng của mình về 
cuộc mổ giống như cách đánh giá của thang VAS 
với câu hỏi: Ông/Bà có hài lòng về cải thiện triệu 
chứng sau mổ của mình không? Tuỳ theo mức 
độ hài lòng mà bệnh nhân chọn cho thích hợp. 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 
Không hài lòng Rất hài lòng 
Bảng 1: Mức độ hài lòng 
Mức độ hài 
lòng 
Rất 
tốt 
Tốt Trung 
bình 
Chấp nhận 
được 
Không chấp 
nhận 
Số điểm 9-10 7-8 5-6 3-4 1-2 
Phương pháp phẫu thuật 
Tất cả bệnh nhân được chuẩn bị ruột và 
kháng sinh dự phòng trước mổ. 
Phương pháp vô cảm: bệnh nhân đều được 
gây tê tủy sống để phẫu thuật cắt đoạn đại tràng 
chậu hông và trực tràng. 
Bệnh nhân được đặt ở tư thế sản phụ khoa 
khi phẫu thuật. 
Khi tiến hành phẫu thuật, xác định đường 
lược (ranh giới da niêm). Sau đó tiến hành cắt 
vòng toàn bộ thành trực tràng bằng dao đốt điện 
hay siêu âm cách đường lược 1 – 2cm. Túi cùng 
Douglas được bộc lộ hay cắt nếu cần và khâu lại 
vào cuối thì phẫu thuật để ngoại phúc mạc 
miệng nối đại tràng-hậu môn. Mạc treo trực 
tràng và đại tràng chậu hông được kẹp cắt lần 
lượt cho đến khi không thể di động thêm đại 
tràng chậu hông. 
Cắt đoạn đại trực tràng. Sau đó khâu nối 
đại tràng chậu hông – hậu môn 1 lớp mũi rời 
chỉ vicryl 2.0. 
Thời gian và chăm sóc hậu phẫu: Sau mổ 
bệnh nhân được cho ăn bằng đường miệng và 
xuất viện từ 4 - 5 ngày sau mổ. Do vết khâu nối 
nằm sâu trong ống hậu môn nên bệnh nhân 
không có cảm giác đau và không cần phải thay 
băng hay chăm sóc vết thương hàng ngày. 
Thời gian theo dõi kết quả sớm sau mổ là 2 
đến 6 tháng. 
KẾT QUẢ 
Tổng cộng 19 bệnh nhân sa trực tràng có hay 
không sa nghẹt được phẫu thuật Altemeier và 
thu thập dữ liệu đưa vào nghiên cứu. 
Dịch tễ học: Tuổi trung bình của bệnh nhân 
67. Tuổi nhỏ nhất là 33 và cao nhất là 94 tuổi. 
Trong số 19 bệnh nhân được thực hiện phẫu 
thuật cắt đoạn đại tràng chậu hông và trực tràng 
để điều trị sa trực tràng, có 6 bệnh nhân nam và 
13 bệnh nhân nữ, tỉ lệ nam/nữ là 1:2. Trong đó 
tuổi trung bình của bệnh nhân nam là 46,7 và 
tuổi trung bình của nữ là 77,1. 
Tất cả bệnh nhân đều là ASA II hay III 
không có ASA IV. 
Có 4 trường hợp có tiền sử phẫu thuật trước 
đó gồm: 1 trường hợp phẫu thuật khâu treo, 1 
trường hợp phẫu thuật Longo, 1 trường hợp 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 192
được phẫu thuật Altemeier và 1 trường hợp cắt 
tử cung. 
Bảng 2. Đặc điểm bệnh nhân. 
Tuổi trung bình 67,5 (33- 94) 
Nam 46,7 (33-65 ) 
Nữ 77,1 (60-94) 
Nguy cơ 
ASA II 14 
ASA III 5 
Thời gian mắc bệnh (năm) 3 (1-20) 
Chiều dài khối sa (cm) 8,3 (3-20) 
Có một bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu 
có tiền sử bệnh tâm thần và một mù mắt do teo 
gai thị. 
Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng. 
