86 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Năng lực tự chủ (NLTC) của người học như 
đã được nghiên cứu trong bài viết trước của tác 
giả Ngô Phương Anh (2017), cũng như trong 
nhiều bài viết cùng đề tài của các học giả như 
Holec (1981), Dam (1995), Little (2009), đó là 
khả năng vốn có của người học, là kỹ năng tự 
chịu trách nhiệm trong học tập của người học. 
Đây là một năng lực chịu chi phối và tác động 
đa chiều bởi các nhóm yếu tố mà tác giả bài viết 
quy về hai nhóm chính, đó là chủ quan và khách 
quan. Yếu tố chủ quan bao gồm đặc điểm liên 
NGÔ PHƯƠNG ANH*
*Đại học Bách khoa Hà Nội, ✉ 
[email protected]
Ngày nhận: 21/3/2017; Ngày hoàn thiện: 29/4/2017; Ngày duyệt đăng: 10/5/2017
NHỮNG YẾU TỐ NGOẠI CẢNH
ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC NÂNG CAO 
NĂNG LỰC TỰ CHỦ CHO NGƯỜI HỌC
TÓM TẮT
Năng lực tự chủ (NLTC) của người học chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bên cạnh 
những yếu tố liên quan trực tiếp đến đặc điểm cá nhân người học như thói quen, sở thích, nhu 
cầu học tập, còn có những yếu tố ngoại cảnh như điều kiện văn hóa, môi trường sống, môi trường 
học tập, đặc điểm chính trị, xã hội của người học. Để phát triển NLTC của người học một cách có 
hiệu quả, người dạy cần nhận thức rõ ràng và đầy đủ các yếu tố tác động đến nó. Bài viết này đi 
sâu vào phân tích các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới NLTC của người học, với hi vọng giúp các 
nhà quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu, các nhà lý luận sư phạm, người dạy và người học nhận 
thức được rõ những yếu tố có tác động tích cực tới việc phát huy NLTC của người học cũng như 
những yếu tố tiềm ẩn gây khó khăn, kìm hãm quá trình nâng cao NLTC của người học. Từ đó, họ 
có cơ sở để lựa chọn, áp dụng hoặc xây dựng các phương pháp nâng cao NLTC của người học sao 
cho phù hợp với đặc điểm môi trường chính trị xã hội xung quanh người học.
Từ khóa: ảnh hưởng, chính trị, năng lực tự chủ, văn hóa, xã hội. 
quan đến cá nhân người học trong đó có thói 
quen, sở thích, nhu cầu của người học. Yếu tố 
khách quan bao gồm các điều kiện ngoại cảnh 
như văn hóa, môi trường, chính trị, xã hội bao 
quanh người học. Để phát triển NLTC một cách 
có hiệu quả, người học cũng như người dạy cần 
nhận thức rõ ràng và đầy đủ các yếu tố này. Trong 
khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tập trung đi 
sâu vào phân tích các yếu tố ngoại cảnh có ảnh 
hưởng tới NLTC của người học nhằm giúp các 
nhà quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu, các 
nhà lý luận sư phạm, giáo viên, người học xác 
87KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
định được rõ những các yếu tố có tiềm năng thúc 
đẩy hoặc có nguy cơ cản trở quá trình nâng cao 
NLTC của người học. Trước hết bài viết sẽ trình 
bày các yếu tố văn hóa xã hội, sau đó là yếu tố 
môi trường lớp học và cuối cùng là văn hóa dạy 
và học. Tiếp theo đó là một số nhận xét và đề 
xuất của tác giả bài viết về việc phát triển NLTC 
của người học. 
