TẠP CHÍ KHOA HỌC 
Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 50 - 59 
50 
NHẠC TÍNH TRONG THƠ HAIKU CỦA MATSUO BASHO 
 Hà Thị Hải7 
Trường Đại học Tây Bắc 
Tóm tắt: Matsuo Basho là nhà thơ haiku lỗi lạc của đất nước Nhật Bản. Thơ haiku của ông rất giàu nhạc 
tính. Sự giàu có của nhạc tính trong thơ haiku Basho biểu hiện ở các sắc thái cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ và 
cách sử dụng từ tượng thanh, cách tổ chức ngôn ngữ chặt chẽ, sinh động của chủ thể sáng tạo như: Điệp từ, điệp 
lại câu thơ trong toàn bộ bài thơ, ngắt nhịp thơ. 
Từ khóa: Nhạc tính, thơ Matsuo Basho, thơ haiku 
1. Đặt vấn đề 
Matsuo Basho là nhà thơ haiku lỗi lạc của đất nƣớc Nhật Bản. Cho đến ngày nay, thơ 
haiku của Basho vẫn lôi cuốn ngƣời đọc nhiều nƣớc trên thế giới bởi nội dung phong phú và 
nghệ thuật đặc sắc của nó. Thơ haiku Basho là sản phẩm tinh thần riêng của ngƣời Nhật, là 
niềm tự hào của đất nƣớc Phù Tang, xứ sở hoa anh đào. Sự bí ẩn, chiều sâu triết lí trong nội 
dung và đặc biệt nghệ thuật độc đáo, giàu tính thẩm mĩ của thơ ông vẫn luôn là đề tài hấp dẫn 
để các nhà nghiên cứu tiếp tục khai thác, tìm hiểu. Ngôn ngữ thơ haiku của Basho không chỉ 
giàu chất họa mà còn giàu nhạc tính. Các nhà nghiên cứu thơ haiku Basho trƣớc đây nhƣ Nhật 
Chiêu, Lê Từ Hiển, Hà Văn Lƣỡng đã đề cập đến nhịp điệu thơ Basho qua cách ngắt nhịp, 
điệp câu. Kế thừa những ý kiến khái quát đó, dựa vào lí luận văn học, qua khảo sát cuốn 
Basho và thơ haiku, Nhật Chiêu (tuyển dịch), Nhà xuất bản Văn học, Thành phố Hồ Chí 
Minh, 1994, ngƣời viết nghiên cứu một cách đầy đủ hơn, chi tiết hơn nhạc tính trong thơ 
haiku của Matsuo Basho, giúp ngƣời đọc thấy đƣợc cảm xúc thăng hoa cùng với cách sử dụng 
từ ngữ, cách tổ chức ngôn ngữ chặt chẽ và sinh động trong thơ Basho đã tạo nên sự âm vang, 
lan tỏa, đầy chất nhạc, khiến cho thơ ông phong phú, giàu sức quyến rũ và lôi cuốn 
lòng ngƣời. 
2. Nội dung chính 
2.1. Vài nét về nhạc tính trong thơ 
 Nhạc tính trong thơ là “tính chất âm nhạc” [10] trong thơ. Trên thực tế, thơ ca luôn gắn 
bó chặt chẽ với âm nhạc. Nếu văn học sử dụng ngôn từ làm chất liệu, phƣơng tiện để xây 
dựng hình tƣợng, để biểu đạt tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời thì “âm nhạc sử dụng âm 
thanh, cụ thể là nó sử dụng cơ cấu giai điệu, âm điệu, nhịp điệu, âm sắc, cường độ... được 
phát ra từ giọng nói con người, gắn liền với ngôn ngữ và lệ thuộc một mức độ quan trọng vào 
ngôn ngữ, hoặc phát ra từ những công cụ nhân tạo đặc thù (gọi là nhạc cụ) để chuyển tải, 
biểu đạt cảm xúc của người nghệ sĩ tới người nghe” [6]. Âm nhạc là ngôn ngữ trực tiếp của 
tâm hồn, qua thính giác nó tác động vào tận ngóc ngách của tâm linh. 