 Số bệnh nhân 
Tỉ lệ % 
Táo bón 10 52,6 
Tiêu không tự chủ 1 5,3 
Chảy máu 5 26,3 
Khối sa khi đi tiêu 19 100 
Sa nghẹt 4 21,1 
Tất cả bệnh nhân được soi hậu môn trực 
tràng kết quả: có 9 (47,4%) trường hợp viêm loét 
hoại tử niêm mạc. 
Có 4 trường hợp sa nghẹt trong đó có 2 
trường hợp hoại tử khối sa trực tràng nghẹt. 
Có 2 trường hợp được thực hiện 
Videoproctoscope có hình ảnh sa trực tràng. 
Có 4 trường hợp được thực hiện MRI 
defecogrhaphy, phát hiện 2 trường hợp có sa tử 
cung và sa bàng quang độ I. 
Sa trực tràng độ 1 có 1 trường hợp (5,3%), độ 
2 có 2 trường hợp (10,6%), độ 3 có 15 trường hợp 
(78,9%), độ 4 có 1 trường hợp(5,3%). 
Tất cả bệnh nhân đều được cắt đoạn đại trực 
tràng và không có trường hợp nào khâu cơ nâng 
qua ngã tầng sinh môn. Bệnh nhân được khâu 
nối bằng tay với chỉ Vicryl 00, khâu 1 lớp. 
Có 11 trươờng hợp (57,9%) đoạn ruột cắt bỏ 
dài hơn 10cm. Chiều dài đoạn trực tràng cắt bỏ 
trung bình 10,9cm (thay đổi từ 3 đến 30cm). 
Thời gian nằm viện 
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 4,8 
ngày (thay đổi từ 1 đến 10 ngày). 
Biến chứng và tái phát sau mổ 
Trong thời gian theo dõi trung bình 3,8 
tháng (thay đổi từ 2 đến 6 tháng), chúng tôi 
nhận thấy có 1(5,9%) trường hợp tái phát (tỉ lệ 
thành công 94,7%), có 1(5,3%) trường hợp rỉ 
dịch hậu môn sau phẫu thuật và 1/10(10%) 
trường hợp vẫn còn tiêu khó, đi cầu tự chủ 
hoàn toàn và 100% bệnh nhân hoàn toàn hài 
lòng với phẫu thuật. Không có trường hợp nào 
có rối loạn chức năng niệu – dục sau mổ. 
Không có tử vong sau mổ. 
BÀN LUẬN 
Dịch tễ 
Sa trực tràng là bệnh tương đối phổ biến ở 
các nước phương Tây với tỉ lệ là 420/100000 dân. 
Trên 65 tuổi, tỉ lệ này là 1000/100000. Bệnh xảy ra 
chủ yếu ở phụ nữ trung niên và lớn tuổi cùng 
với sa tạng chậu khác như sa bàng quang, tử 
cung. Yếu tố nguy cơ gây sa trực tràng thì tương 
tự với sa tạng chậu như túi cùng Douglas thấp 
bất thường, giãn và mất trương lực cơ sàn chậu 
và ống hậu môn, suy yếu cơ thắt ngoài và cơ thắt 
trong hậu môn, thường kết hợp với bệnh thần 
kinh sinh dục và thiếu sự cố định trực tràng. 
Phụ nữ trên 50 tuổi thường dễ bị sa trực 
tràng gấp 6 lần so với nam giới(1), mặc dù cho 
đến nay nhiều tác giả đều cho rằng sa trực tràng 
là hậu quả của việc sinh đẻ nhiều và khoảng 1/3 
bệnh nhân nữ sa trực tràng là có nhiều con. Tuổi 
thường gặp nhất là nữ trên 70 tuổi, ngược lại 
bệnh nhân nam thường gặp là dưới 40 tuổi, đặc 
điểm nổi bật nhất ở bệnh nhân trẻ là bệnh tâm 
thần tự kỷ, bệnh nhân trẻ sa trực tràng thường 
có triệu chứng đặc hiệu liên quan đến chức năng 
đại tràng đặc biệt là tống xuất phân. 
