Tài liệu Nghiên cứu thu nhận enzyme bromelain thô từ chồi ngọn dứa (ananas comosus): An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
84 
NGHIÊN CỨU THU NHẬN ENZYME BROMELAIN THÔ TỪ CHỒI NGỌN DỨA 
(ANANAS COMOSUS) 
Nguyễn Phú Thọ1 
1Trường Đại học An Giang 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 31/08/2017 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
07/06/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 
08/2018 
Title: 
A study of the extraction of 
crude bromelain from the 
pineapple bud (Ananas 
comosus) 
Keywords: 
Acetone precipitation, 
bromelain, drying 
precipitation, pineapple bud 
(Ananas comosus) 
Từ khóa: 
Chồi dứa (Ananas comosus), 
bromelain, kết tủa acetone, 
sấy khô kết tủa 
ABSTRACT 
This paper presents the study of the extraction of crude bromelain from the 
pineapple bud. The project objectives were the establishment of the simple 
bromelain production procedure which based on studies of (a) Appropriate 
extraction conditions of bromelain from pineapple bud; (b) The effects of 
precipitants on bromelain activity; (c) Appropriate temperatur...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 597 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu thu nhận enzyme bromelain thô từ chồi ngọn dứa (ananas comosus), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
84 
NGHIÊN CỨU THU NHẬN ENZYME BROMELAIN THÔ TỪ CHỒI NGỌN DỨA 
(ANANAS COMOSUS) 
Nguyễn Phú Thọ1 
1Trường Đại học An Giang 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 31/08/2017 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
07/06/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 
08/2018 
Title: 
A study of the extraction of 
crude bromelain from the 
pineapple bud (Ananas 
comosus) 
Keywords: 
Acetone precipitation, 
bromelain, drying 
precipitation, pineapple bud 
(Ananas comosus) 
Từ khóa: 
Chồi dứa (Ananas comosus), 
bromelain, kết tủa acetone, 
sấy khô kết tủa 
ABSTRACT 
This paper presents the study of the extraction of crude bromelain from the 
pineapple bud. The project objectives were the establishment of the simple 
bromelain production procedure which based on studies of (a) Appropriate 
extraction conditions of bromelain from pineapple bud; (b) The effects of 
precipitants on bromelain activity; (c) Appropriate temperature of drying; 
(d) Applying extracted bromelain to hydrolysis of Tra fish by-product. The 
results showed that the appropriate ratio between pineapple bud and 
distilled water was 1:3. The best precipitant was acetone with the ratio 
between pineapple bud and acetone = 1:1. The optimum drying temperature 
was 45 oC within 4 hours. This bromelain product had the hydrolysis 
property higher than the commercial one (Sigma - Aldrich). 
TÓM TẮT 
Đề tài nghiên cứu thu nhận enzyme bromelain thô từ chồi dứa được thực 
hiện nhằm mục tiêu nghiên cứu quy trình sản xuất bột bromelain đơn giản và 
rẻ tiền dựa trên các nghiên cứu: (a) Điều kiện trích ly bromelain từ chồi 
ngọn dứa; (b) Ảnh hưởng của các tác nhân tủa đến bromelain; (c) Nhiệt độ 
sấy khô kết tủa bromelain; (d) Thử khả năng thủy phân phụ phẩm cá tra giữa 
bromelain sản phẩm và bromelain thương mại. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nước là dung môi thích hợp để trích ly 
bromelain từ chồi ngọn dứa với tỷ lệ chồi ngọn:nước là 1:3. Acetone cho 
hiệu quả tủa bromelain chồi ngọn tốt nhất. Tỷ lệ dịch trích enzyme:acetone 
là 1:1. Nhiệt độ sấy khô kết tủa tối ưu là 45 oC, thời gian sấy 4 giờ. 
Bromelain sản phẩm thu được có khả năng thủy phân phụ phẩm cá tra. Khả 
năng thủy phân của bromelain sản phẩm thí nghiệm cao hơn bromelain 
thương mại (Sigma - Aldrich). 
1. GIỚI THIỆU 
Bromelain là một loại enzyme thủy phân đạm 
(proteinase) được tìm thấy trong toàn bộ cây 
dứa cũng như trong các phế phụ phẩm của dứa 
(Ananas comosus), đây là một enzyme được 
ứng dụng rộng rãi trong y học và chế biến thực 
phẩm. 
Trong ngành công nghệ chế biến dứa sẽ có các 
phế phẩm như lõi, chồi, vỏ và lá. Phần phế 
phẩm này chiếm một tỷ lệ lớn của lượng dứa 
nguyên liệu đưa vào chế biến, khoảng 70% 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
85 
(Nguyễn Bá Mùi, 2005). Tuy nhiên ở Việt 
Nam, một nước nhiệt đới có sản lượng dứa lớn, 
việc tách bromelain từ phế phụ phẩm tạo chế 
phẩm thương mại ứng dụng trong công nghiệp 
chưa nhiều. Ở các nông trường trồng dứa, cây 
và lá dứa bị bỏ khô trên đất hoặc được vùi làm 
phân bón. Ở các nhà máy chế biến rau quả, 
phần lớn phụ phẩm dứa được đưa ra bãi rác gây 
ô nhiễm môi trường. 
