Những rào cản đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

Tài liệu Những rào cản đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu: 34 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 Những rào cản đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu chính sách & thị trường tài chính- tiền tệ Ngô Dương Minh Ngày nhận: 28/09/2017 Ngày nhận bản sửa: 03/11/2017 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018 Dệt may Việt Nam là một trong những ngành đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và giải quyết việc làm cho người dân Việt Nam. Nhưng, một thực tế là ngành dệt may của nước ta đơn thuần chỉ gia công cho nước ngoài, trong khi hầu hết nguyên phụ liệu của ngành dệt may đều phải nhập khẩu khiến cho ngành Dệt may Việt Nam khó phát triển bền vững. Vậy, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng ở đâu giữa thị trường dệt may rộng lớn cùng hàng loạt những tên tuổi như Mỹ, Trung Quốc, EU... Bài viết sẽ tập trung vào việc định vị dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, cũng như chỉ rõ những rào cản g...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những rào cản đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 Những rào cản đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu chính sách & thị trường tài chính- tiền tệ Ngô Dương Minh Ngày nhận: 28/09/2017 Ngày nhận bản sửa: 03/11/2017 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018 Dệt may Việt Nam là một trong những ngành đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và giải quyết việc làm cho người dân Việt Nam. Nhưng, một thực tế là ngành dệt may của nước ta đơn thuần chỉ gia công cho nước ngoài, trong khi hầu hết nguyên phụ liệu của ngành dệt may đều phải nhập khẩu khiến cho ngành Dệt may Việt Nam khó phát triển bền vững. Vậy, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng ở đâu giữa thị trường dệt may rộng lớn cùng hàng loạt những tên tuổi như Mỹ, Trung Quốc, EU... Bài viết sẽ tập trung vào việc định vị dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, cũng như chỉ rõ những rào cản gia nhập chuỗi của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Từ khóa: dệt may, chuỗi giá trị, doanh nghiệp Việt Nam, toàn cầu hóa 1. Đặt vấn đề rong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phát triển mạnh, mỗi nền kinh tế quốc gia trở thành một bộ phận không tách rời của kinh tế toàn cầu, và có xu hướng bị chi phối bởi các tập đoàn kinh tế với mạng lưới công ty con, chi nhánh dày đặc được đặt tại nhiều quốc gia khác nhau. Trên phạm vi quốc tế, các giá trị của một ngành kinh doanh nào đó được hình thành từ những công đoạn khác nhau tại nhiều quốc gia trên thế giới sẽ trở thành giá trị gia tăng toàn cầu. Theo cách nhìn này, các công ty đa quốc gia sẽ đóng vai trò như những mắt xích quan trọng và chi phối sự phát triển của chuỗi giá trị. Việc phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quan điểm chuỗi giá trị chính là một phương pháp hữu hiệu để đánh giá tốt nhất năng lực cạnh tranh cũng như vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ở Việt Nam, dệt may là một trong những ngành công nghiệp chủ lực và được chú trọng phát triển, nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 35Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời gian Việt Nam tham gia vào sân chơi toàn cầu, ngành dệt may đã tận dụng cơ hội và phần nào chuyển hóa thách thức thành những kết quả đáng ghi nhận của ngành. Cụ thể, dệt may hiện là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam và có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm. Hàng dệt may của Việt Nam đã được xuất khẩu đi hơn 180 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới và đã có mặt ở hầu hết những thị trường lớn như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ, các nước Đông Âu, Trung Đông Sự đón nhận của các thị trường này chứng tỏ hàng dệt may của Việt Nam bước đầu đã có khả năng cạnh tranh về giá cả và chất lượng trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn thì dệt may Việt Nam vẫn có quá ít lợi thế và quá nhiều bất lợi cho sự phát triển bền vững, đặc biệt là trong khả năng tiếp cận và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nhìn chung, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung vào các khâu gia công, cắt may, trong khi vẫn chưa thể tham gia vào những khâu tạo ra giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị. Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở lý thuyết về chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, bài viết tập trung làm rõ 2 vấn đề: (1) Vị trí của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu, và (2) Những rào cản nào ngăn dệt may Việt Nam gia nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. 