Theo Mark(6), có 61 (96,8%) bệnh nhân được 
phẫu thuật Altemeier điều trị sa trực tràng là nữ. 
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 79 tuổi. 
Một nghiên cứu khác cũng nhận thấy có đến 
90% bệnh nhân là phái nữ(3), tần suất bệnh 
thường gặp ở trẻ con và người lớn tuổi. Tiền sử 
bệnh nhân có bệnh tâm thần chiếm đến 50% các 
trường hợp(3). Trong nghiên cứu này, tuy mẫu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 193
còn nhỏ nhưng chúng tôi nhận thấy sa trực tràng 
có thể xảy ra ở những bệnh nhân trẻ (33 tuổi). Và 
tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu 
là 67,5 tuổi. Trong số 19 bệnh nhân được thực 
hiện phẫu thuật cắt đoạn đại tràng chậu hông và 
trực tràng để điều trị sa trực tràng, có 6 (31,6%) 
bệnh nhân phái nam và 13 (68,4%) bệnh nhân là 
nữ. Trong đó tuổi trung bình của bệnh nhân 
nam là 46,7, tuổi trung bình của nữ là 77,1; có 
một (5,3%) bệnh nhân nam trong nhóm nghiên 
cứu có tiền sử bệnh tâm thần. 
Đặc điểm lâm sàng 
Sa trực tràng xảy ra khi gắng sức, thường 
kèm cảm giác mót rặn, tiểu khó, ho kéo dài hay 
do di truyền, có nhiều yếu tố khác cũng góp 
phần gây sa trực tràng như: khối u vùng chậu, 
chế độ ăn hay hóa chất. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi không xác định nguyên nhân hay yếu 
tố thuận lợi gây sa trực tràng. 
Khối sa ở hậu môn, lúc đầu thường nhỏ 
ngắn, xuất hiện khi đi cầu. Kèm theo là thỉnh 
thoảng có triệu chứng chảy máu khi đi tiêu làm 
bệnh nhân lầm tưởng với bệnh trĩ. Trong nhiên 
cứu này, tất cả bệnh nhân (100%) đều nhập viện 
vì khối sa ra ngoài hậu môn khi đi tiêu kèm theo 
là triệu chứng táo bón (52,6%), tiêu không tự chủ 
không thường gặp (5,3%), chảy máu khi đi tiêu 
(26,3%) làm bệnh nhân lầm tưởng với bệnh trĩ. 
Nếu thầy thuốc không thăm khám lâm sàng cẩn 
thận thì cũng dễ dàng chẩn đoán lầm với bệnh 
trĩ. Chúng tôi có 1 (5,3%) trường hợp chẩn đoán 
lầm trước mổ là trĩ hỗn hợp độ 4, vì khi thăm 
khám hay ngay cả nội soi hậu môn trực tràng 
cũng không phát hiện được sa trực tràng nếu 
khối sa trực tràng đã tụt vào. 
Khi khám bệnh nhân ngồi ở tư thế ngồi 
xổm hay chụp Videoproctoscopy hay khi khối 
sa kẹt hay nghẹt thì mới dễ dàng phát hiện 
được bệnh. Tại bệnh viện chúng tôi vừa mới 
trang bị máy chụp Videoproctoscopy nên trong 
nghiên cứu này chỉ có 2 trường hợp được thực 
hiện và giúp chẩn đoán chính xác bệnh. Tuy số 
ca còn ít nhưng chúng tôi nhận thấy chẩn đoán 
có thể có được một cách rõ ràng và khách quan 
khi cho thực hiện chụp Videoproctoscopy. Biện 
pháp này còn giúp chẩn đoán phân biệt giữa 
bệnh trĩ và sa trực tràng cũng như chẩn đoán 
chính xác mức độ sa của trĩ hay sa trực tràng. 
Một số bệnh nhân đã được chẩn đoán lầm giữa 
sa trực tràng và trĩ. Hậu quả là hoại tử trực 
tràng sa do đắp thuốc. 