Xuất phát từ tình hình thực tế trên đề tài 
“Nghiên cứu thu nhận enzyme bromelain thô từ 
chồi dứa (Ananas comosus)” được thực hiện 
nhằm bước đầu xây dựng quy trình thu nhận 
bromelain thô từ chồi dứa góp phần đáp ứng 
được nhu cầu sử dụng enzyme; làm tăng giá trị 
kinh tế của cây dứa. Mặt khác, đề tài còn góp 
phần giải quyết được một phần nguồn phụ 
phẩm từ công nghiệp chế biến dứa. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1 Mẫu nghiên cứu 
Nguyên liệu: Phụ phẩm chồi dứa được chọn là 
chồi ngọn thu tại các chợ trên địa bàn thành phố 
Long Xuyên. 
Hóa chất: Coomasie Brillant Blue G250 
(Merck), L-Cystein (Merck), Casein (Trung 
Quốc), Tyrosin (Merck), Tricloroacetic acid 
(Trung Quốc), EDTA, NaH2PO4 và Na2HPO4 
(Trung Quốc) để pha dung dịch đệm phosphat 
có pH = 7, H3PO4,  
2.2 Nội dung nghiên cứu 
2.2.1 Trích ly bromelain từ chồi ngọn dứa 
Chồi ngọn dứa sau khi loại hết lá, rửa sạch, 
nghiền nhuyễn và được ly trích bằng hai loại 
dung dịch: nước cất; đệm phostphat 50 mM, 
pH=7. Nước cất hoặc đệm được cho lần lượt 
vào các cốc chứa 10 g chồi ngọn đã nghiền 
nhuyễn với thể tích khác nhau 20 ml, 30 ml, 40 
ml và 50 ml. Khuấy đều trên máy khuấy từ 
trong 15 phút. Sau đó ly tâm ở 13.000 
vòng/phút, trong 10 phút, 4 oC. Bỏ cặn, lấy dịch 
enzyme trong bên trên để xác định hoạt tính 
bromelain. 
2.2.2 Ảnh hưởng của tác nhân tủa lên hoạt 
tính bromelain 
Bromelain được trích ly từ chồi ngọn bằng 
nước cất với tỷ lệ chồi ngọn:nước thích hợp. 
Sau đó ly tâm ở 13.000 vòng/phút, trong 10 
phút, 4 oC. Lấy dịch trích enzyme ở phía trên 
đem tủa với các tác nhân: acetone (với tỷ lệ 
dịch trích enzyme:acetone lần lượt là 1/1, 1/2, 
1/3 và 1/4); ethanol 960 (với tỷ lệ dịch 
trong:ethanol lần lượt là 1/4, 1/5, 1/6 và 1/7); 
(NH4)2SO4 (30%, 40%, 50% và 60%). Kết thúc 
quá trình tủa tiến hành ly tâm ở 13.000 
vòng/phút, trong 10 phút, 4 oC. Thực hiện đo 
hoạt tính trước và sau khi tủa. 
2.2.3 Ảnh hưởng của nhiệt độ lên hoạt tính 
bromelain trong quá trình sấy 
Bromelain được trích ly từ chồi ngọn bằng 
nước cất với tỷ lệ chồi ngọn:nước là 10 g:30 
ml. Dịch trích enzyme được tủa bằng acetone 
với tỷ lệ dịch trích enzyme:acetone là 1:1. Kết 
thúc quá trình tủa ly tâm ở 13.000 vòng/phút, 
trong 10 phút, 4 oC để thu lấy tủa. Trải kết tủa 
thật mỏng trên khai nhựa, sấy đối lưu tự nhiên 
bằng tủ sấy Memmert UNB500 ở nhiệt độ 45 
oC, 55 oC, 65 oC và để khô tự nhiên ở nhiệt độ 
phòng 30 oC. Cứ sau 2 giờ lấy mẫu một lần ở 
mỗi nhiệt độ sấy tương ứng để xác định hoạt 
tính. 
2.2.4 So sánh khả năng thủy phân phụ phẩm 
cá tra giữa sản phẩm bromelain thí 
nghiệm và bromelain thương mại 
Phụ phẩm cá tra gồm đầu, xương, bụng được 
nghiền nhuyễn và tách béo. Bổ sung enzyme 
bromelain trong nghiên cứu và bromelain 
thương mại với nồng độ 0,1%. Tiến hành thủy 
phân trên bếp cách thủy ở nhiệt độ 37 oC. Mẫu 
đối chứng không bổ sung enzyme. Khối lượng 
cho mỗi mẫu thủy phân là 1 kg phụ phẩm. Khi 
thủy phân xong, chiết lấy dịch thủy phân và 
nâng nhiệt độ lên 100 °C trong 15 phút để vô 
hoạt enzyme. Sau đó dịch thủy phân được lọc 
và phân tích hàm lượng đạm amin. 