2. Lý thuyết về chuỗi giá trị dệt may toàn cầu Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải rộng trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu (global value chain). Điều này có nghĩa là, các doanh nghiệp từ nhiều quốc gia trên thế giới sẽ đóng vai trò như những mắt xích quan trọng và có thể chi phối sự phát triển của chuỗi giá trị. Theo tài liệu nghiên cứu về chuỗi giá trị của Kaplinsky (2000), chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động cần thiết của một chu trình sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ kể từ giai đoạn nghiên cứu sáng chế, qua các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng, cũng như xử lý rác thải sau khi sử dụng. Từ lý thuyết về chuỗi giá trị, Gereffi (2001) đã xây dựng lý thuyết về chuỗi cung ứng, và cho rằng có hai yếu tố liên quan đến việc tạo ra giá trị hay quyết định dạng chuỗi cung ứng của một ngành: - Thứ nhất là chuỗi cung ứng do phía cung tạo ra. Đây là những chuỗi hàng hóa mà trong đó tác nhân chính các nhà sản xuất lớn, thường là những nhà sản xuất xuyên quốc gia đóng vai trò trung tâm trong việc phối hợp các mạng lưới sản xuất quốc tế (bao gồm cả những liên kết về phía trước và phía sau chuỗi giá trị). Các ngành công nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ như sản xuất xe hơi, máy bay, điện tử là đặc trưng của chuỗi cung ứng do phía cung quyết định. - Thứ hai là chuỗi cung ứng do phía cầu hay người mua quyết định. Đây là đặc trưng của những ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thâm dụng lao động như ngành may mặc, giày dép, và các hàng thủ công khác. Các nhà bán lẻ lớn, các nhà buôn và các nhà sản xuất có thương hiệu là những tác nhân chính đóng vai trò cốt yếu trong việc hình thành các mạng lưới sản xuất được phân cấp tại nhiều quốc gia xuất khẩu. Đặc điểm chính của chuỗi giá trị do người mua quyết định là sự hợp nhất theo mạng lưới để thúc đẩy sự phát triển của các khu chế xuất và thực hiện thuê gia công toàn cầu của các nhà bán lẻ. Ngành dệt may là một minh họa kinh điển của chuỗi giá trị do người mua quyết định. Sự dễ dàng trong việc thành lập các doanh nghiệp dệt may, cùng với sự phổ biến của chủ nghĩa bảo hộ của các nước phát triển trong ngành này, đã dẫn tới sự hình thành đa dạng của các nhà xuất khẩu tại các quốc gia đang phát triển. Việc tạo ra sản phẩm cuối cùng phải qua nhiều công đoạn và mỗi công đoạn bao gồm nhiều khác biệt về các yếu tố như vị trí địa lý, kỹ năng và điều kiện lao động, công nghệ, quy mô và loại hình doanh nghiệp. Những đặc điểm này cũng ảnh hưởng đến việc phân phối tiềm năng và lợi nhuận trong chuỗi giá trị. Các nhà sản xuất với thương hiệu nổi tiếng, các nhà buôn, nhà bán lẻ lớn đóng vai trò then chốt CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018 trong việc thiết lập mạng lưới sản xuất và định hình việc tiêu thụ hàng loạt thông qua các thương hiệu mạnh (Gereffi, 2001). Các nhà nghiên cứu đã biểu diễn chuỗi giá trị dệt may thế giới hiện nay gồm 5 mắt xích chính (Hình 1). Mắt xích 1- Thiết kế: Công đoạn thiết kế là một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị của hàng may xuất khẩu, bởi vì kiểu dáng và mẫu mã sẽ quyết định giá trị của sản phẩm. Đây cũng là khâu có tỷ suất lợi nhuận cao trong chuỗi giá trị và rất thâm dụng tri thức. Các nước đi trước trong ngành công nghiệp dệt may, sau khi đã dịch chuyển hoạt động sản xuất sang các nước đi sau, thường chỉ tập trung vào khâu nghiên cứu và thiết kế sản phẩm mới nhằm tạo ra những thương hiệu nổi tiếng cũng như để đạt được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Việc cạnh tranh thương hiệu đang rất khốc liệt trên thị trường dệt may thế giới, các thương hiệu cạnh tranh nhau bằng các mẫu thiết kế đẹp, sáng tạo. Yếu tố quan trọng để thâm nhập và trụ vững được ở mắt xích này đòi hỏi các doanh nghiệp cần có các nhà thiết kế có khả năng nắm được xu hướng, thị hiếu thời trang của người mua toàn cầu. Mắt xích 2- Sản xuất nguyên phụ liệu: Đây là mắt xích quan trọng hỗ trợ cho ngành may mặc phát triển và là khâu thâm dụng đất đai và vốn. Đối với hàng may mặc, giá trị của phần nguyên phụ liệu chiếm tỷ trọng lớn và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Nguyên phụ liệu trong ngành dệt may thường chia thành hai phần: nguyên liệu chính và phụ liệu. Nguyên liệu chính là thành phần chính tạo nên sản phẩm may mặc, chính là các loại vải. Phụ liệu là các vật liệu đóng vai trò liên kết nguyên liệu, tạo thẩm mỹ cho một sản phẩm may mặc. Mắt xích 3- Cắt & May: Đây là mắt xích thâm dụng lao động nhất nhưng lại có tỉ suất lợi nhuận thấp nhất. May là khâu mà các nước mới gia nhập ngành thường chọn để thâm nhập đầu tiên vì nó không đòi hỏi đầu tư cao về công nghệ và thâm dụng lao động. Những nước đang tham gia ở khâu này thường thực hiện việc gia công lại cho các nước gia nhập trước, đây chính là đặc điểm chung của khâu sản xuất trong ngành dệt may thế giới. Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động may, tỷ lệ giá trị thu về trong phân khúc may cũng sẽ khác nhau tùy theo phương thức sản xuất và xuất khẩu là CMT, FOB, ODM hay OBM. Mắt xích 4- Mạng lưới xuất khẩu: Đây là khâu thâm dụng tri thức, gồm các công ty may mặc có thương hiệu, các văn phòng mua hàng, và các công ty thương mại của các nước. Một trong những đặc trưng đáng lưu ý nhất của chuỗi dệt may do người mua quyết định là sự tạo ra các nhà buôn với các nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng không thực hiện bất cứ việc sản xuất nào. Các công ty này đóng vai trò trung gian kết hợp chuỗi cung ứng giữa các nhà may mặc, các nhà thầu phụ với các nhà bán lẻ toàn cầu. Mắt xích 5- Thương mại hóa: Mắt xích này bao gồm mạng lưới marketing và phân phối sản phẩm, đây cũng là khâu thâm dụng tri thức. Các nhà bán lẻ nổi tiếng trên thế giới đang nắm giữ khâu này và thu được nguồn lợi nhuận rất lớn. Đây là mắt xích có suất sinh lợi cao nhất, do các công ty Hình 1. Giá trị gia tăng đóng góp vào sản phẩm trong chuỗi giá trị dệt may Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam (2010) CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 37Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 lớn trên thế giới nắm giữ và họ thường tạo ra các rào cản gia nhập ngành nên các quốc gia mới gia nhập chuỗi giá trị rất khó để thâm nhập được khâu này. 3. Định vị dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu Tiếp cận và tham gia vào những khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị hay chuỗi cung ứng toàn cầu là một trong những hướng đi mới và bền vững cho các ngành sản xuất tại các quốc gia hiện nay. Chiếm từ 4%- 5% thị phần dệt may toàn cầu, ngành dệt may của Việt Nam đã góp phần tạo ra việc làm và mang lại kim ngạch xuất khẩu cao. Tuy nhiên, chỗ đứng của Việt Nam hiện nay trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu là khâu cắt may, khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Đi sâu hơn vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, mức độ tham gia của Việt Nam trong các mắt của chuỗi giá trị cụ thể như sau: Khâu thiết kế: Theo lý thuyết về giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị theo mô hình đường cong nụ cười thì đây là khâu sẽ cho lợi nhuận cao, kéo theo đó nâng giá trị gia tăng trong các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên khâu nghiên cứu và thiết kế sản phẩm lại là khâu yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam. Đa phần các công đoạn thiết kế cho các sản phẩm may ở nước ta được thực hiện tại những nước có ngành công nghiệp thời trang phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Hồng Kông Sau đó, các mẫu thiết kế được chuyển về Việt Nam, các công ty may của nước ta chỉ gia công theo đúng mẫu mã đơn đặt hàng. Mặc dù chưa đảm nhận được công việc thiết kế nhưng trong thời gian qua, đã có một số nhà sản xuất của Việt Nam cố gắng xây dựng và đưa thương hiệu của mình vào sản phẩm xuất khẩu như May Phương Đông xuất khẩu sản phẩm F-House, May Việt Tiến xuất khẩu San Sciaro và Manhattan, Công ty Thời trang Việt Nam với thuơng hiệu Nino Maxx, Công ty Scavi có Corel... Tuy nhiên, các thương hiệu xuất khẩu của Việt Nam cũng mới chỉ đang ở giai đoạn thăm dò thị trường. Đối với hàng may xuất khẩu, các doanh nghiệp của Việt Nam phải sản xuất theo mẫu thiết kế của những người đặt hàng nước ngoài, giá trị gia tăng từ khâu thiết kế thời trang lại thuộc về các hãng may mặc nước ngoài khiến cho giá trị xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam rất hạn chế. Khâu sản xuất nguyên phụ liệu: Đối với công đoạn sản xuất nguyên phụ liệu, một kịch bản tương tự lại diễn ra đối với ngành may xuất khẩu Việt Nam, dù cho tình hình có khả quan hơn đôi chút. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ cung cấp được 0,3% nhu cầu về bông, 40% nhu cầu xơ, còn lại là phải nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Trung Quốc và Đài Loan... Sản lượng sợi đạt 1,4 triệu tấn/năm nhưng hơn 70% trong đó là xuất khẩu; mặt khác lại phải nhập khẩu gần 0,1 triệu tấn sợi chỉ số cao từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan Khâu dệt vải tạo Bảng 1. Số liệu xuất nhập khẩu ngành dệt may Đơn vị: tỷ USD Năm 2014 2015 2016 8 tháng đầu năm 2017 Nhập khẩu bông các loại 1,443 1,623 1,7 1,63 Nhập khẩu xơ, sợi dệt các loại 1,558 1,519 1,6 1,17 Nhập khẩu vải các loại 9,423 10,154 10,5 7,35 Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may 4,689 5,003 5,1 3,63 Kim ngạch xuất khẩu dệt may 20,911 22,802 23,8 16,86 Tỷ trọng nguyên phụ liệu đầu vào trên kim ngạch xuất khẩu 81,83% 80,25% 79,41% 81,73% Nguồn: Tổng cục Hải quan (2014, 2015, 2017) và Bộ Công