7
 Ngày nhận bài: 14/4/2017. Ngày nhận đăng: 22/9/2017 
Liên lạc: Hà Thị Hải, e - mail: 
[email protected] 
51 
Văn học, nhất là thơ ca luôn có quan hệ mật thiết với âm nhạc. Nhà thơ Eliot thuộc 
trƣờng phái hiện đại nƣớc Anh từng nói: “Tôi cho rằng, nhà thơ nghiên cứu âm nhạc sẽ có 
nhiều thu hoạch... Âm nhạc sẽ cho nhà thơ cảm giác tiết tấu và cảm giác kết cấu” [9]. Văn 
học đã vay mƣợn kết cấu và tiết tấu của âm nhạc. 
Ngay trong thời kì thơ ấu của nhân loại, thơ ca, âm nhạc, vũ đạo kết hợp với nhau, dùng 
để tế lễ và chào mừng. Trong xã hội phong kiến thơ ca và âm nhạc cũng gắn bó với nhau chặt 
chẽ. Kinh thi, tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, bài nào cũng đƣợc phổ nhạc. 
Thơ ca và âm nhạc cùng diễn tả trực tiếp thế giới tâm hồn, nhịp đập trái tim của con 
ngƣời. Trong quá trình sáng tạo thơ ca, âm thanh đƣợc coi nhƣ cội nguồn của trực cảm sáng 
tạo. Âm thanh vừa khơi nguồn cảm hứng, vừa tạo trạng thái hƣng phấn cho nhà thơ. Puskin 
nhấn mạnh, khi sáng tác, đầu óc nhà thơ tràn đầy âm thanh trong trạng thái hƣng phấn. Sinle 
yêu cầu mỗi bài thơ phải gây đƣợc một ấn tƣợng về âm nhạc hoặc gợi ý ban đầu là một ấn 
tƣợng âm nhạc [9]. 
Nhạc tính trong thơ biểu hiện trƣớc hết trong nội dung thơ. Nhạc tính biểu hiện ở thế 
giới cảm xúc của chủ thể trữ tình, theo nhà thơ Lê Đức Thọ, là nhạc bên trong và đây là loại 
nhạc rất quan trọng: Nhờ có nhịp điệu bên trong tâm hồn nhà thơ mà hiện thực đƣợc miêu tả 
không còn chung chung, dễ dãi nữa. Càng ngày, thơ càng phá tung những khuôn khổ hình 
thức cũ để giãi bày tự do cảm xúc, liên tƣởng và tƣởng tƣợng của nhà thơ. Nhƣng dù không 
còn cái nhạc bên ngoài (đƣợc tạo nên bởi dùng từ tƣợng thanh, từ láy, việc tổ chức nhịp, vần, 
ngữ điệu, cấu trúc câu...), thơ vẫn còn chất nhạc bên trong (nhạc bên trong là bản chất tâm 
trạng, cảm xúc của nhà thơ: Buồn vui, sôi nổi, mỏi mệt, bâng khuâng, hồi hộp, lo lắng, nuối 
tiếc...). Nhạc điệu bên trong gắn với nhịp tim, nhịp thở. Nhạc điệu bên trong chính là bản chất 
của trình độ thẩm mĩ, suy tƣởng, xúc cảm. Nhạc bên trong là sinh khí, tạo sức sống, sức hấp 
dẫn bền lâu cho thơ. Chỉ có nhạc bên ngoài mà thiếu nhạc bên trong thì câu thơ kêu mà 
rỗng [5]. Quan điểm về nhạc bên trong của thơ đã đƣợc lí luận đề cập đến một cách sâu sắc: 
“Thơ phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm” [8] khúc xạ nhịp đập của trái 
tim khi xúc động. Chính cảm xúc, tâm trạng đƣợc phản ánh trong thơ đã tạo nên nhạc tính cho 
bài thơ. Cảm xúc của con ngƣời thƣờng đầy đủ mọi cung bậc: Vui, buồn, tức giận, lo âu, khắc 
khoải, bâng khuâng, trông ngóng, giục giã... giống nhƣ bản nhạc với những âm thanh cao thấp 
khác nhau. Ví dụ đoạn thơ đầu trong bài Tống biệt hành của Thâm Tâm: 
 Đưa người ta không đưa qua sông 
 Sao có tiếng sóng ở trong lòng 
 Bóng chiều không thắm, không vàng vọt 
 Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong. 
