Những đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ - Cơ sở khoa học thực hiện chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số ở nước ta - Huỳnh Thị Sômaly

Tài liệu Những đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ - Cơ sở khoa học thực hiện chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số ở nước ta - Huỳnh Thị Sômaly: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 1 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA VÙNG TÂY NAM BỘ - CƠ SỞ KHOA HỌC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA Huỳnh Thị Sômaly(1) 1. Về đặc điểm tự nhiên Tây Nam Bộ, nằm ở vị trí cực Nam của đất nước, giáp với vùng Đông Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh; phía Tây Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan; phía Đông Nam là Biển Đông. Tây Nam Bộ (hay còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long - ĐBSCL), một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu của Đông Nam Á và thế giới, là một vùng đất quan trọng, sản xuất lương thực lớn nhất nước, là vùng thuỷ sản và vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn của cả nước. Có bờ biển dài trên 700 km với khoảng 360.000 km2 vùng đặc quyền kinh tế, giáp biển Đông và vịnh Thái Lan, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển, giao lưu quốc tế. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 39.747 km2(1); 1. Theo tổng cục thống kê năm 2012, diện tích đất sản xuất nông ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ - Cơ sở khoa học thực hiện chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số ở nước ta - Huỳnh Thị Sômaly, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 1 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA VÙNG TÂY NAM BỘ - CƠ SỞ KHOA HỌC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA Huỳnh Thị Sômaly(1) 1. Về đặc điểm tự nhiên Tây Nam Bộ, nằm ở vị trí cực Nam của đất nước, giáp với vùng Đông Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh; phía Tây Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan; phía Đông Nam là Biển Đông. Tây Nam Bộ (hay còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long - ĐBSCL), một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu của Đông Nam Á và thế giới, là một vùng đất quan trọng, sản xuất lương thực lớn nhất nước, là vùng thuỷ sản và vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn của cả nước. Có bờ biển dài trên 700 km với khoảng 360.000 km2 vùng đặc quyền kinh tế, giáp biển Đông và vịnh Thái Lan, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển, giao lưu quốc tế. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 39.747 km2(1); 1. Theo tổng cục thống kê năm 2012, diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm 64,12%, đất lâm nghiệp là 7,51%, đất ở 6,34%, đất chuyên dùng 3,03% có đường biên giới với Campuchia dài khoảng 330 km, trong đó tỉnh Đồng Tháp có 02 huyện với 08 xã biên giới, tiếp giáp tỉnh Prêy-Veng; tỉnh An Giang có 05 huyện, với 18 xã biên giới, tiếp giáp với 02 tỉnh Kần-đan, tỉnh Tà-Keo và tỉnh Kiên Giang có 02 huyện, 05 xã phường biên giới, tiếp giáp với tỉnh Kăm-pốt của Campuchia. Toàn vùng có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 01 thành phố trực thuộc trung ương (thành phố Cần Thơ) và 12 tỉnh: Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Với 132 quận, huyện và 1.531 đơn vị hành chính cấp xã. 2. Đặc điểm dân số, tộc người Tây Nam Bộ, hiện nay là vùng đất cư trú của nhiều thành phần dân tộc, trong đó chủ yếu người Kinh, người Khmer, người Hoa, người Chăm. Những năm gần đây, một số ít dân tộc ở phía bắc cũng có mặt trên vùng đất này, theo thống kê chưa Vùng Tây Nam Bộ nằm ở cực nam của Tổ quốc, là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu của vùng Đông Nam Á và thế giới. Diện tích tự nhiên là 39.763 km2, dân số tính đến cuối năm 2010 là khoảng gần 18 triệu người, là vùng sản xuất lương thực trọng điểm, có tính quyết định đối với đất nước, là vùng đất có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống. Đồng bào các dân tộc thiểu số Khmer, Hoa, Chămmột lòng một dạ đi theo Đảng, hăng hái tham gia phát triển kinh tế - xã hội tạo nên những sắc màu văn hóa đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ nước ta. Từ khóa: Tây Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, dân tộc thiểu số, chính sách phát triển, chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số. Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 Năm 2013 Tốc độ tăng trưởng 2001 - 2005 2006 - 2010 Dân số 1.000 người 16.344,7 17.256,0 17.272,2 17.478,9 1,09 0,02 Mật độ 1000 người/km2 411 434 426 431 Tỷ lệ tăng tự nhiên % 1,41 1,27 1,15 0.92 Ngày nhận bài: 10/9/2016. Ngày duyệt đăng: 20/10/2016 (1) Vụ Địa phương III, UBDT; e-mail: huynhthisomaly@cema.gov.vn Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 2 Số 16 - Tháng 12 năm 2016 đầy đủ, trên địa bàn các tỉnh có sự hiện diện của khoảng 30 dân tộc anh em cùng sinh sống. Dân số Khu vực Tây Nam Bộ có trên 17 triệu người (số liệu năm 2009), gồm có 13 tỉnh, thành: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Thành phần dân tộc Tây Nam Bộ, hiện nay là vùng đất cư trú của nhiều dân tộc, trong đó chủ yếu là người Kinh, người Khmer, người Hoa, người Chăm. Trong những năm gần đây, một số ít dân tộc ở phía Bắc cũng có mặt trên vùng đất này. Tỷ lệ dân số hiện nay: Người Kinh khoảng 92% tổng số toàn vùng; dân số Khmer khu vực Tây Nam Bộ chiếm khoảng 7% (toàn Nam Bộ có khoảng 1,3 triệu người, chiếm 7,4% so với dân số khu vực); Hoa 1,2%; Chăm 0,2% và một số dân tộc khác số lượng rất ít: Tày, Thái, Nùng, Mường, 3. Đặc điểm kinh tế - xã hội Hằng năm, ĐBSCL đóng góp trên 20% GDP của cả nước; sản xuất hơn 52% sản lượng lúa, đóng góp 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 58% sản lượng thủy sản, đóng góp khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước, cung cấp 70% lượng trái cây.2 Tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn và tạo tiền đề để giải quyết nhiều vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội của vùng. Tại ĐBSCL đã hình thành một số mô hình tập trung chuyên canh lúa, cây ăn trái và thủy sản, áp dụng công nghệ cao, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước 2. Tài liệu Hội thảo “Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững ĐBSCL” do Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Đại học Quốc gia TP HCM tổ chức năm 2013 và xuất khẩu. Các viện, trường, trung tâm nghiên cứu tại vùng ĐBSCL đã tham gia tích cực vào việc lai tạo, cung ứng cây, con giống, vật nuôi và sản xuất các chế phẩm sinh học, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp. Nguồn: Tổng cục Thống kê, niên giám thống kê cả nước năm 2012 Kinh tế toàn vùng tăng trưởng ổn định, giá trị GDP theo giá so sánh 1994 đến năm 2000 là 48.550 tỷ đồng, năm 2010 là 101.124 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong vùng bình quân đạt 7,7%/năm giai đoạn 2001-2005 và 7,5%/năm giai đoạn 2006-2010; nhiều năm đạt trên 11%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Năm 2000, tỉ trọng khu vực I (nông - lâm nghiệp và thủy sản) chiếm 53,5%, khu vực II (công nghiệp - xây dựng): 18,5% và khu vực III (dịch vụ): 28% trong cơ cấu kinh tế vùng. Biểu đồ: Cơ cấu kinh tế năm 2000 Đến 2012, tỉ trọng các khu vực trong cơ cấu Khu vực I 53% Khu vực II 19% Khu vực III 28% Khu vực I Khu vực II Khu vực III Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 3Số 16 - Tháng 12 năm 2016 kinh tế vùng tương ứng là: 38% - 27% - 35%. Trong đó, khu vực I giảm 15,4%, khu vực II tăng 8,5% và khu vực III tăng 7%. Biểu đồ: Cơ cấu kinh tế năm 2012 Kim ngạch xuất nhập khẩu toàn vùng năm 2012 đạt giá trị trên 10,5 tỉ USD; trong đó, xuất khẩu đạt khoảng 7 tỉ USD và liên tục “xuất siêu” nhờ sự đóng góp từ các mặt hàng nông sản chủ lực. Các mô hình, điển hình hợp tác sản xuất tập trung trong nông nghiệp phát triển. Công tác ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật lai tạo, cung ứng cây, con giống, vật nuôi và sản xuất các chế phẩm sinh học, được đẩy mạnh. Thương mại, dịch vụ, du lịch phát triển khá nhanh; các kênh phân phối, cung ứng hàng hóa đến vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo ngày càng đáp ứng nhu cầu. Một số địa phương bước đầu đã xây dựng được nhãn hiệu, thương hiệu độc quyền, xuất hiện mô hình trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản đạt tiêu chuẩn sản xuất sản xuất VietGAP và có thị trường tiêu thụ lớn. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ toàn vùng tăng từ 43,5 nghìn tỷ đồng năm 2001 lên 365,3 nghìn tỷ đồng năm 2011, tăng bình quân hơn 21%/năm. Hạ tầng thương mại dịch vụ được các tỉnh, thành quan tâm thực hiện. Từ năm 2001 đến năm 2011 đã xây mới hơn 500 chợ, nâng tổng số khoảng 1.800 chợ (chiếm 21% số chợ cả nước), bình quân 0,95 chợ/xã (phường); trong đó, có 16 chợ đầu mối, 43 chợ hạng I, 181 chợ hạng II, còn lại là chợ hạng III; trên 61 siêu thị và 6 trung tâm thương mại. Bước đầu hình thành trung tâm thương mại cấp vùng ở Cần Thơ và các trung tâm cấp tỉnh. Các địa phương có đường biên giới với Campuchia đã chú ý khai thác lợi thế để phát triển kinh tế biên mậu và các khu kinh tế cửa khẩu, các loại hình siêu thị miễn thuế, đã hình thành các khu kinh tế cửa khẩu ở Kiên Giang, An Giang và Đồng Tháp. Hoạt động xúc tiến thương mại giữa các tỉnh trong vùng và nước bạn Campuchia ngày càng phát triển. Các dịch vụ tài chính, tiền tệ, tư vấn, được các địa phương quan tâm. Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2011 tăng bình quân khoảng 18%/năm, bình quân gần 5 tỷ USD/ năm; riêng năm 2011 đạt 9,5 tỷ USD. Du lịch vùng ĐBSCL có bước phát triển tạo bản sắc riêng, liên kết chặt chẽ với thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong việc khai thác, phát huy lợi thế vị trí địa lý, càng đa dạng và phong phú với các loại hình du lịch sinh thái, sông nước miệt vườn, đầu tư tạo ra nhiều điểm du lịch mới. Các điểm du lịch tại Đất mũi Cà Mau, du lịch biển ở Kiên Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu, Tiền Giang, Bến Tre, du lịch sinh thái ở Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang; du lịch văn hóa, tâm linh ở An Giang, Bạc Liêu và du lịch biển đảo Phú Quốc, Cà Mau,... đã góp phần làm thay đổi nhanh cơ cấu du lịch, dịch vụ trong vùng. Với đặc điểm về vị trí địa lý và dân số, để thúc đẩy ĐBSCL phát triển nhanh cần có những hạt nhân là những tỉnh, thành phố có điều kiện thuận lợi về địa lý, kinh tế, có tiềm năng và tiềm lực lớn đi đầu tạo sự phát triển trước để làm động lực thúc đẩy cho quá trình phát triển của cả vùng, Chính phủ đã có Quyết định số 492/QĐ-TTg ban hành ngày 16/4/2009 thành lập Vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL. Vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL gồm 4 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là: Thành phố Cần Thơ, và 3 tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, có diện tích tự nhiên là 1.786,7 nghìn ha, dân số trên 6,5 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số của vùng. Trong những năm qua vùng này đã đóng vai trò là một Khu vực I 38% Khu vực II 27% Khu vực III 35% Khu vực I Khu vực II Khu vực III Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 4 Số 16 - Tháng 12 năm 2016 trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy hải sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông thủy sản của cả nước. Trong những năm tiếp theo, Vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL tiếp tục đóng vai trò trung tâm lớn của ĐBSCL về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông thủy sản của cả nước; đóng vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cho cả vùng; là cầu nối trong hội nhập kinh tế khu vực và giữ vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh của đất nước. Tuy nhiên, so với tiềm năng thế mạnh vốn có thì những kết quả đạt được trong quá trình phát triển kinh tế xã hội khu vực ĐBSCL còn nhiều hạn chế, nhất là các vấn đề về giao thông, thủy lợi, giáo dục Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của vùng đạt trên từ 7% đến gần 12% mỗi năm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt nhiều kết quả rõ nét. Tuy nhiên, kinh tế của ĐBSCL phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp và thất nghiệp mùa vụ vẫn ở mức cao, trình độ lao động chưa qua đào tạo còn cao nhất so với các vùng trong cả nước. Trình độ lao động vẫn thấp, GDP bình quân đầu người/ tháng (1.785.000đ/người/tháng) thấp hơn so với GDP bình quân đầu người của nước, bằng 0,55% so với vùng Đông Nam Bộ (3.241.000đ/ người/tháng) và cũng thấp hơn so với vùng đồng bằng sông Hồng (2.304.000đ/người/tháng). Tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 là 7,41%, hộ cận nghèo là 6,22% (tương đương tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo bình quân của cả nước 7,8% và 6,32%)3. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở khu vực thành thị của vùng ĐBSCL đã giảm dần từ 6,15% năm 2000 xuống còn 4,87% năm 2005 và 4,08% năm 3. Quyết định số 528/QĐ-BLĐTBXH ngày 6/5/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về phê duyệt kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2013 2010, năm 2012 là 3,02% nhưng tỷ lệ thiếu việc làm tại khu vực nông thôn của vùng ĐBSCL năm 2012 là 5,07%, cao nhất so với các vùng trong cả nước, hơn mức bình quân chung của cả nước là 1,55 lần. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi là 15,2%. Đặc biệt, bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đồng thời phát huy những lợi thế vốn có, đẩy nhanh tốc độ phát triển tăng trưởng kinh tế của vùng, xứng tầm là trung tâm sản xuất hàng hóa nông nghiệp lớn nhất cả nước thì ĐBSCL còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhiều khó khăn thử thách cần phải vượt qua, cần những điều kiện về cơ chế chính sách, Một trong những nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mặc dù đã được quan tâm, có những bước tiến nhất định nhưng vẫn chưa thực sự đi vào chiều sâu để phát huy hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp lấy kinh tế hộ làm động lực nhưng quy mô kinh tế hộ đa số là nhỏ, riêng lẻ. Nông dân sản xuất nhiều loại sản phẩm nhưng lại phân tán, manh mún, không gắn kết giữa vùng nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Công nghiệp sản xuất, chế biến sản phẩm cho nông dân còn yếu kém dẫn đến năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản thấp. Các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn phát triển chậm; ngành nghề nông thôn tuy có phát triển nhưng chưa đa dạng, quy mô nhỏ, phân tán dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn nhìn chung còn thiếu, chưa đồng bộ, chất lượng hạn chế. Tỷ lệ cơ giới hóa trong thu hoạch tại ĐBSCL tuy có tăng trong những năm gần đây nhưng mới chỉ đạt 40% so với nhu cầu. Công nghệ chế biến nông sản nhìn chung còn giản đơn, nhất là công nghệ chế biến rau quả, súc sản và thủy sản. Nhu cầu vốn đầu tư cho CNH, HĐH nông nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 5Số 16 - Tháng 12 năm 2016 nông thôn rất lớn nhưng nguồn kinh phí đầu tư còn hạn chế. 4. Đặc điểm môi trường, sinh thái Nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày, ĐBSCL có điều kiện thuận lợi về giao thông thuỷ vào bậc nhất so với các vùng ở nước ta. Có hệ sinh thái rừng ngập mặn và ngập phèn rộng khoảng 360.996 ha, là nơi còn lưu giữ và bảo tồn nguồn động, thực vật quý hiếm của rừng ngập mặn nhiệt đới; đồng thời tạo ra nhiều cảnh quan thiên nhiên, môi trường độc đáo phục vụ cho nghiên cứu khoa học và du lịch. Những hoạt động hỗn hợp của sông, biển đã hình thành những khu đất phù sa phì nhiêu dọc ven sông, một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm ngập mặn trũng thấp, như: vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Hệ thống sông, kênh, rạch lớn nhỏ từ sông Mê Kông và nước mưa cung cấp nước ngọt quanh năm. Lượng nước bình quân của sông Mê Kông chảy qua hơn 460 tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150 - 200 triệu tấn phù sa. Chính lượng nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo nên đồng bằng Châu thổ phì nhiêu ngày nay. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, sông Mê Kông là nguồn nước mặt duy nhất. Về mùa mưa, lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 2.400 mm ở vùng phía Tây đến 1.300 mm ở vùng trung tâm và 1.600 mm ở vùng phía Đông. Về mùa lũ, thường xảy ra vào tháng 9, nước sông lớn gây ngập lụt. Tổng trữ lượng tiềm năng nước của vùng ĐBSCL trên 84 triệu m3/ ngày. Hiện nay, ước tính tổng lượng nước đang khai thác sử dụng là 854 ngàn m3/ngày, trong đó lượng nước ngầm chiếm hơn 12% (106 ngàn m3/ ngày đêm). Ở nông thôn, theo thống kê chưa đầy đủ, hiện đang có hơn 500.000 giếng các loại với tổng lưu lượng khai thác 300.000 m3/ngày. Nhiệt độ cao và ổn định trong toàn vùng. Nhiệt độ trung bình 280C. Chế độ nắng cao, số giờ nắng trung bình cả năm 2.226 - 2.709 giờ. Tổng hòa những đặc điểm khí hậu đã tạo ra ở Tây Nam Bộ những lợi thế mang tính so sánh riêng biệt mà các nơi khác khó có thể có được, đó là một nền nhiệt độ, một chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định. Những đặc điểm khí hậu này đã tạo ra một nguồn lực rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật đạt được năng suất sinh học cao, tạo ra một thảm thực vật và một quần thể động vật phong phú đa dạng, nhưng có tính đồng nhất tương đối trong toàn vùng. Chính vì vậy, đó là những điều kiện thuận lợi để tổ chức sản xuất và phát