Nhân tố tác động đến sự tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI

Tài liệu Nhân tố tác động đến sự tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI: 139 TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011 NHÂN TỐ TÁC ðỘNG ðẾN SỰ TĂNG CƯỜNG SỨC MẠNH QUÂN SỰ CỦA IRAN TRONG NHỮNG NĂM ðẦU THẾ KỈ XXI Nguyễn Văn Tận Trường ðại học Khoa học, ðại học Huế Trần Ngọc Vĩ Học viên cao học, Trường ðại học Sư phạm, ðại học Huế TĨM TẮT Bài viết trình bày một cách khái quát quá trình tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI. Trên cơ sở đĩ, chúng tơi tập trung phân tích nhằm làm sáng tỏ những nhân tố chủ yếu thúc đẩy Iran tăng cường sức mạnh quân sự của mình đĩ là: Sự bất ổn của tình hình quốc tế và sự tăng cường sức mạnh quân sự trên thế giới; Sự bất ổn và tăng cường mua sắm vũ khí ở khu vực Trung ðơng; Chính sách đối ngoại thù địch của Mỹ đối với Iran. Qua đĩ, giúp bạn đọc cĩ cách nhìn khách quan và tương đối đầy đủ về sự tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI, trong bối cảnh khu vực Trung ðơng đang trở nên hết sức phức tạp và quan hệ giữa Iran với các nước phương Tây đa...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân tố tác động đến sự tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
139 TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011 NHÂN TỐ TÁC ðỘNG ðẾN SỰ TĂNG CƯỜNG SỨC MẠNH QUÂN SỰ CỦA IRAN TRONG NHỮNG NĂM ðẦU THẾ KỈ XXI Nguyễn Văn Tận Trường ðại học Khoa học, ðại học Huế Trần Ngọc Vĩ Học viên cao học, Trường ðại học Sư phạm, ðại học Huế TĨM TẮT Bài viết trình bày một cách khái quát quá trình tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI. Trên cơ sở đĩ, chúng tơi tập trung phân tích nhằm làm sáng tỏ những nhân tố chủ yếu thúc đẩy Iran tăng cường sức mạnh quân sự của mình đĩ là: Sự bất ổn của tình hình quốc tế và sự tăng cường sức mạnh quân sự trên thế giới; Sự bất ổn và tăng cường mua sắm vũ khí ở khu vực Trung ðơng; Chính sách đối ngoại thù địch của Mỹ đối với Iran. Qua đĩ, giúp bạn đọc cĩ cách nhìn khách quan và tương đối đầy đủ về sự tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI, trong bối cảnh khu vực Trung ðơng đang trở nên hết sức phức tạp và quan hệ giữa Iran với các nước phương Tây đang ngày càng căng thẳng xung quanh chương trình hạt nhân của nước này. 1. Khái quát về quá trình tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI Trong những năm gần đây, các phương tiện thơng tin đã thường xuyên đưa tin, bình luận về các cuộc tập trận, thử nghiệm và sử dụng nhiều loại vũ khí mới do Iran tự sản xuất. Nhất là khi vấn đề hạt nhân trở nên căng thẳng (từ năm 2006) thì các cuộc tập trận và thử vũ khí của Iran cũng diễn ra thường xuyên hơn. Gần đây nhất là các cuộc tập trận tên lửa “ðại giáo đồ 4” (27 và 28/9/2009), cuộc tập trận phịng khơng “Asemane Velayat 2” (22/11/2009), cuộc tập trận “Nhà tiên tri vĩ đại 5” (22-24/4/2010). Trong các cuộc tập trận ngồi nâng cao khả năng tác chiến cho quân đội, Iran cịn tranh thủ thử nghiệm và đưa vào sử dụng nhiều loại vũ khí mới hiện đại, mà trước hết là lực lượng tên lửa. Các loại