Nhạc điệu của cảm xúc trong đoạn thơ này là nhạc điệu bâng khuâng, buồn, băn khoăn, 
lƣu luyến, luyến tiếc... Không có nhạc điệu của tâm hồn thì đoạn thơ không thể gợi đƣợc liên 
tƣởng rộng rãi và không thể làm say lòng độc giả đến nhƣ vậy đƣợc. 
Trong thơ, luật hòa thanh khá quan trọng. Luật hòa thanh chủ yếu nói đến việc tổ chức 
nhịp điệu, vần, ngữ điệu trong thơ, sao cho hài hòa về âm thanh, đủ sức thể hiện đƣợc tứ thơ 
52 
trong khi sử dụng từ ngữ, hình ảnh. Khi sáng tác thơ ca, các nhà thơ đã triệt để khai thác 
những khả năng của âm nhạc để vận dụng vào thơ văn. Tính nhạc trong thơ còn biểu hiện 
trong cách hiệp vần, ngắt nhịp, phối thanh... 
Nhạc tính trong thơ là khúc nhạc của cảm xúc, của tâm hồn và tài năng tổ chức từ ngữ, 
câu thơ, dòng thơ, bài thơ của nhà thơ. 
2.2. Biểu hiện của nhạc tính trong thơ haiku của Matsuo Basho 
Ngôn ngữ thơ haiku của Basho giàu nhạc tính. Nhiều bài thơ của Basho chất nhạc toát 
lên từ nội dung cảm xúc: 
 Oki yo oki yo 
 waga tomo ni sen 
 neru kochô. 
 Dậy đi thôi 
 cùng ta kết bạn 
 cánh bƣớm ngủ say ơi. 
Bài thơ nhƣ một lời giục giã (Oki yo oki yo - dậy đi, dậy đi), mời gọi da diết thể hiện 
ƣớc muốn đƣợc giao hòa, san sẻ, gắn bó của con ngƣời với thiên nhiên vạn vật. Bản thân cảm 
xúc đó đã mang chất nhạc rồi. 
Bài thơ sau của Basho: 
 Sabishisa wo 
 tote kurenu ka 
 kiri hitoha. 
 Một lá ngô đồng rơi 
 mà sao bạn không đến 
 bên nỗi buồn tôi. 
Viết về mùa thu với hình ảnh chiếc lá ngô đồng rơi đã gợi nỗi buồn man mác lan tỏa 
ngay từ câu thơ đầu. Hai câu thơ sau biểu lộ sự băn khoăn, tự vấn và cả sự hờn trách của chủ 
thể trữ tình khi không có ai để chia sẻ nỗi buồn. Sự cô đơn, trống trải tràn ngập bài thơ. Nhạc 
trong thơ là nhạc của cảm xúc và tâm hồn. Nỗi buồn, sự cô đơn trống trải trong bài thơ vang 
lên khúc nhạc buồn nhẹ nhàng lan tỏa ở câu thơ thứ nhất, xoáy sâu ở câu thơ thứ hai và lặng 
xuống ở câu thơ thứ ba. 
Thơ haiku của Basho chủ yếu là những khúc nhạc buồn, êm ả, sâu lắng vang lên từ đáy 
sâu tâm hồn với những cảm nhận tinh tế về thiên nhiên, tạo vật trƣớc sự biến chuyển của vũ 
trụ trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông: 
 Ganjitsu ya 
 omeoba sabishi 
 aki no kure. 