2. YẾU TỐ VĂN HÓA, XÃ HỘI TÁC 
ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC TỰ CHỦ CỦA 
NGƯỜI HỌC
Một trong những yếu tố khách quan tác động 
đáng kể đến hiệu quả phát huy NLTC của người 
học là yếu tố văn hóa, xã hội. Trên thực tế, mối 
quan hệ qua lại giữa NLTC và văn hóa đã được 
nghiên cứu bởi nhiều học giả như Jones (1995) 
(với đối tượng người học Campuchia), Ho và 
Crookall (1995) (người học Trung Quốc ở Hồng 
Kông), Aoki và Smith (1996) (người học Nhật), 
Marshall và Torpey (1997) (người học Nhật). 
Đối với các học giả phương Tây, NLTC được 
cho là gắn với những giá trị về sự tự do. Tuy 
nhiên, các nhà nghiên cứu NLTC ở châu Á vừa 
kể trên lại phát hiện ra mối quan hệ mật thiết 
giữa yếu tố tự chủ của người học và bối cảnh học 
tập (truyền thống văn hóa) và họ chứng minh 
rằng NLTC của người học không phải là một yếu 
tố bất biến và đơn lẻ. 
Xét về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, các 
nước châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc, 
Singapore, Hàn quốc, Nhật Bản đều ít nhiều 
chịu ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Khổng 
Tử - xoay quanh việc tuân thủ các chuẩn mực 
đạo đức gia đình, nhà trường, xã hội, đề cao vai 
trò của những người thầy trong xã hội. Những 
tư tưởng này đã chi phối, định hướng hành vi, 
thái độ và các mối quan hệ xã hội của con người 
trong đó có quan hệ thầy-trò. Mặc dù ngày nay 
tư tưởng phương Tây ít nhiều ảnh hưởng, xâm 
nhập và làm thay đổi tư duy của một bộ phận 
người học, nhưng dấu ấn của tư tưởng nho giáo 
mà trong đó thầy giáo được coi là nắm giữ vai 
trò trung tâm trong môi trường giáo dục vẫn tồn 
tại và có ảnh hưởng không nhỏ đối với thực tiễn 
các hoạt động giáo dục. Nó được thể hiện khá rõ 
trên các mặt như: khoảng cách quyền lực giữa 
thầy và trò, niềm tin của thầy và trò, tư tưởng tập 
thể, tư tưởng cạnh tranh trong lớp học. Chẳng 
hạn, đối với người Trung Quốc, quan hệ thầy-trò 
là quan hệ trên dưới, người học coi người dạy 
như những người có quyền lực tối cao trong lớp 
học, và việc yêu cầu người học tôn trọng tuyệt 
đối người dạy là điều tất yếu.
Sự khác nhau giữa quan niệm về vai trò người 
dạy của người Á Đông và người phương Tây 
được miêu tả rất rõ trong Ho và Crookall (1995), 
đó là, người châu Á coi trọng sự quan tâm, lòng 
nhân từ, tính khuôn mẫu, mực thước của người 
dạy và quyền lực gần như tối cao của họ. Trong 
khi đó người phương Tây lại coi quyền lực người 
dạy là yếu tố cản trở, hạn chế NLTC và làm cho 
người học trở nên phụ thuộc. Cũng cần lưu ý, khái 
niệm quyền lực tuyệt đối của người dạy trong 
văn hóa phương Đông đồng nghĩa với việc người 
dạy hoàn toàn chịu trách nhiệm về người học. 
Nền văn hóa Nhật Bản là nền văn hóa đề cao 
tính tập thể, cộng đồng, NLTC của người học 
trước đây không được coi trọng vì người ta quan 
tâm nhiều đến trách nhiệm với cộng đồng, với 
tập thể. Do vậy, ngày nay để nâng cao nhận thức 
về tự chủ, các nhà sư phạm Nhật Bản đang cố 
gắng gắn NLTC với yếu tố cá nhân, thúc đẩy yếu 
tố cá nhân hơn nữa. Thực tế, mục tiêu của các 
nền giáo dục vốn đề cao trách nhiệm tập thể, xã 
hội là hoàn toàn khác so với nền giáo dục ưu tiên 
yếu tố cá nhân. Cụ thể, ở xã hội coi trọng quyền 
lợi cá nhân, nền giáo dục của họ cố gắng trang bị 
cho từng cá nhân người học nền tảng kiến thức, 
kỹ năng nhằm đáp ứng yêu cầu của một vị trí 
xã hội. Điều này có nghĩa là các cá nhân đều 
phải học cách xử lý những tình huống mới, tình 
huống chưa từng gặp và không thể đoán trước. 