2.3 Phương pháp phân tích 
2.3.1 Xác định hàm lượng protein 
Hàm lượng protein được xác định theo phương 
pháp Bradfrod (1996). Nồng độ protein được 
xác định sau khi cho tác dụng với Coomassie 
Brilliant Blue (CBB) G250. Chất này kết hợp 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
86 
với protein trong điều kiện axít tạo nên phức 
màu xanh tím hấp thu ánh sáng ở bước sóng 
595 nm. Độ hấp thu tỷ lệ thuận với hàm lượng 
protein trong dung dịch. Dựng đường chuẩn 
hàm lượng protein, dựa vào đường chuẩn suy ra 
nồng độ protein trong mẫu. Protein thu hồi bằng 
protein sau khi tủa chia cho protein trước khi 
tủa nhân với 100. 
2.3.2 Xác định họat tính papain 
Hoạt tính enzyme papain được xác định dựa 
theo phương pháp Kunitz (1917) cải tiến, sử 
dụng casein làm cơ chất thủy phân và đã được 
điều chỉnh để có thể thực hiện trong ống 
eppendorf. Cho vào các ống eppendorf 600 µl 
1% (w/v) casein + 40 µl Cystein 20 mM + 140 
µl đệm phosphat (pH = 7,5) + 20 µl enzyme. 
Ống đối chứng bất hoạt enzyme bằng TCA 
15%. Ủ lắc 10 phút, 37 oC. Ly tâm 13.000 rpm, 
10 phút. Dung dịch được đo độ hấp thụ ánh 
sáng ở 275 nm. 
Một đơn vị hoạt tính của papain (Tyrosin Unit 
(TU) là lượng enzyme cần thiết để thủy phân 
casein cho ra 1 µg tyrosine trong 1 phút ở 37 
oC, pH =7,5. 
Hoạt tính đặc hiệu là số đơn vị hoạt tính của 
enzyme trên 1 mg protein (U/mg). Hoạt tính thu 
hồi bằng hoạt tính bromelain sau khi tủa chia 
cho hoạt tính bromelain trước khi tủa nhân với 
100. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Từ 10 kg chồi ngọn sau khi làm sạch lá gai thu 
được 2 kg chồi. Rửa sạch, nghiền và trích ly 
được 4 L dịch chiết enzyme bromelain. Hàm 
lượng protein và hoạt tính của dịch trích thô đã 
được xác định ở Bảng 1. 
Bảng 1. Thành phần protein và hoạt tính bromelain trong chồi dứa 
Chồi ngọn 
chưa xử lý 
(kg) 
Chồi ngọn 
sau khi xử lý 
(kg) 
Thể tích 
(lít) 
Protein 
(mg/ml) 
Hoạt tính 
(U/ml) 
Hoạt tính đặc hiệu 
(U/mg) 
10 2 4 1,06 4,62 4,36 
Kết quả này giống với Lại Thị Ngọc Hà (2009), 
hoạt lực protease trong chồi ngọn và vỏ quả là 
cao nhất. Đặng Thị Thu, Lê Ngọc Tú, Tô Kim 
Anh, Phạm Thu Thủy và Nguyễn Thị Xuân 
Sâm (2005) khẳng định, bromelain thu nhận 
chủ yếu từ chồi và vỏ dứa. Đinh Thị Tình 
(2007) đã khảo sát hoạt lực protease trong các 
phần của quả dứa cũng cho kết quả tương tự. 
Như vậy, chồi ngọn là phần phụ phẩm có thể 
dùng để tách protease. 
3.1 Ảnh hưởng của dung dịch trích và tỷ lệ 
trích ly đến bromelain chồi dứa 
Kết quả ảnh hưởng của loại dung dịch trích ly 
và tỷ lệ trích ly bromelain chồi ngọn dứa đến 
hàm lượng protein tổng và hoạt tính đặc hiệu 
của bromelain được trình bày ở Bảng 2. 
Kết quả Bảng 2 cho thấy, hàm lượng protein 
khác biệt không có ý nghĩa ở các nghiệm thức 
khác nhau. Hàm lượng protein thu được cao 
nhất là 1,82 mg/ml khi ly trích bằng nước với tỷ 
lệ 1/5 nhưng hoạt tính đặc hiệu thu được là thấp 
nhất (2,04 U/mg). Tương tự, hoạt tính đặc hiệu 
cũng khá thấp (2,27 U/mg) khi ly trích bằng 
đệm ở tỷ lệ 1/5. Điều này cho thấy ở hàm lượng 
nước cao enzyme dễ dàng bị mất hoạt tính. 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
87 
Bảng 2. Ảnh hưởng của dung dịch trích ly và tỷ lệ trích ly đến lượng protein và hoạt tính đặc hiệu của 
bromelain 
Dung dịch trích ly 
Tỷ lệ 
Chồi:dung môi 
Protein tổng 
(mg) 
Hoạt tính 
đặc hiệu (U/mg) 
Đệm 
1/2 1,33ab 3,21a 
1/3 1,25ab 3,43a 
1/4 1,61ab 2,84abc 
1/5 1,52ab 2,27bc 
Nước 
1/2 1,18ab 2,06bc 
1/3 1,15b 3,54a 
1/4 1,70ab 2,89ab 
1/5 1,82a 2,04c 
Ghi chú: Các giá trị trung bình được theo sau cùng một ký tự trong cùng một cột thì khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê ở mức ý nghĩa 5%. 