Nội soi đại tràng sigma hay khung đại tràng 
bằng ống soi mềm là cần thiết để loại trừ bất kỳ 
sang thương lành tính hay ác tính mà có thể 
đóng vai trò như điểm khởi phát của lồng đại 
trực tràng, hơn nữa cần phải loại trừ những ổ 
loét trực tràng đơn độc có thể do sa trực tràng 
nội. Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu này đều 
được soi sigma- hậu môn trực tràng kết quả: có 9 
(47,4%) trường hợp viêm loét hoại tử niêm mạc, 
không có trường hợp nào có khối u bất thường ở 
trực tràng. 
Rentsch(8) cho rằng chụp MRI defecography 
có ích trong những trường hợp có rối loạn sàn 
chậu kết hợp, đặc biệt là ở bệnh nhân có rối loạn 
khác liên quan nhiều hơn một tạng- chậu mà 
không phát hiện được khi chưa có chẩn đoán hổ 
trợ khác như Videoproctoscope. Tác giả cũng so 
sánh chụp MRI defecography với khám lâm 
sàng cho thấy chỉ phù hợp chẩn đoán là 77,3% 
trường hợp và phát hiện thêm các khiếm khuyết 
tạng- chậu khác mà lâm sàng không phát hiện 
được trong 34% các bệnh nhân, MRI 
defecogrhaphy còn giúp phát hiện các thương 
tổn giải phẫu: khe cơ nâng (đường H), mạc treo 
trực tràng dài, đại tràng chậu hông dài, lồng 
trong trực tràng - ống hậu môn. Nghiên cứu của 
chúng tôi, 4 trường hợp được thực hiện MRI 
defecogrhaphy, có 2 (50%) trường hợp phù hợp 
chẩn đoán và phát hiện 2 (50%) trường hợp có sa 
tử cung và sa bàng quang độ I kèm theo mà 
không phát hiện được khi thăm khám lâm sàng. 
Niêm mạc trực tràng sa dễ bị phù nề và viêm 
loét hoại tử. Khi sa trực tràng lớp thanh mạc trực 
tràng (phúc mạc tạng) bị xếp nếp và có thể viêm 
dính gây kẹt. Chúng tôi có 9 (47,4%) trường hợp 
viêm loét hoại tử niêm mạc trực tràng khi soi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 194
hậu môn trực tràng và 4 (21,1%) trường hợp sa 
nghẹt, trong đó có 2 (10,5%) trường hợp hoại tử 
khối sa trực tràng nghẹt. 
Chiều dài khối sa trực tràng: Trong 19 bệnh 
nhân của chúng tôi, chiều dài khối sa trực tràng 
trung bình là 8,3 cm (ngắn nhất 3 cm và dài nhất 
là 20 cm). Chiều dài khối sa trực tràng phụ thuộc 
vào thời gian bệnh và nhóm bệnh nhân nghiên 
cứu. Mark(6) nhận thấy chiều dài trung bình của 
đoạn ruột đại trực tràng được cắt đoạn vào 
khoảng 12 cm. 
Phương pháp vô cảm: Tất cả bệnh nhân 
trong nghiên cứu đều được thực hiện vô cảm 
bằng gây tê tủy sống thành công, không có bệnh 
nhân nào phải chuyển sang gây mê toàn thân. 
Kết quả này cũng giống như trong nghiên cứu 
của Mark(6): có 70% bệnh nhân được thực hiện vô 
cảm vùng hay gây tê tủy sống. 
Kỹ thuật mổ: Khiếm khuyết giải phẫu có thể 
có trong sa trực tràng bao gồm: khiếm khuyết 
trên cơ sàn chậu với sự dãn rộng của cơ nâng 
hậu môn và sự suy yếu của các mạc vùng chậu, 
túi cùng Douglas xuống thấp một cách bất 
thường, đại tràng chậu hông dài, cơ vòng hậu 
môn bị yếu, mất vị thế nằm ngang của trực tràng 
do sự gắn kết lỏng lẻo của trực tràng vào xương 
cùng và vách chậu. Tuy nhiên, không phải tất cả 
các bệnh nhân đều có tất cả các khiếm khuyết 
giải phẫu nói trên. Cũng như không có một 
phương pháp mổ nào khắc phục được cùng một 
lúc tất cả các khiếm khuyết này. 