thương (2016) CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018 ra khoảng 2,8 tỉ mét vải/năm (chiếm 30% nhu cầu), vẫn phải nhập khẩu 6,1 tỷ mét vải từ các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan là những nước không tham gia các Hiệp định thương mại tự do lớn như TPP, EVFTA, VJEPA (chiếm hơn 70%). Về phụ liệu may, trong nước hiện đã có các cơ sở sản xuất một số chủng loại phụ liệu chính như chỉ may, bông tấm, mex dính, cúc nhựa, khóa kéo, băng chun, nhãn mác, bao bì... nhưng cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của thị trường trong nước, phần còn lại vẫn phải nhập khẩu. Như vậy, dệt may xuất khẩu lệ thuộc lớn vào nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu, mà chủ yếu không phải từ các nước ký các FTA với các thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành dệt may Việt Nam. Việc không chủ động được nguyên, phụ liệu trong nước, phải phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài đã làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, khiến giá trị gia tăng trong sản phẩm dệt may còn thấp. Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may Việt Nam gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Do quá phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, nên mỗi khi giá nguyên liệu tăng, lập tức ảnh hưởng đến giá trị gia tăng của chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Khâu cắt may và xuất khẩu: Ngành dệt may Việt Nam hiện nay gần như chỉ tham gia vào khâu cắt may sản phẩm, được đánh giá là tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất. Xuất khẩu tuy có tạo ra giá trị gia tăng nhưng giá trị này chỉ cao khi tự thiết kế, sản xuất và bán, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu gia công. Các phương thức may và xuất khẩu của Việt Nam hiện nay thể hiện ở Bảng 2. Có thể thấy phương thức thực hiện chủ yếu là CMT (gia công xuất khẩu). Toàn bộ khâu này (cắt may, hoàn thiện, đóng gói, vận chuyển...) chiếm giá trị 5- 7% trong chuỗi giá trị toàn cầu (bao gồm cả các thủ tục xuất nhập khẩu). Vì thế, tuy sản phẩm dệt may của Việt Nam được xuất đi nhiều nơi hay Việt Nam có tên trong top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhưng giá trị thu về rất thấp. Nội dung mối quan hệ này được tóm tắt trong Bảng 3. Bên cạnh đó, chính vì Việt Nam chỉ xuất khẩu dưới phương thức CMT hoặc FOB 1 nên những doanh nghiệp may xuất khẩu của Việt Nam không chịu rủi ro trong quá trình xuất khẩu, đương nhiên là mức giá xuất khẩu, theo đó cũng thấp hơn nhiều. Nghiệp vụ xuất khẩu của những doanh Bảng 2. Các phương thức xuất khẩu chính trong ngành dệt may Việt Nam Phương thức Nội dung Tỷ lệ CMT (Cut- Make- Trim) Người mua cung cấp cho doanh nghiệp gia công toàn bộ đầu vào để sản xuất sản phẩm bao gồm: nguyên liệu, vận chuyển, mẫu thiết kế và các yêu cầu cụ thể. Nhà sản xuất chỉ thực hiện việc cắt may và hoàn thiện sản phẩm 65% OEM/FOB (Original Equipment Manufacturing) cấp 1 Các doanh nghiệp thực hiện theo phương thức này sẽ thu mua nguyên liệu đầu vào từ một nhóm các nhà cung cấp do khách mua chỉ định. 25% OEM/FOB cấp 2 Các doanh nghiệp thực hiện theo phương thức này sẽ nhận mẫu thiết kế sản phẩm từ khách mua nước ngoài và chịu trách nhiệm tìm nguồn nguyên liệu, sản xuất và vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm tới cảng của khách mua. ODM (Original design Manufacturing) Đây là phương thức sản xuất xuất khẩu bao gồm khâu thiết kế và cả quá trình sản xuất từ thu mua vải và nguyên liệu, cắt, may, hoàn tất, đóng gói và vận chuyển. 9% OBM (Original brand Manufacturing) Đây là phương thức sản xuất được cải tiến dựa trên hình thức ODM, song ở phương thức này các hãng sản xuất tự thiết kế và ký các hợp đồng cung cấp hàng hóa trong và ngoài nước cho thương hiệu riêng của mình. 1% Nguồn: Bộ Công thương (2016) CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 39Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 nghiệp này chỉ dừng lại ở hình thức xuất khẩu tại chỗ. Những chuyên môn có liên quan đến việc vận chuyển, bảo hiểm những doanh nghiệp may xuất khẩu của Việt Nam chưa trải nghiệm nhiều. Khâu marketing và phân phối sản phẩm: Hoạt động phân phối của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay vẫn chưa phát triển và đang phụ thuộc vào các nhà buôn nước ngoài. Mạng lưới các nhà (mua) buôn này bao gồm: Các doanh nghiệp bán lẻ, các nhà sản xuất, và các nhà buôn. Trong đó, các doanh nghiệp bán lẻ tập trung chủ yếu ở EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ, và sở hữu các thương hiệu hàng đầu quốc tế, siêu thị, cửa hàng bán sỉ và cửa hàng bán lẻ. Các nhà sản xuất bao gồm các doanh nghiệp dệt may trong khu vực và quốc tế (đặc biệt là các doanh nghiệp đến từ Hong Kong). Cuối cùng, các nhà buôn bao gồm những thương nhân hàng đầu từ EU, Mỹ, Nhật Bản và Hong Kong cũng như những thương nhân trong khu vực từ Đài Loan và Hàn Quốc. Có thể nói, các nhà buôn đóng vai trò rất quan trọng là trung gian trong chuỗi cung ứng hàng dệt may của Việt Nam ra thế giới. Các doanh nghiệp bán lẻ lớn tin cậy vào các nhà buôn để phát triển mạng lưới cung ứng của họ ở Việt Nam nhằm giảm chi phí giao dịch. Các doanh nghiệp đầu tư may mặc nước ngoài hiếm khi liên hệ trực tiếp với các khách hàng ở Việt Nam, vì nhà cung ứng của họ thường có văn phòng đại diện đặt ở Hồng Kông, Đài Loan hay Hàn Quốc. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam (đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ) phụ thuộc rất lớn vào các nhà buôn nhỏ trong khu vực. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn phải thông qua các nhà cung cấp khu vực để có các hợp đồng gia công, rất ít doanh nghiệp dệt may có được các hợp đồng trực tiếp từ các nhà bán lẻ để cung cấp sản phẩm của mình. Một số doanh nghiệp dệt may thì thông qua các văn phòng đại diện ở Việt Nam của các thương hiệu nổi tiếng để cung cấp sản phẩm. Nói cách khác, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn rất thiếu liên kết với những người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng mà chỉ thực hiện các hợp đồng gia công lại cho các nhà sản xuất khu vực. 4. Những rào cản khi tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của doanh nghiệp Việt Nam Qua quá trình định vị doanh nghiệp dệt may Việt Nam, có thể thấy trong các công đoạn của chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam, mỗi công đoạn đều có những khó khăn, gây trở ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc gia nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Cụ thể như sau: Về khâu thiết kế các sản phẩm: Thời trang ở Việt Nam hiện tại chỉ đi theo khuynh hướng thị trường chứ không tạo ra khuynh hướng cho thị trường. Nguyên nhân của tình trạng này là do trong nhiều năm qua, lĩnh vực thời trang ở Việt Nam chưa có chiến lược phát triển bền vững và ngành này chưa theo kịp với sự phát triển của ngành may xuất khẩu ở Việt Nam, đội ngũ các nhà thiết kế chuyên nghiệp còn quá ít và chủ yếu dựa trên năng khiếu bẩm sinh chứ không được đào tạo bài bản. Hiện tại, Việt Nam cũng chưa có chính sách bảo hộ Bảng 3. Tóm tắt quan hệ gia công xuất khẩu Chủ thể nước ngoài Chủ thể trong nước Đặt yêu cầu về loại mặt hàng, sản lượng, yêu cầu chất lượng, chi phí gia công, thời hạn giao hàng và các điều kiện khác Cân đối khả năng sản xuất (máy móc thiết bị và lực lượng lao động) theo yêu cầu đặt hàng của đối tác nước ngoài Cung cấp nguyên phụ liệu chủ yếu Tự đảm bảo một số loại phụ liệu Hướng dẫn kỹ thuật sản xuất Tổ chức quá trình sản xuất Kiểm định chất lượng và nhận hàng Giao hàng Trả tiền gia công Nhận tiền gia công Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam (2010) CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 40 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018 thương hiệu thời trang, bảo hộ bản quyền thiết kế... Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần một đội ngũ tổ chức các chương trình biểu diễn, giới thiệu thời trang chuyên nghiệp để các chương trình biểu diễn thời trang mang đúng tính chất của nó chứ không chỉ là những tiết mục biểu diễn giải trí. Với những lý do đó, hoạt động thiết kế thời trang tại Việt Nam trong thời gian qua dù có nhiều sự kiện đáng truyền thông nhưng chỉ là tự phát, chưa phát triển và hoạt động trên những nền tảng vững chắc. Đó cũng là rào cản để Việt Nam phát triển mạnh mẽ các hoạt động này để có thể tham gia vào khâu thiết kế các sản phẩm trong chuỗi giá trị toàn cầu. Về khâu sản xuất nguyên phụ liệu: Đặc trưng của ngành sản xuất sản phẩm dệt may Việt Nam là nguyên, phụ liệu sản xuất hầu hết phải nhập khẩu do nguồn cung trong nước không đủ và không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất. Do các nhóm ngành công nghiệp phụ trợ của dệt may kém phát triển; ngành sản xuất sợi hạn chế về công nghệ, máy móc, năng suất và chất lượng, không đáp ứng được nhu cầu của ngành dẫn đến ngành dệt may xuất khẩu hoàn toàn bị động về nguyên liệu. Mặc dù từ năm 2009, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu vải, sợi, xơ polyester, phụ liệu sang một số cường quốc dệt may trên thế giới như Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành, nhưng tình trạng thiếu nguyên, phụ liệu vẫn là bài toán nan giải với ngành khi tỷ lệ nhập khẩu khá cao. Thông thường, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để bảo đảm sản xuất cần đến 95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi, dẫn đến bình quân khoảng 70% nguyên, phụ liệu dệt may Việt Nam đang phải nhập khẩu. Từ đó, có thể thấy ngành công nghiệp dệt may Việt Nam gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Do quá phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nên mỗi khi giá nguyên liệu tăng, lập tức ảnh hưởng đến giá trị gia tăng của chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có một chính sách nào để phát triển một cách đồng bộ, dài hơi và mạnh mẽ cho công nghiệp hỗ trợ dệt may. Nếu chúng ta chủ động được nguồn nguyên liệu chất lượng thì việc thuyết phục các đối tác nước ngoài chấp nhận nguyên liệu trong nước ở các hợp đồng gia công là không khó. Ngoài ra, nguồn cung nguyên liệu đầy đủ cũng là cú hích cho các hoạt động trong các khâu khác trong chuỗi giá trị. Về sản xuất và xuất khẩu: Việt Nam chưa tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu trong mắt xích này là do chúng ta chưa đáp ứng được các yêu cầu trước đó trong chuỗi giá trị. Đó là chưa tạo ra được những mẫu thiết kế và chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Hình thức xuất khẩu theo FOB của Việt Nam hiện nay cũng chưa mang lại giá trị gia tăng cao vì thực chất nguồn nguyên liệu làm hàng FOB của Việt Nam phần lớn được khách hàng chỉ định. Do đó, đây là rào cản lớn nhất cần giải quyết để chúng ta có thể dần dần chuyển lên các phương thức xuất khẩu mang lại giá trị gia tăng cao hơn. Nếu đáp ứng được các điều kiện về khả năng thiết kế và nguồn nguyên liệu thì tất yếu chúng ta có điều kiện để sản xuất và xuất khẩu theo hình thức ODM, OBM. Có như vậy, chúng ta mới có thể thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh đó, một thực trạng cũng tồn tại lâu nay trong ngành dệt may Việt Nam là có một bộ phận các doanh nghiệp dệt may thích đầu tư sản xuất theo hình thức gia công để dễ kiếm lợi nhuận từ nguồn nhân công giá rẻ hơn. Tuy nhiên, đây là tư duy phát triển không bền vững và cũng là rào cản rất lớn trong quá trình chuyển đổi sản xuất theo các hình thức tạo ra giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị, thậm chí ngay cả khi chúng ta có khả năng thiết kế và cung ứng cơ bản về nguồn nguyên liệu. Về marketing và phân phối: Đây là khâu tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất trong chuỗi giá trị dệt may. Và tất nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể trực tiếp xây dựng mạng lưới phân phối ở nước ngoài khi mà chủ yếu hoạt động theo hình thức gia công. Rào cản để tham gia vào khâu CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 41Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 marketing và phân phối chuỗi giá trị dệt may xuất phát từ việc chúng ta chưa tham gia vào các khâu trước đó và khả năng tiếp cận thị trường kém. Hơn một nửa doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc tư nhân đã nói rằng họ không biết về thị trường cuối cùng- nơi mà các sản phẩm của họ được tiêu thụ. Thậm chí một vài doanh nghiệp xuất khẩu dệt may lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng nói rằng họ có mối liên kết với các nhà buôn ở Hàn Quốc và Đài Loan, nhưng họ không biết các cửa hàng tiêu thụ sản phẩm của họ ở đâu trên thế giới. Chính khoảng cách rất xa giữa các nhà sản xuất Việt Nam với các doanh nghiệp bán lẻ cuối cùng có thể tác động mạnh lên các nhà sản xuất ở địa phương, làm chúng ta khó khăn hơn trong việc nắm bắt yêu cầu của thị trường để đáp ứng một cách nhanh chóng sự thay đổi nhu cầu của người mua cũng như xu hướng thời trang mới trên thế giới. Phân tích các mắt xích trong chuỗi giá trị dệt may Việt Nam cho thấy, sau nhiều năm gia nhập chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, mặc dù kim ngạch xuất khẩu cao nhưng ngành dệt may Việt Nam vẫn chỉ tập trung xuất khẩu các sản phẩm may mặc theo phương thức gia công- vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu- với giá trị gia tăng tương đối thấp. Hạn chế lớn nhất của ngành là sự phát triển không đồng đều ở các khâu, đặc biệt là ở công đoạn đầu trong chuỗi giá trị dệt may bao gồm: trồng bông, dệt, nhuộm và hoàn tất. Sự phát triển yếu và chậm các khâu này đã cản trở sự phát triển, làm giảm giá trị gia tăng ở khâu kéo sợi và sản xuất hàng may mặc. Bên cạnh đó, mạng lưới xuất khẩu và tiếp thị vẫn đang là điểm yếu lớn trong chuỗi giá trị của ngành dệt may Việt Nam, hạn chế sự xâm nhập vào các khâu cao hơn trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Như vậy, thách thức của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là để thành công, họ phải chuyển sang sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn bằng cách nâng cấp năng lực cạnh tranh của mình. 5. Một số đề xuất Mỗi mắt xích trong chuỗi giá trị dệt may xuất khẩu của Việt Nam đều gặp phải những khó khăn và trở ngại. Do vậy, dệt may Việt Nam nên có những cải cách sâu rộng và triệt để hơn trên nhiều khía cạnh về chiến lược phát triển để nâng cao vị thế của ngành trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu phù hợp với năng lực và lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Thứ nhất, chuyển dần hoạt động sản xuất từ phương thức CMT sang FOB, ODM, OBM. Thách thức toàn cầu đã đặt các nhà sản xuất dệt may Việt Nam dưới áp lực cạnh tranh, đòi hỏi phải có khả năng cung cấp trọn gói, chất lượng ngày càng cao, giá thành cạnh tranh và thời hạn giao hàng theo nhu cầu của người mua trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần thực hiện việc dịch chuyển dần từ gia công với tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu cao sang hình thức xuất khẩu theo FOB, ODM, OBM để đáp ứng yêu cầu người mua và tạo giá trị gia tăng cao hơn. Sự dịch chuyển này đòi hỏi một chiến lược phù hợp trong cả ngắn hạn và dài hạn: Trong ngắn hạn, các doanh nghiệp may vẫn chủ yếu dựa vào nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài, vì vậy để đảm bảo sự chủ động với nguồn nguyên phụ liệu đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một mối liên kết chặt chẽ với các nhà cung cấp nguyên phụ liệu nước ngoài. Trong dài hạn, để thực hiện tốt các đơn hàng FOB, ODM và OBM, ngành dệt may Việt Nam nhất thiết phải dịch chuyển sang phân khúc sản xuất nguyên phụ liệu. Điều này một mặt giúp các doanh nghiệp chủ động hoàn toàn nguồn nguyên phụ liệu, nâng cao lợi thế cạnh tranh, mặt khác giúp nâng cao giá trị gia tăng cho ngành dệt may Việt Nam. Thứ hai, nâng cấp chuỗi giá trị dệt may Việt Nam theo hướng phát triển khâu cung ứng nguyên phụ liệu dệt may. Xu hướng của các nhà mua hàng lớn tại Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu là chọn những doanh nghiệp có khả năng sản xuất trọn gói thay vì đặt hàng theo phương thức gia công để rút ngắn thời gian cho ra sản phẩm mới. Rút ngắn được thời gian thực hiện đơn hàng, đồng nghĩa với doanh CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 42 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018 nghiệp sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn về chi phí và tăng doanh thu. Để làm được điều này, ngành dệt may Việt Nam cần di chuyển lên các mắt xích đầu chuỗi giá trị dệt may, nắm giữ các khâu trong phân khúc sản xuất nguyên phụ liệu, đây là chiến lược dài hạn để duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam. Một lý do khác để ủng hộ cho việc dịch chuyển này là hiện tại ngành dệt may Việt Nam chưa đủ khả năng để dịch chuyển lên phân khúc mạng lưới xuất khẩu và marketing. Kinh nghiệm từ các nước cho thấy, phải nắm được các khâu thiết kế và sản xuất nguyên phụ liệu thì mới có khả năng thực hiện tốt hoạt động ở mạng lưới xuất khẩu và marketing. Thứ ba, hoàn thiện mạng lưới phân phối và marketing Cần thiết lập một hệ thống phân phối hướng ra thị trường các khu vực và quốc tế. Mục đích của các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là thâm nhập vào hệ thống phân phối của hàng dệt may trên thị trường quốc tế, do vậy các doanh nghiệp phải chủ động thực hiện công việc này. Hệ thống phân phối thông qua các văn phòng đại diện đặt tại các nước bạn hàng sẽ giúp cung cấp các thông tin về nhu cầu và sự biến động của thị trường để cung cấp cho những doanh nghiệp trong nước, đồng thời, tìm hiểu các hệ thống phân phối hàng dệt may xuất khẩu ở những nước này nhằm tìm kiếm cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam rút ngắn những mắt xích quan hệ để đến gần khách hàng hơn. Thứ tư, xây dựng cụm ngành công nghiệp về dệt may Để khắc phục tình trạng phát triển thiếu đồng bộ giữa các phân khúc trong toàn chuỗi cung ứng, việc xây dựng cụm ngành dệt may hoàn chỉnh là hết sức cần thiết. Sự hình thành và phát triển cụm ngành dệt may ở Việt Nam sẽ giúp thúc đẩy năng suất và hiệu quả của các doanh nghiệp thông qua tăng khả năng tiếp cận dịch vụ và nguồn nguyên liệu; tăng tốc độ và giảm chi phí giao dịch giữa các doanh nghiệp; tăng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy nâng cao chất lượng. Ngoài ra, cụm ngành sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các thông tin dễ dàng, từ đó thúc đẩy thương mại và quá trình đổi mới trong các doanh nghiệp. 6. Kết luận Nền kinh tế thế giới hiện nay đang trong giai đoạn tái cấu trúc mạnh mẽ, nếu đứng ngoài cuộc chơi tức là chúng ta đang dần thụt lùi. Vì vậy, điều quan trọng nhất là dệt may Việt Nam cần xác định được vị trí của mình trên thị trường thế giới để có thể chủ động lựa chọn công đoạn tham gia phù hợp trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Nếu không xác định lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ mãi là điểm sản xuất hàng hóa của những nhà đầu tư nước ngoài, tiếp tục làm gia công cho họ như trong thời gian qua. ■ Tài liệu tham khảo 1. Kaplinsky, R. (2002), Spreading the gains from globalisation: What can be learned from value chain analysis. 2. Gereffi, G. (2001), The International competitiveness of Asian economies in the apparel commodity chain. 