T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 20 
NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU NÃO CỦA 
CHẾ PHẨM CAO LỎNG TRÚNG PHONG TRÊN THỰC NGHIỆM 
 Đoàn Xuân Đinh1; Nguyễn Minh Dũng1; Lê Đức Hùng1 
 Nguyễn Hoàng Ngân2; Nguyễn Thị Thu Hằng2; Nguyễn Hồng Hải2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá tác dụng điều trị nhồi máu não của chế phẩm cao lỏng Trúng phong 2:1 
trên thực nghiệm. Đối tượng và phương pháp: sử dụng mô hình gây nhồi máu não tại động mạch 
não giữa trên chuột nhắt trắng bằng phản ứng quang hóa gây bởi chiếu tia laser. 32 chuột nhắt 
trắng đực, chia ngẫu nhiên thành 4 lô, mỗi lô 8 con: lô 1 (phẫu thuật không gây nhồi máu + 
uống nước cất); lô 2 (phẫu thuật gây nhồi máu + uống nước cất); lô 3 (phẫu thuật gây nhồi máu + 
uống cao lỏng Trúng phong liều 10,5 ml/kg); lô 4 (phẫu thuật gây nhồi máu + uống boluoke liều 
200 mg/kg). Kết quả: ở lô 3, 4 có tác dụng hồi phục tổn thương thần kinh, giảm mức độ tổn 
thương vận động của chuột gây nhồi máu não tại các thời điểm sau 24 giờ, 48 giờ, rõ nhất sau 
72 giờ, 168 giờ gây nhồi máu. Liều cao lỏng Trúng phong dùng trong nghiên cứu có tác dụng 
hồi phục tổn thương não và hoạt động của chuột gây nhồi máu não tương đương với boluoke 
liều 200 mg/kg. Kết luận: cao lỏng Trúng phong 2:1 liều 10,5 ml/kg (tương đương 21 g dược 
liệu khô/kg) có tác dụng tốt khi sử dụng điều trị trên mô hình gây nhồi máu não thực nghiệm ở 
chuột nhắt trắng, tương đương với boluoke liều 200 mg/kg. 
* Từ khóa: Cao lỏng Trúng phong; Nhồi máu não; Tác dụng điều trị. 
Experimental Evaluating the Effect of Trung phong Liquid Extract 
on Treatment of Cerebral Infarction in Mice 
Summary 
Objectives: To evaluate the effect of Trung phong liquid extract on treatment of cerebral 
infarction. Subjects and methods: Using experimental mice model of cerebral infarction in the 
middle cerebral artery caused by the laser photocoagulation. Total of 32 male mice were divided 
randomly into four groups, 8 mice of each: Group 1 (surgery without cerebral infarction + 
distilled water); group 2 (cerebral infarction + distilled water); group 3 (cerebral infarction + 
Trung phong liquid extract administered 10.5 mL/kg); group 4 (cerebral infarction + boluoke 
administered 200 mg/kg). Results: In groups 3 and 4, it showed the recoverable effect on the brain, 
reduced injured movement at time points 24 hour, 48 hour and positive effect was clear after 
72 hour, 168 hour. The dose of Trung phong liquid extract used in the study had the recoverable 
effect on injured brain and mice movement equivalent to boluoke oral of 200 mg/kg. Conclusion: 
Trung phong liquid extract oral administered 10.5 mL/kg on mice showed good effect on the 
cerebral infarction mice model and had effect equivalent to boluoke oral administered 200 mg/kg. 
* Keywords: Cerebral infarction; Trung phong liquid extract; Effective treatment. 
1. Viện Y học Cổ truyền Quân đội 
2. Học viện Quân y 
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Hồng Hải (
[email protected]) 
Ngày nhận bài: 22/06/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 11/09/2018 
 Ngày bài báo được đăng: 26/09/2018 
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 21 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhồi máu não (NMN) là một bệnh 
nguy hiểm, có thể gây tử vong rất nhanh 
hoặc để lại di chứng hết sức nặng nề. 
Hiện nay, quá trình điều trị NMN rất khó 
khăn và phức tạp. Từ thực tế đó, kế thừa 
và phát triển kinh nghiệm sử dụng các 
loại dược liệu trong Y học Cổ truyền, 
Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng sản 
xuất Thuốc, Viện Y học Cổ truyền Quân 
đội đã bào chế chế phẩm cao lỏng Trúng 
phong với mục đích: Xây dựng mô hình 
gây NMN và đánh giá tác dụng điều trị 
NMN của chế phẩm trên thực nghiệm. 