tên lửa trong quân đội Iran hết sức đa dạng, từ tên lửa phịng khơng vác vai Misagh 2, tên lửa chống tàu chiến C-802, tên lửa tầm ngắn là Zalzal-1 và Fajr-5 (cĩ khẳ năng bắn tới các căn cứ quân sự của Mỹ ở vùng Vịnh cũng như miền ðơng Saudi Arabia), đến tên lửa đạn đạo Fajr-3 MIRV, Fajr-3. Các loại tên lửa Tondar và Fateh 110, Shahab-1 và Shahab-2 và Shahab-3 được Iran liên tiếp thử nghiệm. Trong đĩ, Shahab-3 là loại tên lửa cĩ thể mang theo đầu đạn với tầm bắn từ 1.300 đến 2.000 km, cĩ khả 140 năng tấn cơng các mục tiêu tại I-xra-en, phần lớn các nước A-rập và một phần lãnh thổ châu Âu. Hơn thế nữa, Iran cịn tuyên bố thử nghiệm thành cơng một khẩu đội tên lửa phịng khơng được thiết kế trên cơ sở hệ thống S-200 mua của Nga trước đĩ được nâng lên mức tương đương S-300*, Hệ thống này cĩ thể bắn hạ máy bay, tên lửa hành trình và đầu đạn tên lửa đạn đạo ở tầm bắn 145 km và độ cao khoảng 30.000 mét. Theo các quan chức Mỹ, Iran đã tiếp nhận các tên lửa hiện đại từ CHDCND Triều Tiên, gọi là BM-25, vốn cĩ tầm bắn lên đến 4.000 km. Cùng với tên lửa, Iran giới thiệu các loại máy bay do nước này tự sản xuất. Máy bay chiến đấu Saegheh ra đời năm 2006 (hiện nay đang được sản xuất hàng loạt loại thế hệ thứ 4 và thứ 5 với tính năng kỹ thuật và chiến thuật được đánh giá là tốt hơn máy bay F-18 của Mỹ). Máy bay khơng người lái Karra cịn gọi là “Sứ giả thần chết”, cĩ thể chở 4 tên lửa hành trình cĩ tầm bay 1.000 km, được giới thiệu (22-8-2010). Ngồi ra, Iran đã mua máy bay tiêm kích loại J-7M, máy bay vận tải quân sự Y- 12 của Trung Quốc... Mua các máy bay chiến đấu và máy bay tiếp dầu trị giá ít nhất 1 tỷ USD từ Nga, bao gồm 250 máy bay chiến đấu tầm xa Su-30. Với thỏa thuận trên đã nâng khả năng khơng lực của Iran lên ngang bằng với khả năng khơng lực của Israen. Iran đang tiến hành nâng cấp các loại máy bay hiện cĩ như máy bay tiêm kích F-14 Tomcat do Mỹ sản xuất sẽ được trang bị thêm bom thơng minh thế hệ mới Qased do Iran chế tạo, máy bay tiêm kích Mig-29 nhập về từ Nga... Ngồi việc tăng cường sức chiến đấu trên khơng, thì Iran cũng tăng cường sức mạnh của lực lượng lục quân, hải quân. Lực lượng lục quân cũng được trang bị thêm các loại đại bác 155mm, xe tăng hạng trung T95 từ Trung Quốc, hệ thống pháo phản lực bắn loạt (MLRS), nâng cấp xe tăng T-72 của Liên Xơ trước đây thành xe tăng Safir-74 của Iran... Sức chiến đấu của hải quân cũng được cải thiện đáng kể. Iran đã tự chế tạo được tàu ngầm hạng trung Ghaem thế hệ mới cĩ khả năng bắn các loại ngư lơi và tên lửa với đội đặc nhiệm trên tàu (2008). Sản phẩm mới trong cuộc tập trân ngày 22 đến 24-4- 2010, chiến hạm “siêu tốc” Ya Mahdi, chiến hạm này cĩ thê tàng hình trước các hệ thống ra đa để tấn cơng phá hủy các mục tiêu. Ngày 23/8/2010, Iran đã khai trương các dây chuyền sản xuất hàng loạt hai loại tàu tấn cơng cao tốc trang bị tên lửa là Seraj và Zolfaghar. Các loại tàu tàu ngầm mini Ghadeer do nước này sản xuất, dễ dàng hoạt động trong vùng nước nơng, hay tàu chiến hiện đại như 3 chiếc tàu ngầm lớp Kilo của Nga cũng được trang bị cho hải quân. Sức * S-300 là tổ hợp tên lửa phịng khơng do Nga chế tạo, cĩ khả năng tiêu diệt các mục tiêu tên lửa đạn đạo, và được coi là một trong những hệ thống tên lửa chống máy bay mạnh nhất hiện tại. Ra-đa của nĩ cĩ khả năng đồng thời theo dõi đến 100 mục tiêu, hoặc 12 trong khi tham gia. Thời gian triển khai S-300 là 5 phút. Các tên lửa S-300 là các vịng kín và khơng cần bảo trì trong suốt thời gian sử dụng chúng. 