Thái độ của cá nhân trong xã hội này là ủng hộ 
những cái mới. Ngược lại, trong một xã hội đề 
cao vai trò, trách nhiệm và tinh thần tập thể như 
88 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ở châu Á, giáo dục lại nhấn mạnh vào việc cung cấp cho người học những kỹ năng, thói quen giúp 
tăng cường khả năng thích nghi của họ, để họ được tập thể chấp nhận. Và nền giáo dục này thường 
hướng tới đối tượng người học trẻ tuổi. 
Việt Nam cũng thuộc nền văn hóa coi trọng tinh thần cộng đồng, tập thể, trong đó, tư tưởng của 
con người bị ảnh hưởng rất lớn bởi Khổng giáo và Phật giáo. Ngay từ nhỏ, một đứa trẻ đã được các 
bậc tiền bối dạy về những quy tắc ứng xử, các khuôn phép xã hội và bổn phận của người làm con. 
Các mối quan hệ đều được xác định khoảng cách một cách rạch ròi như quan hệ vua-tôi, thày-trò và 
cha-con, trong đó, vế trước của mỗi một mối quan hệ đều nhận được sự tôn trọng gần như tuyệt đối 
của vế sau. Việc thay đổi vai trò trong các mối quan hệ đó đồng nghĩa với việc thay đổi toàn bộ hiện 
trạng văn hóa, chính trị và xã hội của cả một dân tộc. 
3. YẾU TỐ VĂN HÓA LỚP HỌC VỚI NĂNG LỰC TỰ CHỦ CỦA NGƯỜI HỌC
Văn hóa lớp học trong khuôn khổ bài viết này được hiểu là những biểu hiện thái độ và những 
chuẩn mực hành vi góp phần hình thành nên tính cách thói quen tự chủ của người học trong phạm 
vi lớp học. Khái niệm này bao hàm những ảnh hưởng của văn hóa dân tộc và văn hóa vùng miền, 
rộng hơn là tư tưởng xã hội. Như đã đề cập ở phần trên, ở các quốc gia Á Đông, thói quen lắng nghe, 
im lặng trong lớp học đã đã được hình thành từ nhỏ. Theo đó, giao tiếp giữa giáo viên và người học 
thường là giao tiếp một chiều. Và do kiến thức bài học được đề cao, nên người truyền đạt kiến thức 
đó cũng được đề cao. 
Xét về yếu tố vai trò người dạy, ở nền văn hóa Á Đông, người dạy được xã hội coi trọng vì họ là 
người đem kiến thức đến cho người khác. Cũng vì thế, vị trí của người dạy cũng được đặt cao hơn so 
với người học. Quyền của người dạy trong lớp học gần như là tuyệt đối, chẳng hạn như quyền kiểm soát 
lớp học, quyết định lựa chọn nội dung học tập, quyết định mục tiêu giảng dạy, phương pháp giảng dạy. 
Tất cả những điều này đều ngụ ý rằng, không có nhiều cơ hội cho người học phát huy khả năng tự 
chủ của mình. Người học gần như không có quyền tự chủ, mà trái lại phụ thuộc vào người dạy, mặc 
dù trên thực tế họ có năng lực tự chủ. Trong môi trường học tập như vậy, thì yếu tố tự chủ của người 
học rõ ràng bị hạn chế và đây cũng là hạn chế chung của nền giáo dục Á Đông, trong đó có Việt Nam. 