Do vậy có rất nhiều loại phẫu thuật để điều 
trị sa trực tràng, có hơn 100 phẫu thuật khác 
nhau để điều trị sa trực tràng(3). Cắt trực tràng 
đại tràng chậu hông ngã đáy chậu được Mikulicz 
đề xướng đầu tiên vào năm 1893. Miles là người 
ủng hộ mạnh mẽ cho phẫu thuật này vào năm 
1933 và trong suốt những năm sau đó phương 
pháp này là một chọn lựa ưa thích của các phẫu 
thuật viên ở Anh. Năm 1971, Altemeier là người 
báo cáo kết quả tốt nhất của phẫu thuật này và 
làm cho nó trở nên phổ biến ở Mỹ. Từ đó trở đi, 
phẫu thuật này gắn liền với tên Altemeier. 
Glasgow(3) cho rằng nếu có tạo hình cơ nâng 
thì kết quả kém hơn, nguyên nhân là do thời 
gian dài suy yếu của sàn chậu và cơ vòng hậu 
môn có liên quan đến thời gian mắc bệnh của 
bệnh nhân, mặc dù không có mối liên quan giữa 
thời gian mắc bệnh và rối loạn chức năng đại 
tiện của bệnh nhân có ý nghĩa thống kê. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp 
nào tạo hình cơ nâng và qua theo dõi chúng tôi 
nhận thấy không có trường hợp nào bị rối loạn 
chức năng đại tiện. 
Chiều dài đoạn ruột cắt bỏ: Theo Ris(8) Cải 
thiện chức năng tự chủ thường ở bệnh nhân có 
thời gian mắc bệnh ngắn và không liên quan 
chiều dài chiều dài đoạn ruột cắt bỏ. Điều này 
cũng phù hợp nghiên cứu của chúng tôi chiều 
dài trung bình đoạn ruột cắt bỏ là 10,9cm (thay 
đổi từ 3 đến 30cm), Có 11 (57,9%) trường hợp 
đoạn ruột cắt bỏ dài hơn 10cm nhưng không có 
triệu chứng tiêu không tự chủ sau mổ. 
Về chức năng: Nhiều nghiên cứu cho rằng 
phẫu thuật Altemeier thì không hiệu quả 
nhưng nghiên cứu của Ri (8) cho thấy cải thiện 
triệu chứng tiêu không tự chủ sau mổ lên đến 
62% và cũng phù hợp với nghiên cứu của 
chúng tôi 1 (5,3%) trường hợp bệnh nhân có 
triệu chứng tiêu không tự chủ trước mổ thì 
theo dõi sau mổ bệnh nhân cải thiện triệu 
chứng không còn tiêu không tự chủ, chức 
năng tự chủ của tất cả bệnh nhân còn lại thì ổn 
định trong thời gian theo dõi ngắn hạn trong 
nghiên cứu này. Chỉ có 1/10 (10%) trường hợp 
vẫn còn tiêu khó khi tái khám. 
Biến chứng, tử vong, tái phát 
Theo dõi bệnh nhân với thời gian trung vị 
gần 21 tháng, Mark nhận thấy tỉ lệ tái phát là 
6,4% và bệnh nhân có thể được phẫu thuật lại 
bằng phương pháp Altemeier. Tất cả bệnh nhân 
sau mổ đều trở lại bình thường khi thăm khám, 
87% bệnh nhân hài lòng hoàn toàn với phẫu 
thuật (1). Các tác giả khác tỉ lệ tái phát từ 3-16%. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 195
Theo Ris(8) thuận lợi của phẫu thuật 
Altemeier là dễ dàng thực hiện phẫu thuật lại 
nếu bị tái phát mặc dù tỉ lệ tái phát lại sẽ cao hơn 
trong trường hợp mổ lại này và thuận lợi khác là 
phẫu thuật này không để lại sẹo mổ giống như 
phẫu thuật qua lỗ tự nhiên của cơ thể(8). 