53 
 Ngày đầu xuân 
 sao mà tôi nhớ 
 chiều thu cô đơn. 
và 
 Shiratsuyu ni 
 sabishiki aji wo 
 wasururu na. 
 Không bao giờ quên 
 mùi vị cô đơn 
 của giọt sƣơng trắng. 
Đọc những câu thơ diễn tả cảm xúc của Basho, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc những cung 
bậc cảm xúc mà tác giả đã trải qua, cảm thấy dƣờng nhƣ mình đang cùng sống trong thế giới 
tâm tƣởng của tác giả, cùng buồn trƣớc mùa thu, cùng cô đơn khi bạn không đến, cùng giục 
giã, mong muốn đƣợc kết bạn... Nhạc điệu của tâm hồn đã gắn kết nhà thơ với độc giả. Tính 
nhạc trong thơ haiku của Basho rất đa dạng, tƣơng ứng với sự đa dạng của cảm xúc dâng trào. 
Nhạc tính trong thơ haiku của Basho không chỉ biểu hiện ở tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ 
mà còn biểu hiện ở những từ tƣợng thanh, ở âm thanh của cuộc sống mà ông miêu tả. Có thể 
khẳng định thơ haiku của Basho tràn đầy âm thanh của cuộc sống. 
Basho miêu tả một thế giới âm thanh của tự nhiên hết sức sống động nhƣ tiếng chim 
oanh (uguisu) hót: 
Ôi chim oanh 
 hát trước rừng trúc 
 sau hàng liễu xanh. 
Tiếng ve kêu (semi no koe): 
 Vắng lặng u trầm 
 thấm sâu vào đá 
 tiếng ve ngâm. 
 Tiếng ve mải mê 
 không hề để lộ 
 cái chết gần kề. 
Tiếng chim nhạn kêu: 
 Biển tối dần 
 tiếng kêu chim nhạn 
 trắng màu trong đêm. 
54 
Đặc biệt, tiếng chim cu hót (hototogisu) xuất hiện “đậm đặc” trong thơ haiku 
của Basho: 
 Tiếng chim cu 
 đi chênh chếnh 
 trên mặt hồ. 
 Ôi chim cu 
 bay lượn và ca hát 
 bận rộn xiết bao. 
 Vang tiếng chim cu 
 và lá diên vĩ 
 vươn năm bộ cao. 
Trong 126 bài thơ bản dịch của Nhật Chiêu có đến hàng chục bài miêu tả tiếng chim 
cu - loài chim báo hiệu mùa hè, loài chim rất đƣợc thơ tanka và haiku ƣa chuộng. 
Basho còn miêu tả âm thanh của vũ trụ nhƣ tiếng thác đổ: 
 Đây và đó 
 âm thanh thác đổ 
 lá non tràn đầy. 
Tiếng gió: 
 Mùa đông vò võ 
 thế gian một màu 
 và âm thanh gió. 
Tiếng mƣa đá: 
 Ôi dữ dội 
 tiếng mưa đá 
 đập lên ô tôi. 
Trong thơ Basho, bên cạnh âm thanh của tự nhiên là âm thanh của cuộc sống thƣờng 
ngày nhƣ tiếng rao của ngƣời bán cá: 
 Tiếng rao người bán cá 
 hòa trong tiếng chim cu 
 vang vang mùa hạ. 
Tiếng chuông chùa (kane): 
 Tiếng chuông chùa tan 
55 
 hương hoa đào buổi tối 
 như còn ngân vang. 
 Hoa đào như áng mây xa 
 chuông đền Ueno vang vọng 
 hay đền Asakura. 
Tiếng chày giã gạo: 
 Gần sáng, trăng 
 năm sắp hết 
 tiếng chày giã gạo. 
Tiếng gà gáy: 
 Mưa đổ 
 trên chuồng bò 
 tiếng gà ó o. 