Xét về khía cạnh người học, trong quá trình phát triển, mỗi một cá nhân đều có những nét đặc 
điểm riêng về mặt sinh học như cơ thể, đường nét, cũng như tính cách và tư duy. Tuy nhiên, những 
điều này phần nào bị ảnh hưởng bởi yếu tố gia đình, họ hàng và môi trường xung quanh. Nét văn hóa 
học tập, trong đó quan hệ thầy-trò được phân biệt rạch ròi, người học phụ thuộc từ nhỏ có ảnh hưởng 
lớn đến NLTC của họ.
4. YẾU TỐ VĂN HÓA DẠY VÀ HỌC 
Như đã đề cập ở trên, trong lớp học khi người dạy là người có quyền lực tối cao, nhiệm vụ lĩnh 
hội thông tin mà không phản hồi đã vô tình tạo nên tính thụ động cho người học, đối lập với tính 
chủ động mà người học phương Tây thường xuyên được bồi đắp. Đã có những nghiên cứu đối chiếu 
phong cách học của các nước phương Tây và các nước Á Đông, như Reisch & Tang (1992, tr.12). 
Nghiên cứu mô tả phong cách và phương pháp học tập trái ngược của người học. Bảng 1 sau đây làm 
nổi bật sự đối lập đó:
89KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Bảng 1: Đối chiếu phương pháp học của người học phương Tây và các nước Á Đông
Các nước phương Tây Các nước Á Đông
Cách học độc lập Cách học thuộc
Làm việc nhóm Bài giảng, báo cáo, thuyết trình
Kết hợp lý thuyết và thực hành Kiến thức lý thuyết trọn vẹn
Trao đổi/tranh luận Thụ động: giáo viên giải thích, học sinh tóm tắt
Thảo luận (phân cực quan điểm) Tích hợp các quan điểm khác nhau
Phân tích vật thể/văn bản Dùng đúng và vận dụng
So sánh đối chiếu Hiểu, giải thích
Thử nghiệm Luyện tập
Tìm lỗi Cách thích nghi
Phân chia công việc Hợp tác
Phản biện Bắt chước
Tạo sự biến đổi Mô phỏng lại
Học là tư duy Học trước, tư duy sau
Học bằng thực hành Thu nhận kiến thức
Sự phù hợp với thực tế Lý tưởng giáo dục
Thu được Truyền đạt
Bảng so sánh cho thấy, nếu phương pháp học của người phương Tây chú trọng đến việc thực hành 
và tư duy sáng tạo thì ngược lại, phương pháp dạy học ở các nước Á Đông tập trung đề cao việc thu 
nhận kiến thức, và phát triển khả năng bắt chước sao chép mô phỏng. Thực tế, đối với văn hóa Á 
Đông, kiến thức luôn được coi là quan trọng và người ta cho rằng, nó là yếu tố giúp người học đi tới 
thành công, vươn tới vị trí cao trong xã hội. Điều này có lẽ là do ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục 
Khổng Tử, đó là “học để làm quan”, để thành đạt. 
Việc đặt nặng vấn đề tiếp thu kiến thức khiến việc học trở nên vất vả. Ngoài ra, áp lực thi cử, tâm 
lý đề cao sự hiểu biết tinh thông về kiến thức, coi trọng thành tích học tập, các kỳ thi tốt nghiệp, thi 
đại học khiến cả người dạy và người học chỉ chú trọng luyện cho người học khả năng làm được nhuần 
nhuyễn các dạng bài thi, hoàn thành được bài thi với kết quả cao, tỉ lệ người học đỗ đại học cao. Chính 
cách dạy truyền thụ này kìm hãm NLTC của người học.