Do thời gian theo dõi ngắn, chỉ 2 - 6 tháng 
sau mổ, chúng tôi có một (5,3%) trường hợp tái 
phát khi tái khám và bệnh nhân được phẫu thuật 
Altemeier lại mặc dù đã cắt bỏ đoạn trực tràng 
dài 10cm trong phẫu thuật trước đó và lần này 
đoạn đại tràng cắt bỏ dài 15cm có lẽ là do bệnh 
nhân có đại tràng chậu hông dài nhưng lần mổ 
trước có lẽ đã cắt không đủ rộng. Toàn bộ bệnh 
nhân đều hài lòng với kết quả phẫu thuật, không 
có trường hợp nào rối loạn chức năng đại tiện. 
Tỉ lệ biến chứng của phẫu thuật này đã được 
báo cáo thay đổi từ 1,8 - 12,5% so với 5 - 10% 
phẫu thuật ngã bụng(8); trong nghiên cứu của 
chúng tôi 1 (5,3%) trường hợp có biến chứng rỉ 
dịch hậu môn sau phẫu thuật 2 tuần sau mổ, và 
không tử vong (mặc dù tất cả bệnh nhân đều là 
ASA II hay III không có ASA IV), cho thấy phẫu 
thuật này có thể áp dụng cho những bệnh nhân 
có nguy cơ cao. 
Nghiên cứu này cho thấy phẫu thuật 
Altemeier thì an toàn và hiệu quả không có biến 
chứng và tử vong, không có trường hợp nào rối 
loạn chức năng đi tiểu và tình dục. Thuận lợi của 
phẫu thuật này là không có sẹo mổ nhìn thấy 
bên ngoài, không làm biến dạng lỗ hậu môn và 
không đau vì phẫu thuật vùng không có thần 
kinh cảm giác. 
Là phẫu thuật ít xâm hại tầng sinh môn tránh 
tổn thương thần kinh vùng chậu, tỉ lệ tái phát có 
thẻ chấp nhận được. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật cắt đại tràng chậu hông - trực 
tràng ngã đáy chậu (phẫu thuật Altemeier) điều 
trị sa trực tràng là phẫu thuật an toàn, hiệu quả; 
tỉ lệ biến chứng sau mổ thấp và không có tử 
vong. Tỉ lệ tái phát ngắn hạn sau mổ thấp và 
không liên quan đến chiều dài đoạn trực tràng 
cắt bỏ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Azimuddin K, Khubchandani I, Rosen L. (2001). Rectal 
prolapse: a search for the ‘best’ operation. Am Surg 67: 622–
627. 
2. Frykman H, Goldberg S (1969). The surgical treatment of 
rectal procidentia. Surg Gynecol Obstet. 129:1225–1230. 
3. Glasgow S, Birnbaum E, Kodner I (2008). Recurrence and 
quality of life following perineal proctectomy for rectal 
prolapse. J Gastrointest Surg 12: 1446–1451. 
4. Graf W, Karlbom U, Pahlman L, (1996). Functional results 
after abdominal suture rectopexy for rectal prolapse or 
intussusception. Eur J Surg.162:905–911. 
5. Habr-Gama A, Jacob C, Jorge (2006). Rectal procidentia 
treatment by perineal rectosigmoidectomy combined with 
levator ani repair. Hepatogastroenterology 53: 213–217. 
6. Mark K, Brent E, John Isler, Richard B (2001). The Altemeier 
repair: Outpatient treatment of rectal prolapse. Dis Col Rect: 
565-579. 
7. Rentsch M, Paetzel C, Lenhart M, (2001). Dynamic magnetic 
resonance imaging defecography: a diagnostic alternative in 
the assessment of pelvic floor disorders in proctology. Dis 
Colon Rectum. 44 (7): 999-1007. 
8. Ris J., Colin M., Chilcott. (2011). Altemeier’s procedure for 
rectal prolapse: analysis of long-term outcome in 60 patients. 
The Association of Coloproctology of Great Britain and Ireland. 14, 
1106–1111. 
Ngày nhận bài báo: 10/10/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018