Có những bài thơ Basho miêu tả âm thanh lắng đọng, thẳm sâu: 
 Shizukasa ya 
 iwa ni shimi iru 
 semi no koe. 
 Vắng lặng u trầm 
 thấm sâu vào đá 
 tiếng ve ngâm. 
Bài thơ vẽ nên một khung cảnh buồn, heo hút, vắng lặng với hiệu quả độc đáo của âm 
thanh tiếng ve kêu (semi no koe). Tiếng ve xuyên vào cõi cô tịch, thâm u của thiên nhiên làm 
cho đá núi nhƣ mềm ra. Còn gì mỏng manh hơn tiếng kêu của con ve tận sâu trong rừng vắng. 
Tiếng kêu ấy dội qua muôn trùng vách đá, lắng đọng, thẳm sâu càng làm nổi bật không gian 
cô tịch, vô định, vắng lặng. Ở đây có sự đối lập giữa cái mỏng manh nhƣng mềm mại, có 
phẩm tính lan tỏa (tiếng ve) với cái bất động, cứng lạnh (đá núi). Sự đối lập ấy cho thấy sự 
huyền nhiệm của sự sống. Tiếng ve xuyên qua đá núi, lắng đọng vào tâm thức ngƣời đọc, tan 
biến trong biển Thiền thẳm sâu, tịch liêu. Khi con ngƣời và sự vật ở trong cảnh cô liêu, tĩnh 
lặng sâu xa cũng là lúc tất cả đã chìm vào hƣ vô, thoát khỏi bản ngã để tiến đến trạng thái vô 
ngã. Bài thơ thấm đẫm chất Sabi - niềm cô tịch vô ngã và mang màu sắc Thiền tông khá đậm. 
Âm thanh tiếng ve trong bài thơ tạo nên khúc nhạc buồn, lắng đọng mà thẳm sâu. 
Sự hòa âm trong miêu tả âm thanh của thơ Basho cũng tạo nên hiệu quả nhất định trong 
việc thể hiện tính nhạc: 
 Tiếng rao người bán cá 
 hòa trong tiếng chim cu 
56 
 vang vang mùa hạ. 
Âm thanh tiếng rao ngƣời bán cá và âm thanh tiếng chim cu hòa vào nhau tạo nên khúc 
nhạc rộn ràng, tƣơi vui mà giản dị của cuộc sống. 
Chất nhạc trong thơ Basho không chỉ biểu hiện ở cảm xúc của tác giả, ở cách dùng từ 
tƣợng thanh mà còn biểu hiện ở sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ. 
Trùng điệp là một đặc điểm của ngôn ngữ thơ. Sự trùng điệp của âm vận, trùng điệp ở 
nhịp, trùng điệp ở ý thơ, trùng điệp của câu thơ hoặc một bộ phận của câu có tác dụng tạo 
những nhịp điệu tƣơng ứng trong suốt bài thơ, tạo những tiếng vang, tiếng rung vốn không có 
trong yếu tố cá biệt khi đứng riêng lẻ. 
Thơ khác với văn xuôi chủ yếu ở nhịp điệu, nhịp điệu là linh hồn của thơ. Có thể nói thơ 
là văn bản đƣợc tổ chức bằng nhịp điệu của ngôn từ. Nhiều bài thơ haiku của Basho có cấu 
trúc trùng điệp. Ví dụ: 
 Kyô nite mo 
 kyô natsukashi ya 
 hototogisu. 
 Ở kinh đô 
 cũng nhớ tiếc kinh đô 
 chim đỗ quyên. 