Hoạt tính đặc hiệu của bromelain (Bảng 2) khi 
ly trích ở tỷ lệ 1/3 bằng đệm là 3,43 U/mg và 
bằng nước là 3,54 U/mg cao hơn so với các 
nghiệm thức còn lại. Như vậy cho thấy, tỷ lệ 
1/3 thích hợp cho việc trích ly bromelain từ 
chồi ngọn dứa. 
Tóm lại, tỷ lệ ly trích bromelain từ chồi dứa 
thích hợp là 1/3. Theo kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Phú Thọ và Dương Thị Hương Giang 
(2011) thì tỷ lệ trích ly papain (enzyme cùng 
nhóm với bromelain) từ nhựa đu đủ thích hợp 
nhất là nhựa:nước: 0,1:2 g/ml. Như vậy so sánh 
kết thí nghiệm với kết quả nghiên cứu này ta 
thấy nước là dung môi rẻ tiền có thể sử dụng để 
trích ly enzyme nhóm thiol protease. 
3.2 Kết quả ảnh hưởng của tác nhân tủa 
đến hoạt tính bromelain 
Độ hòa tan của enzyme phụ thuộc vào sự tương 
tác của các nhóm tích điện trong phân tử 
enzyme với các phân tử nước. Sự tương tác đó 
(còn gọi là sự hydrate hóa) sẽ bị giảm xuống 
khi thêm vào dung dịch protein enzyme các 
dung môi hữu cơ hoặc các muối trung tính. 
Hình 1. Dịch trích chồi dứa trước và sau khi tủa 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
88 
Dung môi hữu cơ thường dùng là ethanol, 
isopropanol, acetone hoặc hỗn hợp các loại 
rượu. Mỗi loại dung môi khác nhau sẽ có ảnh 
hưởng khác nhau đến hoạt tính enzyme trong 
quá trình kết tủa. Tương tự, trong cùng một loại 
dung môi (hay tác nhân tủa) thì nồng độ dung 
môi khác nhau cũng có ảnh hưởng khác nhau 
đến hoạt lực của enzyme. Theo Mariela, Bruno, 
Pardo, Caffini và López (2002), khi tủa 
bromelain quả với acetone, protein thu hồi đạt 
90%, hoạt tính thu hồi là 94%. Ngược lại, khi 
tủa với ethanol protein thu hồi giảm còn 75% 
và hoạt tính thu hồi là 88%. Điều này cho thấy, 
tác nhân tủa khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác 
nhau đến hoạt tính của enzyme sau tủa. 
Đề tài đã khảo sát ảnh hưởng của ba loại tác 
nhân tủa là ethanol, acetone và ammonium 
sulfate ở các nồng độ khác nhau. Kết quả thí 
nghiệm được trình bày ở Bảng 3. 
Bảng 3. Ảnh hưởng của tác nhân tủa đến hoạt tính và protein thu hồi của enzyme bromelain chồi 
Tỷ lệ tủa 
Protein 
thu hồi (%) 
Hoạt tính 
thu hồi (%) 
Hoạt tính 
đặc hiệu (U/mg) 
Enzyme:ethanol:1:4 32,58b 36,96de 5,61e 
Enzyme:ethanol:1:5 38,48a 55,32ab 7,04de 
Enzyme:ethanol:1:6 38,98a 66,62a 8,38d 
Enzyme:ethanol:1:7 36,52a 43,08cde 5,78e 
Enzyme:acetone:1:1 12,40f 50,14bc 19,66a 
Enzyme:acetone:1:2 15,85ef 33,19e 11,00c 
Enzyme:acetone:1:3 19,29cde 48,73bcd 12,28bc 
Enzyme:acetone:1:4 15,85ef 43,55bcde 13,55b 
Ammonium sulfate (30%) 17,25de 6,97f 1,97f 
Ammonium sulfate (40%) 19,71cd 10,03f 2,49f 
Ammonium sulfate (50%) 21,61c 14,36f 3,26f 
Ammonium sulfate (60%) 19,78cd 12,48f 3,09f 
Ghi chú: Các giá trị trung bình được theo sau cùng một ký tự trong cùng một cột thì không khác biệt về mặt thống kê 
ở mức ý nghĩa 5%. 
Đối với tác nhân tủa là ethanol, kết quả ở Bảng 
3 cho thấy, protein thu hồi thấp nhất ở tỷ lệ 
enzyme:ethanol là 1/4 (32,58%). Phần trăm 
protein thu hồi cao nhất là 38,48% và 38,98% 
tương ứng với tỷ lệ dịch trích enzyme:ethanol là 
1/5 và 1/6. Tuy nhiên, với tỷ lệ enzyme:ethanol 
là 1/7 thì phần trăm thu hồi protein lại giảm 
(36,52%) nhưng khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê so với tỷ lệ 1/5 và 1/6. 