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng, vật liệu nghiên cứu. 
* Chế phẩm nghiên cứu: 
- Cao lỏng Trúng phong 2:1, do Trung 
tâm Nghiên cứu Ứng dụng sản xuất Thuốc, 
Viện Y học Cổ truyền Quân đội bào chế, 
đạt tiêu chuẩn cơ sở. 
- Boluoke (lumbrokinase) (Canada RNA 
Biochemical Inc) dùng làm thuốc tham chiếu. 
* Động vật nghiên cứu: 
- Chuột nhắt trắng trưởng thành, chủng 
Swiss, giống đực, đạt tiêu chuẩn thí nghiệm, 
8 - 9 tuần tuổi, cân nặng 25 - 30 g. 
Động vật thí nghiệm do Ban Cung cấp 
Động vật thí nghiệm, Học viện Quân y 
cung cấp, nuôi dưỡng trong phòng nuôi 
động vật thí nghiệm ít nhất một tuần 
trước khi tiến hành thí nghiệm, thức ăn và 
nước uống theo tiêu chuẩn. 
* Thiết bị dùng trong nghiên cứu: 
- Thiết bị chiếu laser cải tiến từ bút chiếu 
laser, bước sóng 568 nm, công suất 6 mW. 
- Kính hiển vi phẫu thuật. 
- Máy cắt bệnh phẩm lạnh. 
- Bảng đục lỗ (Hole Board, Cat. No. 
6650, Ugo Basile). 
- Bộ dụng cụ mổ động vật cỡ nhỏ. 
- Kim cho chuột uống, chỉ phẫu thuật 6.0 
và các dụng cụ thí nghiệm khác. 
* Hóa chất dùng trong nghiên cứu: 
- Hồng bengal (Rose bengal dye) 
(Wako Pure Chemical Industries, Osaka, 
Nhật Bản) sử dụng trong mô hình gây đột 
quỵ do ánh sáng. 
- Các hóa chất nhuộm HE. 
2. Phương pháp nghiên cứu. 
* Nghiên cứu tác dụng điều trị NMN 
trên thực nghiệm: 
Tác dụng điều trị NMN của chế phẩm 
đánh giá trên mô hình gây NMN tại động 
mạch não giữa của chuột nhắt trắng 
bằng phản ứng quang hóa gây bởi chiếu 
tia laser, theo phương pháp của Hiroshi 
Sugimori và CS (2004) [2]. 
Vị trí 
gây 
nhồi máu 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 22 
- Chuột gây mê với halothane. 
- Bộc lộ não, quan sát sự nguyên vẹn 
bình thường của não, quan sát được 
động mạch não giữa xa bên phải qua 
hộp sọ. 
- Chiếu một chùm tia laser bước sóng 
568 nm tập trung vào động mạch não giữa 
trên hộp sọ còn nguyên vẹn. 
- Sau 4 phút chiếu xạ, tiêm tĩnh mạch 
dung dịch hoa hồng bengal. 
- Tiếp tục chiếu chùm tia laser lấy nét 
tại động mạch não giữa ngay gần vị trí 
đầu tiên trong 4 phút. Huyết khối tạo thành 
trên động mạch. 
* Phân lô chuột nghiên cứu và cho 
uống thuốc: 
Chuột nhắt trắng đực 32 con, đủ tiêu 
chuẩn thí nghiệm, chia ngẫu nhiên thành 
các lô: 
- Lô chứng phẫu thuật (n = 8): phẫu thuật 
không gây nhồi máu + uống nước cất. 
- Lô chứng nhồi máu (n = 8): phẫu thuật 
gây nhồi máu + uống nước cất. 
- Lô cao lỏng (n = 8): phẫu thuật gây 
nhồi máu + uống cao lỏng Trúng phong 
2:1 liều 10,5 ml/kg (tương đương 21 g 
dược liệu khô/kg). 
- Lô boluoke (n = 8): phẫu thuật gây 
nhồi máu + uống thuốc tham chiếu boluoke 
liều 200 mg/kg. 