Dưới đây là bảng so sánh hành vi được đề cao đối với người học ở các nước phương Tây và Á 
Đông. (Bảng 2)
90 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Bảng 2: So sánh hành vi người học phương Tây và các nước Á Đông (Reisch & Tang, tr. 11)
Các nước phương Tây Các nước Á Đông
Nêu rõ các nhu cầu (cởi mở/thẳng thắn) Kiểm soát nhu cầu/tình cảm
Thấu hiểu, hiểu suy nghĩ của người khác Chấp nhận, phục tùng
Khẳng định bản thân trước người khác Hòa đồng với người khác
Nhấn mạnh quyền của mình Hoàn thành trách nhiệm của mình
Độc lập Năng lực
Tự chịu trách nhiệm Trách nhiệm với người khác
Hình thành quan điểm cá nhân Chấp nhận sự khác nhau trong quan điểm
Giải quyết xung đột Né tránh xung đột, chịu đựng
Chia nhỏ các việc, thử nghiệm, phân tích Luyện tập
Đối xử bình đẳng với nhau Đối xử tôn trọng nhau
Nhìn nhận sâu sắc sự việc Tìm kiếm sự phổ biến
Suy luận diễn dịch Suy luận quy nạp
Phân tích Sao chép
Giảm, tập trung Thêm, tích hợp
Cách này hoặc cách kia Cách này cũng như cách kia
Nguyên bản Chỉnh sửa
Lập luận, giải thích Lắng nghe, hiểu
Làm tốt hơn người khác Làm gương cho người khác
Có thể thấy rõ rằng, sự kỳ vọng của xã hội với những hành vi của người học ở các nước Á Đông, 
trong đó có Việt Nam, bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng phục tùng, tâm lý chịu đựng. Mọi hành vi 
đều hướng tới những chuẩn mực xã hội chung chứ không hướng tới nhu cầu cá nhân con người. Điều 
này dẫn đến việc người học Á Đông thường tập trung nhiều vào các hoạt động luyện tập, nghe hiểu, 
sao chép, coi trọng trách nhiệm với tập thể, né tránh rắc rối chứ không tập trung vào giải quyết vấn đề, 
không phân tích tìm tòi sáng tạo như các nước phương Tây. Vì giáo viên Á Đông thường làm nhiệm 
vụ truyền thụ kiến thức nên đánh giá người học chủ yếu hướng tới năng lực ghi nhớ, và tìm ra đáp án 
đúng, những lời nhận xét của người dạy đối với người học gần như là rập khuôn máy móc. Những 
yếu tố này rõ ràng không giúp gì cho việc phát triển NLTC của người học.
5. NHỮNG ĐỀ XUẤT 
Hiện nay đã có rất nhiều thay đổi trong hệ thống giáo dục ở các nước Á Đông. Việt Nam cũng 
đang tích cực tiến hành đổi mới toàn diện nền giáo dục, trong đó đề cao vai trò của người học, lấy 
người học làm trung tâm, người dạy không còn đảm nhận nhiệm vụ truyền thụ kiến thức và kiểm soát 
lớp học. Để khuyến khích người học tham gia vào quá trình học của mình, điều quan trọng là người 
dạy phải xác định lại vai trò của mình trong lớp học (Hill, 1994). Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi 
nhiều thời gian. 
91KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Như đã đề cập ở trên, ở các nước phương Tây 
(xã hội coi trọng cá nhân), tự chủ được gắn với 
yếu tố tự do, yếu tố cá nhân, cho nên quyền của 
người học là đặt ra câu hỏi cho người dạy, những 
câu hỏi liên quan đến nội dung học tập cũng như 
quyết định một số khía cạnh của chương trình 
học. Người học có quyền phê phán, bày tỏ suy 
nghĩ đối lập với người dạy. Do vậy, để trở nên tự 
chủ, người học cần có tinh thần và ý thức sáng 
tạo, không chỉ làm việc độc lập tốt mà còn làm 
việc theo nhóm hiệu quả. Người học cần có ý 
thức chịu trách nhiệm đối với việc học của mình.