Trong chiết xuất enzyme, phần trăm hoạt tính 
thu hồi thường dùng để đánh giá sự hiệu quả 
của phương pháp. Ở điều kiện tinh sạch tối ưu 
phần trăm hoạt tính thu hồi có thể đạt xấp xỉ 
90% (Lopes và cs., 2009). Đối với hoạt tính thu 
hồi, ở tỷ lệ enzyme:ethanol là 1/4 thì hoạt tính 
thu hồi thấp nhất (36,96%). Phần trăm hoạt tính 
thu hồi tăng lên 55,32% ở tỷ lệ 1/5. Khi tỷ lệ 
enzyme:ethanol là 1/6, hoạt tính thu hồi tăng 
lên 66,62%. Tuy nhiên không có sự khác biệt ý 
nghĩa 5% về hoạt tính thu hồi giữa 2 tỷ lệ 1/5 
và 1/6. Hoạt tính thu hồi lại giảm còn 43,08% ở 
tỷ lệ 1/7. Theo Lại Thị Ngọc Hà (2009), hàm 
lượng protein và hoạt tính thu hồi cũng tăng lên 
khi nồng độ ethanol trong thể tích hỗn hợp tăng 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
89 
và sau đó lại giảm khi nồng độ ethanol tăng 
vượt quá. 
Hoạt tính đặc hiệu thể hiện độ tinh sạch của 
enzyme, hoạt tính đặc hiệu càng cao enzyme 
càng tinh sạch. Kết quả Bảng 3 cho thấy, khi 
nồng độ ethanol tăng thì hoạt tính đặc hiệu thu 
được sau tủa cũng tăng, nhưng khi nồng độ 
ethanol vượt quá cao thì hoạt tính lại giảm. 
Hoạt tính đặc hiệu thấp nhất ở tỷ lệ 
enzyme:ethanol là 1/4 (5,61 U/mg) và cao nhất 
ở tỷ lệ 1/6 (8,38 U/mg). Khi nồng độ ethanol 
tăng lên (tỷ lệ 1/7) thì hoạt tính đặc hiệu lại 
giảm (5,78 U/mg). Khi nồng độ ethanol quá cao 
thì lực tương tác tĩnh điện tăng lên, kết quả làm 
cho các phân tử enzyme bị vặn uốn gây ảnh 
hưởng đến hoạt tính. So sánh giữa các nghiệm 
thức khảo sát có thể thấy tỉ lệ tủa 
enzyme:ethanol 1:6 là tối ưu nhất. Tỷ lệ 1/6 
tương đương với nồng độ ethanol khoảng 82%. 
Kết quả này trùng khớp với Lại Ngọc Hà 
(2009) kết tủa bromelain chồi bằng cồn ở nồng 
độ 80% là tốt nhất. 
Đối với tác nhân tủa là acetone, kết quả thí 
nghiệm cho thấy, phần trăm protein thu hồi thấp 
nhất là 12,40% tương ứng với tỷ lệ 
enzyme:acetone là 1:1. Ở tỷ lệ enzyme:acetone 
là 1/2 phần trăm protein thu hồi là 15,85% và 
tăng lên 19,29% ở tỷ lệ 1/3. Tuy nhiên, phần 
trăm thu hồi protein lại giảm xuống còn 15,85% 
với tỷ lệ enzyme:acetone là 1/4. Ở nồng độ 
acetone quá cao, protein bị biến tính không 
thuận nghịch và không thể hòa tan trở lại trong 
nước hay dung dịch đệm sau khi kết tủa. 
Ở tỷ lệ enzyme:acetone là 1/1 kết tủa thu được 
có hoạt tính đặc hiệu cao và khác biệt so với 
các mẫu còn lại. Tuy hiệu suất thu hồi protein 
thấp nhưng hoạt tính thu hồi và hoạt tính đặc 
hiệu cao chứng tỏ enzyme khá sạch. Theo kết 
quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Trúc 
(2010), tỷ lệ enzyme:acetone là 1/1 cũng cho 
hiệu quả tủa tốt nhất ở bromelain thân dứa. 
Đối với tác nhân tủa là ammonium sulfate, kết 
quả thí nghiệm cho thấy, khi lượng ammonium 
sulfate tăng từ 30% đến 50% thì phần trăm thu 
hồi protein cũng tăng. Ở 30%, lượng protein thu 
hồi đạt 17,25% và ở 50% ammonium sulfate 
bão hòa tăng đến 21,61%, sau đó giảm ở các 
nồng độ ammonium sulfate bão hòa cao hơn thể 
hiện qua lượng protein còn (19,78% thu hồi). 
Theo Bảng 3 thì ở nồng độ 50% ammonium 
sulfate bão hòa có phần trăm hoạt tính thu hồi 
đạt cao nhất 14,36% nhưng khác biệt không có 
ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn 
lại. Khi nồng độ ammonium sulfate bão hòa 
tăng lên 60% thì hoạt tính đặc hiệu và hoạt tính 
thu hồi có xu hướng giảm. Như vậy có thể thấy 
với nồng độ ammonium sulfate 50% bão hòa thì 
các protein trong dung dịch đều được kết tủa 
với hàm lượng và hoạt tính thu hồi enzyme cao 
nhất. Kết quả này không khớp với nghiên cứu 
của Nguyễn Văn Thành và cs. (2013) khi nồng 
độ ammonium sulfate 70% thì hoạt tính thu hồi 
bromelain trong thân dứa là cao nhất. Ở nồng 
độ muối cao hơn 70% bão hòa, lực điện tích 
tăng lên, số lượng ion kết hợp với protein 
nhiều, lực tĩnh điện được tạo thành sẽ làm cho 
phân tử protein bị xoáy, vặn và dẫn đến sự biến 
tính (Nguyễn Đình Huyên, Hà Ái Quốc, Lâm 
Thị Kim Châu, Lê Thị Thanh Mai, 1994). 