Basho sống ở Kyoto từ thời trẻ (từ năm hai mƣơi hai tuổi đến năm hai mƣơi tám tuổi), 
sau đó lên Edo (nay là Tokyo). Hai mƣơi năm sau, cuối đời trở lại thăm Kyoto ông đã viết nên 
bài thơ này. Bài thơ điệp lại hai lần từ “kyô” (Kyoto - kinh đô, cố đô của Nhật Bản) tạo nên 
một kiến trúc câu âm vang, tràn đầy chất nhạc biểu hiện nỗi nhớ da diết quá khứ đã qua của 
chủ thể trữ tình. Câu thơ đầu miêu tả không gian, địa điểm đến của chủ thể trữ tình: Kinh đô 
Kyoto, nơi Basho sống một thời trai trẻ. Câu thơ thứ hai thể hiện cảm xúc, nỗi niềm nhớ tiếc 
Kyoto. Câu thơ cuối nhắc đến loài chim quen thuộc, rất nổi tiếng trong thơ tanka và haiku của 
ngƣời Nhật Bản: Hototogisu (chim đỗ quyên, chim cu). Basho quay trở lại kinh đô Kyoto sau 
hai mƣơi năm xa cách, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà nhớ Kyoto năm nào. Âm thanh tiếng 
chim hót đã đánh thức cảm xúc của nhân vật trữ tình, gợi lên nỗi nhớ về một thời quá khứ, 
một thời tuổi trẻ. Trong bài thơ, tác giả nói đến tiếng chim hototogisu hót, khiến cho chủ thể 
trữ tình ở kinh đô mà nhớ kinh đô: Ở giữa kinh đô ngày nay mà nhớ kinh đô ngày xƣa, một 
kinh đô đầy kỉ niệm gắn với một thời trai trẻ. Đó là tiếng chim hay là tiếng ngƣời? Điều ấy 
mơ hồ không biết đƣợc, có thể là cả hai. Đó có thể là tiếng lòng của tác giả nhớ kinh đô ngày 
xƣa, một kinh đô đầy kỉ niệm, một kinh đô đã qua rồi... Hai mƣơi năm đã trôi qua, kinh đô đã 
có nhiều thay đổi, ngƣời đi xa lâu ngày trở về có lẽ đang dạo bƣớc trên đƣờng phố kinh đô và 
cố tìm lại dấu vết của đƣờng xƣa, phố cũ, cũng có thể cả ngƣời xƣa nữa... Bài thơ không nói 
cụ thể nhân vật trữ tình nhớ điều gì ở kinh đô, đây là điều mơ hồ, là khoảng trống để cho độc 
giả phải suy ngẫm, liên tƣởng, tƣởng tƣợng. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, sự nhớ tiếc quá khứ 
của nhân vật trữ tình và sự vô thƣờng của thế gian. 
57 
Điệp từ “kyô” đã tạo thêm chất nhạc cho bài thơ, góp phần biểu hiện cảm xúc nhớ tiếc 
quá khứ của chủ thể trữ tình, làm tăng thêm âm hƣởng buồn da diết toát lên từ bài thơ. 
Trong bài thơ Đã từng, Xuân Diệu đã điệp lại từ “đã từng” gần nhƣ trong toàn bộ 
bài thơ: 
 Tôi đã từng yêu, đã biết yêu 
 Đã từng thương nhớ những buổi chiều 
 Đã từng thao thức bao đêm trắng 
 Đã từng tận hiểu nghĩa chữ yêu 
 Đã từng già đi trước tuổi đời 
 Đã từng đau khổ mãi không thôi 
 Đã từng dang dở bao oan trái 
 Nước mắt trào rơi giữa cuộc đời. 
Điệp từ “đã từng” đƣợc nhắc lại nhiều lần làm nổi bật sự từng trải của nhân vật trữ tình. 
Nhân vật trữ tình đã nếm trải tất cả những ngọt ngào, chua chát, đắng cay, cả hạnh phúc và 
khổ đau trong cuộc sống. Kiểu trùng điệp từ nhƣ trên chẳng những làm cho những chữ rất 
thông thƣờng bỗng có âm vang khác lạ, tạo nên chất nhạc đậm đà cho bài thơ mà còn làm cho 
bài thơ liền mạch, giúp biểu đạt rõ nét nhất nội dung cảm xúc của nhà thơ. 