Bên cạnh đó, người dạy cần tạo môi trường 
học tập tự chủ khuyến khích người học chủ động 
trao đổi, tranh luận phản biện, có những đề xuất 
về nội dung, kiến thức học tập. Quyền tự chủ có 
thể được trao dần dần cho người học, ban đầu là 
để người học làm quen, ví dụ: quyền lựa chọn 
các tài liệu học tập, các hoạt động học tập, sau 
đó người học có thêm quyền quyết định đưa ra 
tài liệu, hoạt động học tập mà họ cảm thấy phù 
hợp và hứng thú khi học. Khi đã được trao quyền 
như vậy người học có thể tự xác định mục tiêu 
học tập, lập kế hoạch học tập, giám sát và đánh 
giá quá trình học tập của mình. Họ sẽ không còn 
bị động và phụ thuộc người dạy. 
Những điều này còn có tác dụng giúp người 
học rất nhiều trong việc chủ động với công việc 
và cuộc sống sau này. Người học tự chủ có thể 
tìm kiếm cơ hội làm việc tốt hơn, chủ động trong 
cuộc sống của mình. Nghiên cứu của Voller 
(1997) và Cotterall (2003) đã khẳng định điều 
đó. Tuy nhiên, có những người có năng lực tự 
chủ cao, nhưng cũng có những người năng lực 
tự chủ thấp. Mức độ tự chủ ảnh hưởng trực tiếp 
tới cuộc sống của một người, người tự chủ thấp 
khả năng gặp khó khăn sẽ cao hơn. Do vậy, nếu 
NLTC của người học được hun đúc ngay từ khi 
còn nhỏ, thì sẽ tốt hơn cho họ khi trưởng thành. 
Cuối cùng, người dạy cần hiểu rõ các yếu tố 
phát huy và ảnh hưởng tới NLTC của người học. 
Đối với vai trò của mình, người dạy dám từ bỏ 
vai trò làm chủ, kiểm soát và có quyền lực tối 
cao trong lớp học, thay vào đó là duy trì nhiệm 
vụ điều phối, tư vấn giúp đỡ người học, cần đặt 
vị trí của mình vào người học, hiểu những gì 
người học đang cần và thiếu để trở nên tự chủ 
hơn. Người học cần được làm chủ lớp học. Việc 
tăng cường tương tác giữa người học với nhau và 
giữa người học với người dạy cũng giúp ích cho 
NLTC được tăng cường. Cần lưu ý rằng, NLTC 
có thể là yếu tố vốn có trong mỗi cá nhân người 
học, nhưng nếu nó không được quan tâm và rèn 
luyện liên tục thì khả năng này có thể suy giảm. 
6. KẾT LUẬN
Việc thay đổi NLTC của người học tưởng 
như chỉ liên quan đến sự thay đổi tâm lý, thay 
đổi cá nhân, tuy nhiên điều đó là chưa đủ. Cần 
có sự thay đổi lớn trong tư tưởng văn hóa xã hội, 
trong hệ thống giáo dục, cấu trúc giáo dục truyền 
thống, trong mối quan hệ rạch ròi thứ bậc giữa 
thầy và trò. Điều này đều có thể đạt được nếu hệ 
thống giáo dục thực sự đặt vai trò người học vào 
vị trí trung tâm. Khi môi trường học tập trong đó 
người học được trao cơ hội và quyền tự chủ; khi 
phương pháp và phong cách dạy và học được 
thay đổi theo hướng đề cao tinh thần và NLTC 
của người học, khi nhận thức của con người về 
tầm quan trọng của sự tự chủ được nâng cao, thì 
NLTC sẽ tất yếu được phát triển. 