triển sản xuất lương thực - thực phẩm, phát triển sản xuất chế biến sản phẩm nông - thuỷ - hải sản lớn nhất cả nước. Và cũng tạo ra các lợi thế so sánh khác của vùng Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, Tây Nam Bộ có đặc điểm tự nhiên nổi bật ít có trên thế giới với gần một nửa diện tích bị ngập lũ từ 03 đến 04 tháng mỗi năm, là hạn chế lớn đối với canh tác nông nghiệp, gây nhiều khó khăn cho cuộc sống của dân cư. Chế độ ngập lũ ở ĐBSCL, tập trung ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm đã tác động nhiều mặt đến điều kiện sinh sống của người dân, đến cơ sở hạ tầng, đến phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Theo các chuyên gia, nhà khoa học dự báo về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong tương lai, nếu nước biển dâng cao thêm một mét, sẽ có khoảng 70% diện tích đất ở ĐBSCL bị nhiễm mặn, tương đương mất khoảng hai triệu ha đất trồng lúa và nhiều địa phương nằm ven biển bị ngập chìm trong nước, thiệt hại về hệ thống cơ sở hạ tầng vô cùng lớn. Chế độ ngập mặn ở ĐBSCL chịu sự chi phối của chế độ bán nhật triều trên biển Đông Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 6 Số 16 - Tháng 12 năm 2016 ABSTRACT THE CHARACTERISTICS OF THE SOUTHWEST REGION IS THE SCIENCE BASIS FOR ETHNIC MINORITIES REGIONAL DEVELOPMENT POLICY IN COUNTRY Southwest Region is located in the extreme south of the country, is one of the great plains, fertile regions of Asia Southeast and the world. The area is 39,763 km2 , population by the end of 2010 was approximately 18 million, is the key food production, is crucial for the country, is the land of many ethnic groups living together. Ethnic minorities: Khmer, Hoa, Cham ... of one heart to follow the Party, actively involved in economic–society development make up the colors of the cultural characteristics of our country’s southwestern region. Keywords: Southwest Region; Mekong River Delta; Ethnic Minorities; Development Policy; Ethnic Minorities Regional Development Policy và chế độ nhật triều biển Tây vịnh Thái Lan, tập trung ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang với tổng diện tích khoảng 1,4-1,5 triệu ha. Những năm gần đây, quá trình chuyển dịch cơ cấu canh tác nông nghiệp lúa nước truyền thống sang nuôi tôm nước mặn đã làm cho diễn biến xâm nhập mặn gia tăng nhanh chóng, tạo nên các áp lực mới đối với hệ canh tác nước ngọt ở khu vực ĐBSCL. Đặc biệt ĐBSCL còn có vùng đất phèn khá lớn tập trung ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau, với diện tích khoảng 1,5 triệu ha. Tác động của các hoạt động canh tác nông-lâm-ngư đã diễn ra quá trình lan truyền phèn có tác động đến môi trường nước và đất ở ĐBSCL. 5. Về an ninh – quốc phòng Sự ổn định chính trị, an ninh - quốc phòng của vùng Tây Nam Bộ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Do vị trí địa lý đặc biệt quan trọng, nên đây là vùng đất mà kẻ thù đã từng nhiều lần xâm nhập và thường xuyên lợi dụng vấn đề “dân tộc, tôn giáo, tự do, dân chủ, nhân quyền” để thực hiện mưu đồ chống phá nước ta. Thực tiễn đã chứng minh, đây còn là địa bàn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh ở các tỉnh biên giới Tây Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về trước mắt và lâu dài. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, quân và dân các tỉnh trên địa bàn đã chủ động triển khai các biện pháp tập trung, nắm chắc tình hình từ xa, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhằm đảm bảo an ninh chính trị trong toàn vùng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Duy Hoàng, Chiến lược thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam thuộc Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2. Quyết định số 528/QĐ-BLĐTBXH, ngày 6/5/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về phê duyệt kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2013. 3. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giải pháp khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng liên kết vùng” 4. Các báo cáo định kỳ, báo cáo chuyên đề của Vụ Địa phương III và các địa phương trên địa bàn có liên quan đến lĩnh vực công tác dân tộc, tình hình dân tộc, triển khai thực hiện chính sách dân tộc, tham gia, tham mưu cho Lãnh đạo Ủy ban Dân tộc (từ năm 1991 đến nay).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf282_1166_1_pb_2478_2151935.pdf