Với phẫu thuật không gây nhồi máu 
(sham surgery), phẫu thuật chuột giống 
như phẫu thuật gây nhồi máu (bộc lộ 
động mạch não giữa, bộc lộ động mạch 
cảnh chung) nhưng không gây cục máu 
đông (không chiếu tia laser). 
* Đánh giá mức độ tổn thương vận 
động của chuột theo thang điểm của 
Clark và CS (1997): 
Sau đột quỵ não gây ra do NMN ở 
động mạch não giữa, tổn thương tế bào 
não gây ra tổn thương thực thể về vận 
động (gây bại, liệt cơ làm thay đổi dáng đi, 
thăng bằng, gây đi vòng), đồng thời tổn 
thương trên não gây ức chế làm giảm 
hoạt động của chuột. 
Để đánh giá mức độ tổn thương thực 
thể vận động (gây bại, liệt cơ làm thay đổi 
dáng đi, thăng bằng, gây đi vòng) của 
chuột đột quỵ, Clark và CS (1997) đưa ra 
thang điểm gồm 7 tiêu chí, mỗi tiêu chí 
cho điểm từ 0 - 4. Mức độ tổn thương 
nặng nhất là 28 điểm [2]. Cách cho điểm 
theo thang điểm của Clark trình bày ở 
bảng.1. 1. 
Bảng 1: Thang điểm đánh giá mức độ tổn thương vận động của chuột. 
Điểm 0 1 2 3 4 
Thăng bằng cơ thể 
(nhìn từ trên xuống) 
Bình thường Thay đổi nhẹ Thay đổi 
trung bình 
Thay đổi 
dễ thấy 
Thay đổi 
nghiêm trọng 
Dáng đi Bình thường Cứng Khập khiễng Run, ngã Không đi được 
Trèo dốc 450 
Bình thường 
Trèo yếu Giữ đứng tại dốc 
Nằm tại dốc, 
ngã 
Không 
chuyển động 
Hướng di chuyển 
(thẳng hay xoay vòng) 
tự nhiên 
Di chuyển 
thẳng, không 
xoay vòng 
Lật nghiêng 
chủ yếu một 
bên 
Xoay một bên 
nhưng không 
ổn định 
Xoay một bên 
ổn định 
Không 
chuyển động 
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 23 
Hướng di chuyển 
khi bị kéo đuôi (xoay 
cưỡng bức) 
Không có biểu 
hiện xoay 
vòng 
Xu hướng lật 
một bên 
Xoay một bên Xoay một 
bên chậm 
Không 
chuyển động 
Thăng bằng chân 
trước sau 
Bình thường Không thăng 
bằng nhẹ 
Không thăng 
bằng rõ 
Không thăng 
bằng nghiêm 
trọng 
Không vận động 
cơ thể/chân 
Đáp ứng với chạm 
nhẹ phía sau 
Đáp ứng một 
cách tự nhiên 
Mất thăng 
bằng nhẹ 
Mất thăng 
bằng rõ 
Không đáp 
ứng cùng bên, 
giảm đáp ứng 
đối bên 
Không đáp ứng 
cả hai bên 
Đánh giá mức độ tổn thương vận động 
của chuột thực hiện tại thời điểm 
24 giờ trước khi gây đột quỵ và sau khi 
gây đột quỵ 6 giờ, 24 giờ, 48 giờ, 72 giờ 
và 168 giờ. So sánh giữa các lô chuột và 
rút ra kết luận về tác dụng của chế phẩm. 
* Đánh giá tác dụng của chế phẩm lên 
hoạt động của chuột nhắt trắng dùng mô 
hình bảng đục lỗ (Hole Board): 
Vào ngày thứ 8 sau gây đột quỵ, đưa 
chuột vào phòng thí nghiệm yên tĩnh, ánh 
sáng mờ, ít nhất 1 giờ trước khi làm thí 
nghiệm. Thử nghiệm tiến hành sau khi 
uống thuốc 30 phút. Lần lượt đặt từng 
chuột vào giữa bảng đục lỗ, tiến hành ghi 
các hành vi của chuột trong 5 phút. 
Các chỉ tiêu theo dõi gồm: 
- Số lần chuột thò đầu xuống lỗ. 
- Số lần chuột chuyển sang vị trí mới, 
so sánh giữa các lô. 