141 mạnh của hải quân Iran được nâng cao khi nước này đã khánh thành một căn cứ hải quân mới tại cảng Jask vào ngày 27/10/2010, đây là căn cứ cĩ tầm quan trọng chiến lược nằm ở phía ðơng Eo biển Hormuz, miền Nam Iran. Như vậy, một điều dễ nhận thấy là các loại vũ khí mới trang bị cho quân đội của Iran chủ yếu là do nước này tự sản xuất. Từ năm 1992, ngành cơng nghiệp quân sự Iran đã tự sản xuất được các loại xe tăng, vũ khí, trang bị cá nhân, các tên lửa dẫn hướng, các tầu ngầm, các máy bay chiến đấu. 2. Những nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự tăng cường sức mạnh quân sự của Iran Việc Iran liên tiếp tập trận, thử vũ khí, nâng cao khả năng tác chiến của các lực lượng, đồng thời cĩ những tuyên bố cứng rắn với những lực lượng “thù địch” cĩ phải là dấu hiệu bất bình thường khơng? ðể lí giải điều đĩ, chúng ta hãy đặt Iran trong bối cảnh quan hệ quốc tế và trong khu vực. 2.1. Sự bất ổn của tình hình quốc tế và sự tăng cường sức mạnh quân sự trên thế giới. Trong thập kỉ đầu sau “Chiến tranh lạnh”, chi phí quân sự tồn cầu giảm khoảng 30%, nhưng bước vào những năm đầu thế kỉ XXI, chi tiêu quốc phịng của tồn thế giới khơng ngừng tăng (2007 đã là 1140,5 tỷ USD). Vậy những lí do nào tạo nên sự thay đổi đĩ? Trước hết việc tăng ngân sách quốc phịng là do nền kinh tế thế giới đã cĩ sự phát triển nhất định, những mục tiêu cần bảo vệ ngày càng nhiều, phạm vi lợi ích quốc gia khơng cịn nằm trọn trong phạm vi lãnh thổ. Cho nên, việc đầu tư cho quốc phịng để đảm bảo lợi ích quốc gia là một nhu cầu tất yếu. Ngồi ra vũ khí, trang bị quân sự, kĩ thuật tác chiến của quân đội nhiều nước đã trở nên lạc hậu trước những thành tựu mới của khoa học quân sự. Việc chính phủ các nước ưu tiên trong trang bị mới cho quân đội nhằm nâng cao hiệu quả chiến đấu là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, một trong những nhân tố làm tăng ngân sách chi cho quốc phịng là do sự bất ổn của tình hình thế giới khi bước vào thế kỉ XXI. Tình hình đĩ đã được cựu Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Bzrezinski khái quát bằng 4 chữ “rối ren tồn cầu”. Một thống kê cho thấy, hiện tại mỗi năm thế giới xảy ra hơn 140 cuộc xung đột, chiến tranh [1]. Trong mười năm cuối của thế kỉ XX và cho đến hơm nay, thế giới chưa một ngày nào khơng cĩ tiếng súng. ðặc biệt, khi Mỹ rút khỏi Hiệp ước ABM, Hiệp ước START 2, tiến hành xây dựng lá chắn tên lửa phịng thủ tên lửa NMD, thực hiện chiến lược an ninh quốc gia mới, thì an ninh thế giới bị đe dọa nghiêm trọng, khởi đầu cho một cuộc chạy đua vũ trang mới. Trong thời kì cầm quyền, Tổng thống Bush cơng bố một kế hoạch khổng lồ với 100 tỷ USD, nhằm chinh phục vũ trụ phục vụ mục đích quốc phịng, quân sự và hàng loạt chương