Theo kết quả của Nguyễn Đình Huyên và cs. 
(1994), khi kết tủa bromelain trái bằng 
ammonium sulfate ở các nồng độ từ 30% đến 
100% cũng đã kết luận nồng độ 70% 
ammonium sulfate cho hiệu suất thu hồi hoạt 
tính cao nhất. Dương Thị Hương Giang và cs. 
(2002) đã nghiên cứu đánh giá các phương 
pháp trích ly bromelain từ nước khóm thô bằng 
acetone và ammonium sulfate đã kết luận rằng, 
phương pháp trích ly bromelain bằng 
ammonium sulfate theo tỷ lệ 70% bão hòa thu 
nhận bromelain thô cho hiệu suất thu hồi khá 
cao 92% so với hoạt tính ban đầu. Như vậy cho 
thấy có sự khác biệt trong cấu trúc giữa 
bromelain trong thân, nước khóm và chồi ngọn. 
Tóm lại, khi so sánh giữa các tác nhân tủa thì 
hoạt tính đặc hiệu của các mẫu tủa bằng 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
90 
ammonium sulfate là thấp hơn so với các tác 
nhân tủa khác. Điều này cho thấy, ammonium 
sulfate không cho hiệu quả tủa bromelain chồi 
tốt vì kết tủa chứa nhiều protein tạp. Đối với 
phương pháp tủa bằng acetone tỷ lệ 1/1 hoạt 
tính đặc hiệu của bromelain thu được cao nhất 
là 19,66 U/mg gấp 2 lần so với mẫu tủa bằng 
ethanol tỷ lệ 1/6 (8,38 U/mg) và gấp 6 lần so 
với mẫu tủa bằng ammonium sulfate 50% (3,26 
U/mg). Với ethanol tỉ lệ 1:6, tăng thu hồi 
protein 3 lần, tăng hoạt tính thu hồi phần trăm 
cao hơn so với aceton nhưng hoạt tính đặc hiệu 
thấp hơn chứng tỏ trong thành phần kết tủa 
ngoài bromelain còn có nhiều protein tạp. Như 
vậy, acetone là dung môi thích hợp để tinh sạch 
sơ bộ bromelain chồi, mặc dù protein thu hồi 
tương đối thấp (khoảng 12,4%), nhưng hoạt 
tính đặc hiệu rất cao cho thấy về mức độ tinh 
sạch cũng tốt hơn nhiều so với hai tác nhân tủa 
còn lại. 
3.3 Kết quả ảnh hưởng của nhiệt độ đến 
hoạt tính bromelain trong quá trình sấy 
khô kết tủa 
Nhiệt độ sấy và thời gian sấy là hai yếu tố quan 
trọng ảnh hưởng đến hoạt tính của chế phẩm 
enzyme. Sấy ở nhiệt độ cao có thể làm mất hoạt 
tính của enzyme do protein bị biến tính. Tuy 
nhiên, khi sấy ở nhiệt độ thấp thì thời gian sấy 
kéo dài và trong thời gian này với sự hiện diện 
của ẩm độ cao thì sự tự phân của các protease 
sẽ diễn ra làm enzyme bị mất hoạt tính. 
Bảng 4. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt tính đặc hiệu của enzyme bromelain qua quá trình sấy 
Nhiệt độ (oC) 
Hoạt tính đặc hiệu (U/mg) 
Trung bình Thời gian (giờ) 
2 4 6 
Phòng (30 oC) 14,48a x 14,15c x 8,08 b y 12,24 
45 15,47a x 13,71bc x 10,18b y 13,12 
55 15,64a x 11,98b y 8,36b z 12,00 
65 14,34a x 3,13a y 0,00a z 5,82 
Trung bình 14,99 10,74 6,65 
Ghi chú: Các kí tự từ a – b so sánh các trung bình trong cùng một cột, các kí tự từ x – z so sánh các trung bình trong 
cùng một hàng. Các kí tự giống nhau không khác biệt về mặt thống kê ở mức ý nghĩa 5%. 
Kết quả ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian 
đến hoạt tính của bromelain trong quá trình sấy 
kết tủa được thể hiện trong Bảng 4. Kết quả 
Bảng 4 cho thấy, thời gian sấy càng kéo dài thì 
hoạt tính bromelain càng giảm. 
Ở nhiệt độ phòng sau 6 giờ kết quả thực nghiệm 
cho thấy, độ ẩm của chế phẩm bromelain vẫn 
cao hơn 10%. Mức ẩm độ này chưa đủ để bảo 
quản chế phẩm được lâu vì độ ẩm càng cao thì 
enzyme dễ dàng bị mất hoạt tính. Đồng thời 
theo kết quả thí nghiệm (Bảng 4) thì ở nhiệt độ 
này hoạt tính bromelain giảm nhanh theo thời 
gian đặc biệt là sau 6 giờ sấy, do đó không thể 
làm khô tủa bromelain chồi ở nhiệt độ phòng. 