* Xử lý số liệu: 
Xử lý số liệu theo phương pháp thống 
kê y sinh học, so sánh bằng Anova test, 
sử dụng phần mềm SPSS 16.0, khác biệt 
có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Kết quả đánh giá tác dụng điều trị 
NMN trên thực nghiệm. 
* Kết quả đánh giá mức độ gây tổn 
thương chức năng thần kinh thông qua 
đánh giá tổn thương vận động theo thang 
điểm Clark: 
Trước khi phẫu thuật, chuột ở các lô 
vận động bình thường, điểm đánh giá 
theo thang điểm Clark bằng 0. Sau khi 
phẫu thuật, chuột ở lô chứng phẫu thuật 
(phẫu thuật không gây nhồi máu) vẫn 
hoạt động bình thường (điểm đánh giá 
theo thang điểm Clark bằng 0), chứng tỏ 
các bước phẫu thuật bộc lộ động mạch 
não giữa, động mạch cảnh chung không 
ảnh hưởng đến chức năng thần kinh não 
chuột. Chuột ở các lô gây NMN có biểu 
hiện tổn thương thần kinh rõ khi đánh giá 
theo thang điểm Clark. Do gây NMN tại 
động mạch não giữa bên phải, chuột yếu 
cơ ở nửa thân bên trái, làm thân lệch 
nghiêng về bên trái, chuột khó giữ thăng 
bằng, khi di chuyển khó di chuyển thẳng 
mà có xu hướng xoay vòng về bên trái. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 24 
Bảng 2: Kết quả đánh giá mức độ suy giảm hoạt động vận động theo thang điểm Clark. 
Điểm đánh giá theo thang điểm Clark (X ± SD, n = 8) 
Thời điểm đánh giá 
Lô chứng nhồi máu Lô cao lỏng Lô boluoke 
Sau 6 giờ 13,50 ± 1,69 13,00 ± 0,53 12,75 ± 0,89 
Sau 24 giờ 12,50 ± 1,31 11,25* ± 0,71 11,00* ± 1,07 
Sau 48 giờ 11,50 ± 1,31 9,88* ± 1,46 9,75* ± 1,16 
Sau 72 giờ 10,88 ± 0,99 9,38** ± 1,19 9,00** ± 0,76 
Sau 168 giờ 7,75 ± 0,46 7,00** ± 0,53 6,75** ± 0,71 
(*p < 0,05 khi so sánh với lô chứng nhồi máu; **p < 0,01 khi so sánh với lô chứng 
nhồi máu) 
Tại thời điểm 6 giờ sau gây nhồi máu 
(3 giờ sau uống thuốc hoặc nước cất), 
điểm đánh giá theo thang điểm Clark ở 
các lô uống cao lỏng Trúng phong hoặc 
boluoke nhỏ hơn, nhưng chưa có ý nghĩa 
thống kê so với lô chứng gây nhồi máu. 
Sau 3 giờ uống thuốc, thuốc bắt đầu có 
tác dụng nhưng chưa đủ mạnh để gây ra 
thay đổi có ý nghĩa thống kê. 
Tại các thời điểm 24 giờ, 48 giờ sau 
gây nhồi máu, điểm đánh giá theo thang 
điểm Clark ở các lô uống cao lỏng Trúng 
phong và boluoke nhỏ có ý nghĩa thống 
kê so với lô chứng gây nhồi máu (p < 0,05). 
Cao lỏng Trúng phong và thuốc tham chiếu 
boluoke ở các mức liều và cách sử dụng 
đã có tác dụng hồi phục tổn thương thần 
kinh, giảm mức độ tổn thương vận động 
của chuột gây NMN tại các thời điểm sau 
gây nhồi máu 24 giờ, 48 giờ. 
Tại thời điểm 72 giờ, 168 giờ sau gây 
nhồi máu, điểm đánh giá theo thang điểm 
Clark ở các lô uống cao lỏng Trúng phong 
và boluoke nhỏ có ý nghĩa thống kê so 
với lô chứng gây nhồi máu (p < 0,01). 
Tác dụng hồi phục tổn thương thần kinh 
của thuốc nghiên cứu đã thể hiện rõ khi 
đánh giá tại các thời điểm 72 giờ và 
168 giờ sau gây nhồi máu. 