trình, dự án phát triển máy bay, tên lửa, hàng khơng mẫu hạm cĩ độ tiên 142 tiến “vượt trước thời đại”. Ngày 20-2-2008, Mỹ phĩng tên lửa chiến lược SM.3 phá vỡ một vệ tinh mà họ cho là hết hạn sử dụng đã thúc đẩy cuộc chạy đua vũ trang và quân sự hĩa khoảng khơng vũ trụ, tạo nguy cơ “chiến tranh giữa các vì sao” hết sức nguy hiểm cho an ninh, hịa bình của thế giới. Báo cáo của Văn phịng Kiểm tốn Chính phủ Mỹ (GAO) đưa ra ngày 30/3/2009, thì chỉ tính riêng trong tài khĩa 2008, 96 dự án quân sự lớn nhất (chủ yếu dùng để phát triển máy bay, tên lửa, tàu chiến và một số thiết bị khác) đã tiêu tốn 1.600 tỷ USD, cao hơn 25% so với dự tốn ban đầu [9]... ðối phĩ với hành động đơn phương của Mỹ, nhiều cường quốc và cả những nước nhỏ tăng cương các biện pháp nâng cao sức mạnh quốc phịng, thực hiện hiện đại hĩa quân đội; đồng thời, tăng cường mở rộng hợp tác, tập hợp lực lượng, tạo “đối trọng” để bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia và đối phĩ với mưu đồ và các hành động ngăn chặn, kiềm chế của Mỹ. Nước Nga đã tuyên bố hiện đại hĩa quân đội vào năm 2011, hiện đại hĩa vũ khí trong giai đoạn 2007 – 2015 với trị giá 198 tỷ USD và liên tiếp tăng chi ngân sách (năm 2009 là 26%, năm 2010 là 8,5%). Trung Quốc và Ấn ðộ hiện là hai nhà nhập khẩu vũ khí đứng đầu thế giới, lần lượt chiếm 11% và 7% thị phần thế giới. Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, ngân sách quốc phịng Trung Quốc tăng từ 10% đến 20% hàng năm. Năm 2009, chính quyền Trung Quốc tăng cho ngân sách quốc phịng 14,9%. Nhật Bản đã chuyển Cục Phịng vệ thành Bộ Quốc phịng (9/1/2007) và trong thời gian gần đây luơn duy trì mức chi tiêu quốc phịng từ 40 – 50 tỷ USD mỗi năm. Anh và Australia lại cĩ chiến lược đầu tư mạnh cho lực lượng hải quân, khi Anh cĩ kế hoạch với 39,6 tỷ USD để mua bốn tàu ngầm hạt nhân. Australia chi 72 tỷ USD để hiện đại hĩa quân đội trong vịng mười năm. Các nước và vùng lãnh thổ phải chấp nhận cuộc đua mua sắm khi Iraq chi 1,6 tỷ USD (2009), ðài Loan đã chi 3,2 tỷ USD (2009)... để mua vũ khí. Tình hình nĩi trên đã làm cho chi phí quân sự trên tồn cầu tăng lên nhanh chĩng. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Hịa bình Quốc tế Stockholm - Thụy ðiển (SIPRI), chi phi quân sự tồn cầu năm 2008 là 1464 tỷ USD (năm 2007 là 1140,5 tỷ USD), tương đương với 2,4% tổng sản phẩm nội địa (GDP) tồn cầu hay 217 USD/đầu người. Trong đĩ Mỹ và Trung Quốc là hai nước chi mạnh tay nhất cho vũ khí năm 2008, lần lượt là 607 tỉ USD và 84,9 tỷ USD. So với năm 2000, ngân sách quốc phịng năm 2009 tăng 1,5 lần, nhiều nước trên thế giới tăng mạnh; Mỹ tăng 75,8%, Saudi Arabia – 66,9%, Ấn ðộ - 67,3%, Nga – 105%, Trung Quốc lập kỉ lục với 217% [3]... Một số nước chi cho ngân sách quốc phịng đã ở mức khơng bình thường. Nếu đem chi tiêu quốc phịng so với tổng thu nhập quốc dân hàng năm thì trong năm 2007, CHDCND Triều Tiên đang dẫn đầu với 25%, tiếp đến là Saudi Arabia 10%, Israel 9%, Thổ Nhĩ Kì 5,3%... 