Ở nhiệt độ 45 °C, hoạt tính bromelain ở 2 giờ 
sấy là 15,47 U/mg và giảm còn 13,71 U/mg sau 
4 giờ sấy. Tuy nhiên khác biệt này không có ý 
nghĩa thống kê. Sau 6 giờ sấy hoạt tính 
bromelain là 10,18 U/mg giảm đáng kể so với 
thời gian 2 giờ và 4 giờ. Như vậy, thời gian sấy 
thích hợp cho bromelain chồi ngọn ở 45 oC là 4 
giờ. 
Ở 55 oC và 65 °C, khi kéo dài thời gian sấy thì 
hoạt tính bromelain giảm nhanh theo thời gian 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
91 
và có sự khác biệt ý nghĩa giữa mốc thời gian 2 
giờ và 4 giờ sấy. 
Không chỉ có nhiệt độ mà thời gian cũng ảnh 
hưởng đến hoạt tính của bromelain trong quá 
trình sấy. Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi thời 
gian sấy càng kéo dài thì hoạt tính đặc hiệu của 
bromelain càng giảm do càng có nhiều phân tử 
enzyme bị biến tính. Ở thời gian 2 giờ, hoạt tính 
đặc hiệu của bromelain khác biệt không có ý 
nghĩa khi sấy ở các nhiệt độ khác nhau. 
Tóm lại, chế phẩm bromelain có thể sấy ở nhiệt 
độ 45 °C trong 4 giờ là thích hợp nhất với hoạt 
tính đặc hiệu là 13,71 U/mg. So với hoạt tính 
đặc hiệu ban đầu (18,71 U/mg) thì phần trăm 
hoạt tính còn lại sau khi sấy là 73,28%. So với 
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thành và 
cs. (2013) thì hoạt tính còn lại của bromelain 
thân dứa là 87,55% khi thực hiện sấy đông khô. 
Lại Thị Ngọc Hà (2009) so sánh hiệu quả của 
phương pháp sấy phun và sấy đông khô 
bromelain cho kết quả hoạt tính được giữ lại 
sau hai quá trình này là 96% và 73%, tương 
ứng. 
3.4 So sánh khả năng thủy phân phụ phẩm 
cá tra giữa sản phẩm bromelain thí 
nghiệm với sản phẩm bromelain thương 
mại 
Hình 2. Bột bromelain chồi dứa sau khi sấy 
Sau khi sấy khô kết tủa thì thu được chế phẩm 
bromelain dạng bột màu trắng ngà. Tiến hành 
đo hoạt tính để so sánh với sản phẩm bromelain 
thương mại (Sigma-Aldrich). Kết quả Bảng 5 
cho thấy, hoạt tính đặc hiệu của bromelain 
trong sản phẩm thí nghiệm cao hơn so với chế 
phẩm thương mại. Số đơn vị hoạt tính trên một 
miligam bột sản phẩm bromelain thí nghiệm là 
1,12 U/mg cao hơn so với bromelain thương 
mại 0,91 U/mg. Như vậy, nếu sử dụng cùng 
một lượng bột enzyme thì sản phẩm bromelain 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
92 
thí nghiệm có thể cho hiệu quả thủy phân cao hơn. 
Bảng 5. So sánh hoạt tính của sản phẩm bromelain thí nghiệm và bromelain thương mại 
Enzyme bromelain Protein 
(mg/mg bột) 
Hoạt tính 
(U/mg bột) 
Hoạt tính đặc hiệu 
(U/mg) 
Bromelain sản phẩm 0,09a 1,12a 13,13a 
Bromelain thương mại 
(Sigma - Aldrich) 
0,10b 0,91b 9,48b 
Ghi chú: Các giá trị trung bình được theo sau cùng một ký tự trong cùng một cột thì khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê ở mức ý nghĩa 5%. 
Xét về hàm lượng protein thì chế phẩm 
bromelain thương mại có hàm lượng protein 
cao hơn nhưng hoạt tính đặc hiệu thấp hơn sản 
phẩm thí nghiệm. Như vậy cho thấy, sản phẩm 
thí nghiệm có độ tinh sạch cao hơn so với sản 
phẩm thương mại. 
Bảng 6. Hàm lượng đạm amin trong dịch thủy phân phụ phẩm cá tra khi thủy phân bằng hai chế phẩm 
bromelain 
Loại bột bromelain Đạm amin (g/l)* 
Bromelain sản phẩm 2,24a 
Bromelain thương mại (Sigma-Aldrich) 2,01b 
Không bổ sung enzyme 0,64c 
Ghi chú: Các giá trị trung bình được theo sau cùng một ký tự trong cùng một cột thì khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê ở mức ý nghĩa 5%. 
Từ Bảng 6 nhận thấy với cùng loại cơ chất là 
phụ phẩm cá tra, cùng một nồng độ enzyme thì 
khả năng thủy phân của sản phẩm bromelain thí 
nghiệm cao hơn so với sản phẩm bromelain 
thương mại. Hàm lượng đạm amin sinh ra khi 
thủy phân bằng sản phẩm bromelain thí nghiệm 
là 2,24 g/l so với bromelain thương mại là 2,01 
g/l. So với mẫu không sử dụng enzyme thì hàm 
lượng đạm amin cao hơn 3,5 lần khi dùng 
bromelain thí nghiệm và cao hơn 3,1 lần khi 
dùng chế phẩm thương mại. 