Việc phát huy NLTC của người học là cần 
thiết và hợp với xu thế giáo dục thời đại. NLTC 
của người học cần được rèn luyện càng sớm càng 
tốt vì nó không chỉ giúp nâng cao hiệu quả học 
tập mà còn giúp ích những năng lực khác của 
người học. Quan điểm “hành động để thay đổi” 
là cái đích hướng tới của các quan điểm giáo học 
pháp hiện đại, đặc biệt đối với thực tiễn dạy và 
học ở Việt Nam. Những phương pháp sư phạm 
không phù hợp và thiếu sự điều chỉnh theo đặc 
thù văn hóa khu vực, vùng miền, đặc điểm người 
học có thể ảnh hưởng tiêu cực tới mục tiêu nâng 
cao NLTC. Điều này đã được Pennycook (1994) 
cảnh báo khi nghiên cứu NLTC của người học./.
Tài liệu tham khảo:
1. Aoki, N., & Smith, R. (1999). “Learner 
autonomy in cultural context: The case of 
Japan”. In S. Cotterall & D. Crabbe (Eds.), 
92 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
EXTERNAL FACTORS INFLUENCING LEARNER AUTONOMY
NGO PHUONG ANH
Abstract: This paper aims to investigate various factors that influence learner autonomy. 
The factors are diverse and complicated, ranging from learner’s personality, learning habits, 
learning preferences to learners’ cultural - social background as well as their learning context. 
Understanding all these factors is essential in shaping and fostering learner autonomy. However, 
within this paper, only socio-cultural factors will be focused and analysed in depth. This is 
expected to help teachers, learners, pedagogists and education administrators determine which 
factors may promote and which inhibit their learners’ learner autonomy enhancement. From this, 
they could select, apply or design methods which boost their learners’ autonomy and which are 
appropriate to their particular learners and teaching context. 
Keywords: learner autonomy, influencing factors, socio-cultural factor, developing learner 
autonomy.
Learner autonomy and language learning: 
Defining the field and effecting change, (pp. 19-
27). Frankfurt, New York: Peter Lang.
2. Cotterall, S. (2000), “Promoting learner 
autonomy through the curriculum:Principles for 
designing language courses”, ELT Journal 54,2: 
109-117. 
3. Dam, L. (1995), Learner autonomy 3: From 
theory to classroom practice. Dublin: Authentik.
4. Hill, B. (1994), “Self-managed language 
learning: state-of-the-art”, Language Teaching 
27, 213-223.
5. Ho, J. and Crookall, D. (1995), “Breaking 
with Chinese cultural traditions: Learner 
autonomy in English language teaching”. 
System, 23/2, 235-243.
6. Holec, H. (1981), Autonomy and foreign 
language learning. Oxford, UK: Pergamon Press.
7. Jones, J. (1995), “Self-access and culture”, 
ELT Journal 49, 228-234.
8. Little, D. (2009), “Learner autonomy in 
action: adult immigrants learning English in 
Ireland”. In F. Kjisik, P. Voller, N. Aoki and Y. 
Nakata (eds), Mapping the Terrain of Learner 
Autonomy: Learning Environments, Learning 
Communities and Identities, pp.51-85. Tampere: 
Tampere University Press.
9. Marshall, N. and M. Torpey. (1997), 
“Autonomy and interaction in a self-directed 
classroom.” In V. Berry, B. Adamson, and W. 
Littlewood (Eds.), Applied Linguistics: Insights 
into Language in Education, Hong Kong: 
English Centre, University of Hong Kong.
10. Ngô Phương Anh (2017), “Năng lực tự 
chủ của người học và các lý thuyết liên quan”, 
Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, Số 5, 
tr. 27-30.
11. Pennycook, A. (1994), The Cultural 
Politics of English as an International Language. 
Harlow: Longman.
12. Reisch, Bernhard & Tang, Zailiang 
(1992), Know-how Transfer Asien. Zur Ge 
staltung deutsch-asiatischer Informations- 
undWeiterbildungsmaßnahmen für Wei 
terbildungsfachleute, Referenten und Fach 
vortragende. Bad Honnef: Institut für 
Interkulturelles Management. 
13. Voller, P. (1997), Does the teacher have a 
role in autonomous learning? London: Longman.