2.2. Sự bất ổn và tăng cường mua sắm vũ khí ở khu vực Trung ðơng. Iran đang sống trong một khu vực hội tụ của những mâu thuẫn lớn, là khu vực 143 bất ổn và thường xuyên cĩ các cuộc chiến tranh xung đột. Từ khi chiến tranh thế giới thứ hai đến nay khu vực này chưa bao giờ cĩ được hịa bình. Các cuộc chiến tranh, xung đột quy mơ lớn liên tiếp diễn raŒ*, bản thân Iran cũng là nước phải gánh chịu một cuộc chiến tranh dài ngày với Iraq (1980 – 1988). Mặt khác, kẻ thù của Iran đang xuất hiện từ mọi hướng. Tại Iraq, một chính phủ “dân chủ” đang ngày càng ổn định và chính phủ này cĩ thể khuyến khích các phong trào chống lại Iran. Tại Lebanon, Hezbollah – một đối tác của Iran – đã thất bại trong nổ lực giành quyền kiểm sốt đất nước và đang bị kiềm chế. Các quốc gia người Sunni như Saudi Arabia, Ai Cập và Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất, đều coi Iran là quốc gia của người Shi’ite – như một kẻ thù sắc tộc [10]. Trong bối cảnh đĩ, để giảm bớt căng thẳng, tại hội nghị giải trừ quân bị ở Geneva đại biểu Iran đã đề nghị nên cĩ “Một thảo thuận an ninh khu vực, được quốc tế bảo đảm, dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc” [6]. Nguy hiểm hơn, nước cĩ lực lượng quân sự mạnh nhất khu vực, Israel luơn coi Iran là thù địch. Nguyên Thủ tướng Israel Netanyahu đã phát biểu: Nước Cộng hịa Hồi giáo Iran chính là ðức quốc xã ở Trung ðơng. Israel đã cĩ nhiều hành động làm cho thế giới lo ngại bởi tín hiệu cho một cuộc tấn cơng quân sự sắp xảy ra, nhất là sau khi ơng Ahmadinejad lên làm Tổng thống Iran (người luơn cĩ những tuyên bố cứng rắn chống Israel), như cuộc tập trận với Hy Lạp trong năm 2008, hay các tàu chiến và tàu ngầm của Israel được triển khai tuần tra ở kênh đào Suez trong năm 2009. Cũng như Mỹ, Israel chưa bao giờ loại trừ khả năng tấn cơng quân sự Tehran nhằm buộc nước này từ bỏ chương trình hạt nhân gây tranh cãi mà họ và các cường quốc phương Tây khác nghi ngờ nhằm chế tạo vũ khí hạt nhân. Khả năng Iran bị Israel tấn cơng vì chương trình hạt nhân là khơng nhỏ vì Israel đã tấn cơng vào các cơ sở hạt nhân của Syria vào tháng 9/2007. Tình trạng bất ổn, căng thẳng, thù địch, đang đấy các nước Trung ðơng vào một cuộc chạy đua mua sắm “chĩng mặt” và trở thành khu vực cĩ chi phí quân sự đứng hàng thứ tư thế giới chỉ sau Bắc Mỹ, châu Á – Thái Bình Dương, Tây Âu. Nổi bật trong các dự án mua vũ khí ở khu vực phải kể đến là sự kiện đầu năm 2006, Nga đã đàm phán để bán các máy bay chiến đấu, tên lửa và xe tăng trị giá 7,5 tỷ USD cho Algeria. Sau đĩ Putin đã đàm phán với Lybia một thỏa thuận bán vũ khí trị giá 2,5 tỷ USD. Năm 2007, Israel nhận được cam kết viện trợ của chính quyền Mỹ với khoảng 30 tỷ USD trong 10 năm. Hàng năm ngồi nguồn vũ khí được cung cấp bởi các * 4 cuộc chiến tranh giữa các nước A rập với Israel (lần thứ nhất vào năm1948, lần thứ hai vào năm 1956, lần thứ ba vào năm 1967, lần thứ tư vào năm 1973). Chiến tranh Iran – Iraq (từ 1980 – 1988). Chiến tranh vùng Vịnh (1990 – 1991), chiến tranh Afghanistan (2001), chiến tranh Iraq (2003), chiến tranh giữa Israel và Hezbollah năm 2006 ở Lebanon. 