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
Đề tài bước đầu đã xây dựng được quy trình thu 
nhận bột enzyme bromelain thô từ chồi ngọn 
dứa. Enzyme bromelain thô có thể được trích ly 
từ chồi ngọn dứa đơn giản chỉ bằng nước cất 
với tỉ lệ 30 ml nước trên 10 g chồi ngọn. 
Acetone là dung môi thích hợp cho quá trình 
tủa bromelain chồi. Tủa bromelain chồi có thể 
sấy ở điều kiện không khí đối lưu ở nhiệt độ 45 
oC - 55 oC khoảng 4 giờ. Chế phẩm bromelain 
chồi có khả năng thủy phân protein trong phụ 
phẩm cá tra. Trong tương lai cần nghiên cứu 
thêm việc ứng dụng sản phẩm này trong các 
lĩnh vực khác nhau như thực phẩm chức năng 
(trợ tiêu hóa cho người già và trẻ con), mỹ 
phẩm (kem tẩy tế bào chết), lên men bia (chống 
cặn lắng), chế biến thịt và thủy hải sản (làm 
mềm thịt), hay lên men nước mắm ngắn ngày 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bradford M.M. (1976). A rapid and sensitive 
method quantification of protein utilizing 
the principle of protein dye biding. Anal. 
Biochem 72, 248 - 254. 
Dương Thị Hương Giang, Lê Thanh Hùng, Võ 
Văn Song Toàn, Sonia Beeckmans, Edilbert 
Van Driessche & Trần Phước Đường. 
(2002). Đánh giá các phương pháp trích ly 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 21 (3), 84 – 93 
93 
bromelin từ nước khóm thô. Tạp chí Khoa 
học Trường Đại học Cần Thơ. 
Dương Thị Hương Giang. (2005). Tinh sạch 
bromelain quả từ phụ phẩm dứa bằng 
phương pháp sắc ký gel mở rộng. Viện 
Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh 
học. Đại học Cần Thơ. 
Đinh Thị Tình. (2007). Xác định hoạt lực và 
tách sơ bộ enzyme bromelain từ phụ phẩm 
dứa. Khóa luận tốt nghiệp Đại học. Trường 
Đại học Nông nghiệp, Hà Nội. 
Đặng Thị Thu, Lê Ngọc Tú, Tô Kim Anh, 
Phạm Thu Thủy & Nguyễn Thị Xuân Sâm. 
(2005). Công nghệ enzyme. NXB Khoa học 
Kỹ thuật. 
Kunitz M. (1974). Determination of proteolytic 
activity by the casein digestion method. 
Journal of General Physiology, 30, 291. 
Lại Thị Ngọc Hà. (2009). Nghiên cứu tách và 
tạo chế phẩm bromelain từ phế phụ phẩm 
dứa. Tạp chí Khoa học và Phát triển, 2, 203 
– 211. 
Lopes, F.L.G., J.B.S. Júnior , R.R. de Souza, 
D.D. Ehrhardt, J.C.C Santana & E.B. 
Tambourgi. (2009). Concentration by 
membrane separation processes of a 
medicinal product obtained from pineapple 
pulp. An international journal, 52, 457 - 
464. 
Melissa. (2005). Nghiên cứu quy trình tinh sạch 
enzyme bromelain trích ly từ thân và quả ở 
phạm vi pilot. 
Mariela A. Bruno, M.F. Pardo, N.O. Caffini & 
L.M.I. López. (2002). Purification of a New 
Endopeptidase Isolated from Fruits of 
Bromelia hieronymi Mez (Bromeliaceae). 
Acta Farm. Bonaerense, 21, 51 - 56. 
Nguyễn Bá Mùi. (2005). Nghiên cứu phụ phẩm 
dứa ủ chua làm thức ăn gia súc. (Luận án 
Tiến sĩ Nông nghiệp không xuất bản). 
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà 
Nội, Việt Nam. 
Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Minh Thủy, Lê Hà 
Ny & Lê Trung Hiếu. (2013). Trích ly 
enzyme bromelain từ phụ phẩm dứa Cầu 
Đúc (Hậu Giang). Tạp chí Khoa học Trường 
Đại học Cần Thơ, 28, 21 - 27. 
Nguyễn Phú Thọ & Dương Thị Hương Giang. 
(2011). Nghiên cứu qui trình điều chế bột 
enzyme papain thô từ nhựa đu đủ. Tạp chí 
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 17b, 
158 - 166. 
Nguyễn Thị Thanh Trúc. (2010). Tinh sạch và 
khảo sát các nhân tố ảnh hưởng hoạt tính 
enzyme bromelain trích ly từ thân khóm. Đề 
tài Nghiên cứu Khoa học cấp Trường. Viện 
Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh 
học. Đại học Cần Thơ. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1566294632_09_nguyen_phu_tho_xpdf_1585_2189582.pdf 1566294632_09_nguyen_phu_tho_xpdf_1585_2189582.pdf