3. Đỗ Thị Đông (2012), Phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam. 4. Đinh Công Khải, Đặng Thị Tuyết Nhung (2011), Chuỗi giá trị ngành dệt may Việt Nam, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. 5. PGS. TS. Hà Văn Hội (2012), Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Kinh doanh số 28. 6. ThS. Nguyễn Thị Quỳnh Nga (2016), Các giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 7. Tổng cục Hải quan, Niên giám thống kê hải quan về hàng xuất khẩu khẩu Việt Nam, 2014- 2015. 8. Tổng cục Hải quan, Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 8 và 8 tháng năm 2017, tháng 09/2017. 9. Bộ Công thương (2016), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam. Thông tin tác giả Ngô Dương Minh Học viện Ngân hàng CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 43Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 Email: minhnd@hvnh.edu.vn Summary Barriers to Vietnamese enterprises in joining global textile and garment supply chain Vietnam textile and garment industry is one of the most important sectors which have contributed significantly to the country’s economic growth and export value while playing a key role in creating employment. However, most international transactions in this sector are based on processing contracts in which materials are imported that will make it difficult for the industry to achieve sustainable growth. For years, Vietnamese textile and garment enterprises have struggled to answer the question about their positions among such a global competitive market with many well-established key players from America, China, Europe, etc. This study will focus on positioning Vietnamese textile and garment industry in the international market as well as point out their barriers in joining global textile and garment supply chain. Keywords: textile, garment, value chain, Vietnamses enterprises, globalization. Minh Duong Ngo Banking Academy hội cũng như có những hướng dẫn, hỗ trợ đào tạo nhân lực và tuyên truyền về ngân hàng xanh. Nhưng quan trọng hơn hết là các NHTM phải chủ động đẩy mạnh các dịch vụ ngân hàng hiện đại, xây dựng chính sách tín dụng xanh, tìm các nguồn tài trợ để nghiên cứu và triển khai các sản phẩm dịch vụ ngân hàng xanh, thực hiện nghiêm túc việc thẩm định rủi ro môi trường- xã hội khi cấp tín dụng, đồng thời ngân hàng cũng phải nâng cao nhận thức cũng như trình độ của cán bộ, nhân viên về ngân hàng xanh. Kinh nghiệm của Trung Quốc phải mất 5 năm mới xây dựng thành công chính sách tín dụng xanh. Do vậy, Việt Nam cũng không thể mong đợi việc phát triển ngân hàng xanh nói chung và tín dụng xanh nói riêng có thể thành công nhanh chóng mà cần có lộ trình và thời gian thực hiện. Với sự thống nhất từ chủ trương đến chính sách và sự phối hợp của các ban ngành và các ngân hàng, doanh nghiệp, ngân tiếp theo trang 24 hàng xanh sẽ sớm đạt được những kết quả khả quan, thể hiện trách nhiệm xã hội của ngành ngân hàng, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành và của đất nước. ■ accessibility to formal credit of rural households in Tra Vinh province as follows: Local governments should develop forms of groups or associations in the community through local official associations such as farmers groups, women groups, and so on to support each other in terms of information, production techniques, women right protection... At the same time, participating in these social groups, households, especially female household heads would be easier to get loans thanks to the guarantee of these groups. The government and local authorities should pay attention to the dissemination of production techniques (through extension activities) and the development of infrastructure for production, tiếp theo trang 7 development and replication of production models. Providing advanced training and support for additional occupations to help farmers improve production efficiency, increase incomes and repayment ability. Credit institutions should focus on the ability of households to repay their loans through other sources such as income, the guarantee of social groups rather than just focus on the value of collateral, so that households can borrow more capital to better serve production needs. Improve the level of education for households, especially children in households as these are the main sources of labor of the household in the future. Promote the upgrading, expansion and construction of new schools, the strengthening of supplementary education for many age groups, the exemption from tuition fees and the strengthening of contributions for the dissemination of education to farmers; rural farmer children. ■

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_cua_ngo_duong_minh_7515_2129783.pdf
Tài liệu liên quan