Cái đẹp trùng điệp của ngôn ngữ thơ Basho không chỉ do nhà thơ có ý thức láy đi láy lại 
một từ mà có khi còn do nhà thơ láy lại toàn bộ câu thơ trong cả bài thơ: 
 Matsushima ya 
 a Matsushima ya 
 Matsushima ya. 
 Kìa Tùng Đảo 
 ô kìa Tùng Đảo 
 kìa Tùng Đảo. 
Điệp lại toàn bộ câu thơ trong cả bài thơ hiếm gặp trong thơ ca nói chung. Toàn bài thơ 
của Basho điệp lại câu thơ thứ nhất “Matsushima ya” tạo nên sự độc đáo về nội dung và sự 
đặc sắc trong chất nhạc của bài thơ. Bài thơ vang lên tiếng reo hân hoan, đầy thán phục của 
nhân vật trữ tình trƣớc một danh lam thắng cảnh tuyệt vời có một không hai của Nhật Bản, đó 
là Matsushima - thắng cảnh thần tiên, nơi hội tụ mọi vẻ đẹp của thiên nhiên: Biển xanh tuyệt 
đẹp bao bọc những hòn đảo xinh xắn với đủ mọi hình thù, bầu trời trong xanh, sóng biển rì 
rào, màu xanh của cây tùng trên đảo... Tất cả gợi nên vẻ đẹp duyên dáng của Matsushima - kì 
quan tuyệt tác của thiên nhiên Nhật Bản. Chất nhạc của bài thơ âm vang, lan tỏa từ chính sự 
độc đáo trong nghệ thuật trùng điệp của nhà thơ. 
Chất nhạc trong thơ Basho còn biểu hiện ở cách ngắt nhịp. Một bài thơ haiku chuẩn 
thƣờng ngắt nhịp ở vị trí năm và mƣời hai, nghĩa là sau dòng thứ nhất và dòng thứ hai: 
58 
 Samazama no/ 
 koto omoichasu/ 
 sakura kana. 
 Nhiều điều xiết bao/ 
 gợi hồn ta nhớ/ 
 những cánh hoa đào. 
Sau khi đi thăm Kasshima và Yoshino, Basho trở về lâu đài xƣa ở Iga vào giữa mùa 
xuân, đứng dƣới hàng cây anh đào mà hơn hai mƣơi năm trƣớc, ông và ngƣời bạn thân thiết, 
yểu mệnh là Yoshitada (chết lúc hai tƣ tuổi) từng vui đùa học tập. Bùi ngùi, nhớ tiếc kỉ niệm 
xƣa, ông đã sáng tác bài thơ này. Cách ngắt nhịp thành ba đoạn trong bài thơ tạo nên âm điệu 
trầm lắng, buồn thƣơng man mác khi đọc lên. 
Nhạc tính trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu rất độc đáo. Bài thơ Việt Bắc với tình thơ 
tha thiết, điệu thơ êm ái, là một ca khúc trữ tình nồng nàn và sôi nổi bậc nhất trong thơ ca 
cách mạng hiện đại Việt Nam. Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi ngọt ngào: 
 Mình về mình có nhớ ta 
 Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng 
 Mình về mình có nhớ không 
 Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? 
Sự láy đi láy lại “Mình về mình có nhớ...” vang lên nhƣ một niềm day dứt khôn nguôi 
của ngƣời ở lại. Hai câu hỏi da diết vang lên, một câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không 
gian gói gọn cả một thời cách mạng, một vùng cách mạng và tâm trạng buồn day dứt khi chia 
ly của ngƣời ở lại. Nếu ở bốn câu đầu với nhịp thơ lục bát đều đặn, nhịp nhàng diễn tả nỗi 
niềm day dứt, bâng khuâng của ngƣời ở lại thì đến hai câu thơ tiếp theo: 
 Áo chàm đưa/buổi phân li 
 Cầm tay nhau/biết nói gì/hôm nay... 
nhịp thơ đã có sự thay đổi. Nhịp thơ ở hai câu thơ này đã diễn tả thần tình một thoáng 
ngập ngừng pha chút bối rối của ngƣời đi. Chút ngập ngừng này tạo ra một phút lặng cho 
chuỗi câu hỏi tiếp theo đƣợc vang lên dồn dập, tha thiết hơn. 