144 tập đồn quân sự trong nước, Israel cịn là nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất trong khu vực. Tuy nhiên, nước đầu tư nhiều nhất cho quân đội là Saudi Arabia, khi nước này liên tiếp cĩ nhiều hợp đồng mua bán vũ khí với nhiều quốc gia (năm 2007, cùng với một số nước vùng vịnh, Saudi Arabia đã kí với Mỹ hợp đồng mua bán vũ khí với tổng số tiền lên tới 20 tỷ USD). Năm 2008, Các tiểu vương quốc A-rập thống nhất là khách hàng lớn nhất trong thế giới đang phát triển với giá trị các hợp đồng mua sắm vũ khí trị giá 9,7 tỉ USD, tiếp đĩ là Saudi Arabia 8,7 tỉ USD và Morocco 5,4 tỉ USD. Năm 2009, Mỹ đã bán vũ khí với trị giá 7,9 tỷ USD cho Các tiểu vương quốc A-rập thống nhất, Afghanistan là 5,4 tỷ USD, Saudi Arabia là 3,3 tỷ USD ... Saudi Arabia trang bị thêm 72 máy bay chiến đấu Typhoon từ Anh Thị trường mua sắm vũ khí ở Trung ðơng trở nên sơi động hơn trong năm 2010. Nga bán cho Syria một loạt máy bay tiêm kích Mig-29, các loại pháo, tên lửa phịng khơng tầm ngắn hiện đại nhất Pantsir-S1. Vương quốc Hồi giáo Oman chi 3,5 tỉ USD để mua 18 chiếc tiêm kích F-16 Fightning Falcon, loại mới cải tiến. Bộ Quốc phịng Kuwailt đặt mua của Mỹ 209 tên lửa thuộc hệ thống MIM-104 Patriot (12/8/2010). Trước đĩ, vào tháng 4.2010, Qatar đã mua một số tên lửa chống tàu biển Exocet MM40 Block 30 của Pháp [2]. Saudi Arabia tiếp tục dẫn đầu khi lên danh sách mua hàng loạt vũ khí của Mỹ. Trong số những vũ khí mà Saudi Arabia đặt mua cĩ 84 máy bay chiến đấu Boeing Co F-15 trị giá 30 tỉ USD, 132 trực thăng chiến đấu Boeing Apache, 72 trực thăng Black Hawk UH-60, 60 trực thăng tấn cơng AH-64D Longbow Apaches... trị giá khoảng 30 tỉ USD. Tổng số tiền lên đến 60 tỷ USD. Trung ðơng đang trở thành thị trường béo bở cho các tập đồn quân sự trên thế giới 3. Chính sách thù địch của Mỹ đối với Iran Sau cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979**, Iran luơn bị Mỹ xem là một trong những nguy cơ gây nên sự bất ổn trong khu vực và trên thế giới. Nhất là sau sự kiện “11/9” - Thảm kịch nước Mỹ, Iran phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng hơn từ phía Mỹ, Iran bị Mỹ xếp vào “trục ma quỷ”*** và Mỹ luơn coi Iran là một trong những mối đe dọa hàng đầu đến hịa bình, an ninh của Mỹ và thế giới. An ninh Iran bị đe dọa nghiêm trọng hơn khi Mỹ tiến hành hai cuộc chiến tranh lật đổ chính quyền ở Afghanistan (2001) và Iraq (2003), Iran trở thành “ốc đảo” nằm trong vịng vây của Mỹ ở Trung ðơng, một liên minh chống Iran hình thành gồm Mỹ, các nước phương Tây, Israel, các quốc gia Hồi giáo dịng Sunni, một mạng lưới dày đặc các căn cứ quân sự được thiết lập quanh Iran. Khi cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran nổ ra ** Cao Văn Liêm, Iran – Lịch sử và những cuộc cách mạng, Tạp chí nghiên cứu châu Phi và Trung ðơng, số 8 (36), tháng 8/2008. *** Ngày 29/1/2002, trong thơng điệp liên bang, Tổng thống George W. Bush đã xếp Iran, cùng với Bắc Triều Tiên và Irắc vào “trục ma quỉ”. 145 (từ 2003), chính sách thù địch của Mỹ đối với Iran được đẩy cao lên một bước. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Christopher từng nĩi: “Iran là nơi khởi nguồn các hoạt động khủng bố chủ yếu nhất trên thế giới Iran theo đuổi chế tạo vũ khí hạt nhân là mối nguy hiểm chính của việc phổ biến hạt nhân Chính sách của Mỹ đối với Iran chính là muốn dùng các biện pháp ngoại giao, kinh tế và răn đe quân sự để kiềm chế nước này” [8]. Cơ lập, làm suy yếu, thậm chí lật đổ chính quyền Iran là một trong những mục tiêu chính trong chính sách Trung ðơng của Mỹ. Trước tình thế đĩ, Iran đã cĩ những nổ lực nhằm giảm áp lực chiến tranh từ phía Mỹ khi liên tiếp kêu gọi đàm phán để cải thiện tình hình nhưng khơng được Mỹ chấp nhận. ðiển hình là vào tháng 5/2006, Tổng thống Ahmadinejad gửi một bức thư dày 18 trang đề nghị tiến hành một cuộc đối thoại tồn diện về những bất đồng giữa hai nước, đề nghị này cũng bị chính quyền Bush bác bỏ. ðể dọn đường cho một cuộc chiến “chống khủng bố” mới nhằm vào Iran, trong phát biểu ngày 5/9/2006, Tổng thống Bush mơ tả Iran là một đối thủ đã cơng khai tuyên bố "sự thù địch tuyệt đối" với Mỹ: "Như Al Qaeda và những kẻ cực đoan dịng Sunni, Chính quyền Iran cĩ những mục tiêu rõ ràng. Họ muốn xua đuổi Mỹ ra khỏi vùng này, tiêu diệt Ixraen và thống trị vùng Trung ðơng mở rộng”[7]. Chính vì vậy, dưới nhãn quan của các nhà chiến lược gia của Mỹ, Iran là nước xuất khẩu chủ nghĩa hồi giáo cực đoan sang Iraq và Lebanon... Sau khi Liên hợp quốc ra 2 lệnh trừng phạt đối với chương trình hạt nhân của Iran (cuối năm 2006 và đầu năm 2007), thì Mỹ tăng cường sức mạnh quân sự tại vùng Vịnh. Cuối tháng 3/2007, Hải quân Mỹ tiến hành cuộc tập trân lớn nhất trong khu vực kể từ cuộc chiến tranh Iraq (2003). Mỹ đã huy động hai tàu sân bay “Eisenhower” và Stennis”, 15 tàu chiến, 125 máy bay chiến đấu và 13000 binh sĩ tập trận chỉ cách hải phận Iran hơn 12 hải lí. ðến tháng 5/2007, Mỹ đã huy động 9 tàu chiến cùng với 17000 quân đổ vào vùng Vịnh, ngay ngồi bờ biển Iran, khiến nhiều nhà nghiên cứu lo ngại, chiến tranh Mỹ-Iran sắp đến gần, trong số đĩ cĩ hai tàu sân bay và một tàu đổ bộ. “Sự kiện Vịnh Persian”**** đầu năm 2008, làm cho căng thẳng quân sự giữa Mỹ và Iran tiếp tục leo thang. Mặc dù chính quyền B. Obama cĩ phần “mềm dẻo” hơn trong chính sách đối với Iran, song gần đây nhất, hồi đầu tháng 8/2010, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, đơ đốc Mike Mullen nĩi rằng quân đội Mỹ cĩ một kế hoạch tấn cơng Iran, mặc dù ơng cho rằng một cuộc tấn cơng quân sự là một ý tưởng tồi, cĩ thể tạo ra hậu quả khơng thể lường trước. Tuy nhiên, ơng vẫn nĩi nguy cơ Iran phát triển vũ khí hạt nhân là khơng thể chấp nhận được, đồng thời tái khẳng định “lựa chọn quân sự” vẫn nằm trên bàn của chính quyền Mỹ. Cĩ hay khơng mối đe dọa hạt nhân từ Iran? “ðối với **** Những chi tiết duy nhất về vụ rắc rối này được cung cấp bởi Phĩ ðơ đốc Mỹ Kevin Cosgriff, chỉ huy hạm đội 5 của Mỹ cĩ căn cứ tại Baranh, ơng này đã tuyên bố với các phương tiện thơng tin đại chúng rằng 5 tàu của Iran đã phĩng với tốc độ cao và tiến sát 3 tàu chiến của Mỹ khi 3 chiếc tàu này đang đi qua eo biển Ormuz cách hải phận của Iran 5 km và đe dọa cho nổ tung tàu chiến của Mỹ. 146 Mỹ, mối đe dọa từ phía Iran khơng chỉ là chương trình hạt nhân. Ngay cả khi vấn đề hạt nhân Iran được giải quyết, cũng khĩ cĩ thể khắc phục được