Nhƣ vậy, nhạc tính trong thơ là khúc nhạc của cảm xúc, của tâm hồn và tài năng tổ chức 
từ ngữ, câu thơ, dòng thơ, bài thơ của nhà thơ. Nhạc tính trong thơ haiku của Basho rất đa 
dạng, tƣơng ứng với sự đa dạng của cảm xúc dâng trào. Sự giàu có của nhạc tính trong thơ 
haiku Basho thể hiện các sắc thái tâm trạng của nhà thơ đồng thời thể hiện tài năng sử dụng 
ngôn ngữ của chủ thể sáng tạo. 
3. Kết luận 
Tài năng sáng tạo bậc thầy của Basho thể hiện rõ trong lĩnh vực ngôn ngữ. Basho đã để 
lại các ẩn ý vào từng câu chữ nhỏ nhắn, giản dị. Đọc và suy ngẫm kĩ sẽ nhận thấy ngôn ngữ 
59 
thơ haiku Basho giàu nhạc tính và cũng thật tinh tế, sâu sắc. Từng từ ngữ, từng bức tranh 
phong cảnh nhỏ nhắn tƣởng nhƣ không nói gì nhƣng lại gợi nhiều điều qua cách miêu tả màu 
sắc, đƣờng nét, ánh sáng, âm thanh của cuộc sống và khúc nhạc của tâm hồn Basho - một tâm 
hồn tinh tế mà thẳm sâu trƣớc sự vận động, biến chuyển của thiên nhiên, tạo vật. Cảm xúc 
tinh tế qua nhịp đập con tim đƣợc bộc lộ cùng với cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, biến hóa, 
cách tổ chức ngôn ngữ sinh động và độc đáo trong thơ Basho đã tạo nên chất nhạc trong thơ 
của ông, khiến cho thơ haiku Basho luôn làm say lòng mọi thế hệ độc giả. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nhật Chiêu (2003). Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868. Nhà xuất bản Giáo dục, 
Hà Nội. 
[2] Nhật Chiêu (1994). Basho và thơ haiku. Nhà xuất bản văn học, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[3] Lê Bá Hán (Chủ biên) (1997). Từ điển thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Đại học Quốc 
gia, Hà Nội. 
[4] Lê Từ Hiển (2007). Haiku hoa thời gian. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 
[5] Bùi Công Hùng (2000). Quá trình sáng tạo thơ ca. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin 
Hà Nội. 
[6] Đỗ Văn Khang (2002). Mỹ học đại cƣơng. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
[7] Hà Văn Lƣỡng (2010). “Những sắc thái thẩm mĩ trong thơ haiku”. Truy cập tại: 
httt:/tapchisonghuong.com.vn. 
[8] Phƣơng Lựu (2003). Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 
[9] Hồ Á Mẫn (2011). Giáo trình văn học so sánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[10] Hoàng Phê (chủ biên) (1992). Từ điển tiếng Việt. Nhà xuất bản Trần Phú, Thành phố 
Hồ Chí Minh. 
THE MUSICAL ASPECTS IN HAIKUS BY MATSUO BASHO 
Ha Thi Hai 
Tay Bac University 
Abstract: Matsuo Basho is a brilliant haiku poet of Japan. His haiku poems are plentiful musical. The 
musical richness of his haikus is shown in the poet’s mood and feeling aspects, and how to use onomatope, the 
way to organize language prudently and lively by formative subject, such as repeating letter, repeating the 
sentence through all poems, breaking the rhythm, so on and so forth. 
Keywords: Musical, Matsuo Basho, haiku.