những mâu thuẫn cịn lại giữa Mỹ và Iran. Về thực chất, Mỹ quan tâm trước hết đến việc thay đổi cách “ứng xử” của các nhà lãnh đạo Iran” [5]. Rõ ràng chưa bao giờ, người Mỹ cĩ ý định từ bỏ con đường “ngoại giao pháo hạm” đối với Iran. 4. Một vài nhận xét Từ cái nhìn tổng thể, dưới nhiều gĩc độ, bài viết xin nêu ra một số nhận xét cĩ tính khái quát như sau: Trước hết, sức mạnh quốc phịng của Iran được tăng cường khơng nằm ngồi bối cảnh của khu vực Trung ðơng cũng như trên thế giới. Thứ hai, các mối đe dọa an ninh quốc gia đối với Iran đến từ nhiều hướng, mà trước hết là từ Mỹ và các nước phương Tây, tiếp sau đĩ là Israel - nước luơn coi Iran là kẻ thù, và những bất ổn khĩ lường trong khu vực. Thứ ba, khi vấn đề hạt nhân của Iran chưa được sáng tỏ, thì nguy cơ Iran phải hứng chịu một cuộc tấn cơng quân sự là khơng hề nhỏ. Do đĩ, việc Iran tăng cường sức mạnh quân sự trong những năm đầu thế kỉ XXI là điều khơng quá bí ẩn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Minh ðức, Chống chạy đua vũ trang trên thế giới – Cuộc chiến cam go, lâu dài, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số 7, (2008), 43 - 46. [2]. [3]. chi-tieu-quan-su-lon-nhat-the-gioi-b13399c5.html. [4]. Cao Văn Liêm, Iran – Lịch sử và những cuộc cách mạng, Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và Trung ðơng, số 8 (36), (2008), 21 - 29. [5]. Lê Thế Mẫu, Thế giới một gĩc nhìn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. [6]. ðỗ Trọng Quang, Chương trình hạt nhân của Iran và cuộc khủng hoảng quan hệ Mỹ - Iran, Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung ðơng, số 5 (33), (2008), 24 - 32. [7]. TTXVN, Chính sách Iran của chính quyền Bush, Tài liệu tham khảo chủ nhật, 2007. [8]. TTXVN, Vấn đề hạt nhân Iran và ván bài lợi ích giữa các nước lớn, Tài liệu tham khảo chủ nhật, 2007. [9]. TTXVN, Mỹ: Nhiều dự án phát triển vũ khí vượt dự tốn ngân sách, ngày 31/3/2009. [10]. TTXVN, Năm vấn đề lớn xung quanh chương trình hạt nhân của Iran, Tin tham khảo thế giới, ngày 25/10/2009. 147 FACTORS IMPACTING ON THE STRENGTHENING OF IRAN MILITARY POWER IN THE EARLY YEARS OF 21st Nguyen Van Tan College of Sciences, Hue University Tran Ngoc Vi Master Student, College of Pedagory, Hue University SUMMARY Our research presents an overview on the process of strengthening military power of Iran in the early XXI century. On that basis, our analysis is to elucidate the key factors promoting Iran to increase their military power regarding to the instability of the international situation and the increase of the world’s military power, instability and increase in weapons trading the Middle East, and the American Foreign Policy of hostility towards Iran. Thereby, readers will have an overlook objectively and fairly full on Iran increasing its military strength, in the context that the Middle East is becoming very complex, and the relationship between Iran and the Western countries are increasingly tense around the nuclear programs in the country.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf66_14_3449_4543_2117885.pdf
Tài liệu liên quan