So với lô tham chiếu dùng boluoke 
200 mg/kg, lô dùng cao lỏng Trúng phong 
có thang điểm Clark tương đương, không 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Cao Trúng phong với mức liều dùng trong 
nghiên cứu có tác dụng hồi phục tổn 
thương não tương đương với boluoke 
200 mg/kg. 
* Kết quả đánh giá tác dụng của chế 
phẩm lên hoạt động của chuột nhắt trắng 
dùng mô hình bảng đục lỗ (Hole Board): 
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 25 
Bảng 3: Kết quả đánh giá tác dụng của các chế phẩm nghiên cứu lên hoạt động của 
chuột nhắt trắng dùng mô hình bảng đục lỗ (X ± SD, n = 8). 
Lô thí nghiệm Số lần thò đầu xuống lỗ Số lần di chuyển vị trí 
Chứng không gây nhồi máu (1) 33,50 ± 4,41 9,38 ± 1,51 
Chứng gây nhồi máu (2) 22,75 ± 4,86 5,25 ± 1,83 
Cao lỏng Trúng phong (3) 28,38 ± 4,21 7,25 ± 1,75 
Tham chiếu boluoke (4) 31,13 ± 3,04 8,00 ± 1,41 
p 
p2-1 < 0,01; p3-2 < 0,05; p4-2 < 0,01; p3-1 < 0,05; 
p4-1 > 0,05; p3-4 > 0,05 
So với lô chứng không gây nhồi máu, 
số lần thò đầu xuống lỗ và số lần di 
chuyển vị trí ở lô chứng gây nhồi máu 
giảm có ý nghĩa thống kê (p2-1 < 0,01). 
Việc gây nhồi máu động mạch não giữa 
làm giảm rõ rệt hoạt động của chuột. 
So với lô chứng gây nhồi máu, số lần 
thò đầu xuống lỗ và số lần di chuyển vị trí 
ở các lô dùng thuốc đều tăng có ý nghĩa 
thống kê (p3-2 < 0,05; p4-2 < 0,01). 
Lô dùng thuốc tham chiếu boluoke có số 
lần thò đầu xuống lỗ và số lần di chuyển 
vị trí tăng rõ rệt (p4-2 < 0,01) và nhiều hơn, 
tương đương so với lô chứng không gây 
nhồi máu (p4-1 > 0,05). Lô dùng cao lỏng 
Trúng phong có số lần thò đầu xuống lỗ và 
số lần di chuyển vị trí tăng so với lô 
chứng gây nhồi máu (p3-2 < 0,05) nhưng 
giảm so với lô chứng không gây nhồi máu 
(p3-1 < 0,05). 
So với lô tham chiếu, lô dùng cao lỏng 
Trúng phong có số lần thò đầu xuống lỗ 
và số lần di chuyển vị trí tương đương, 
không khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p3-4 > 0,05). Cao lỏng Trúng phong với 
liều sử dụng trong nghiên cứu có tác dụng 
làm hồi phục hoạt động của chuột gây 
NMN tương đương so với thuốc tham 
chiếu boluoke liều 200 mg/kg. 
BÀN LUẬN 
* Về mô hình gây NMN: 
Trong nghiên cứu này, mô hình gây 
NMN với can thiệp phẫu thuật tối thiểu 
và không cần khoan hộp sọ của chuột. 
Kỹ thuật sử dụng trong mô hình nghiên 
cứu tương đối đơn giản, cho phép ổn 
định mô hình tốt hơn, tính lặp lại cao hơn. 
Do can thiệp phẫu thuật tối thiểu, chuột 
hầu như không bị tổn thương khác ngoài 
tổn thương do NMN. Do đó, kết quả đánh 
giá tác dụng điều trị của thuốc có tính tin 
cậy cao hơn. Thực tế, kết quả nghiên cứu 
này cho thấy chuột ở lô phẫu thuật không 
gây đột quỵ không có tổn thương thực thể 
về vận động, điểm đánh giá theo thang 
điểm Clark của tất cả chuột ở lô này đều 
bằng 0. Ngoài ra, mô hình có ưu điểm 
tương đối ổn định. Khi bộc lộ vùng sọ có 
động mạch não giữa nằm phía dưới, qua 
kính hiển vi quan sát được cấu trúc mạch 
não ở dưới vùng sọ này. Với một số chuột 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2018 
 26 
có cấu trúc mạch não bất thường, loại 
khỏi nghiên cứu. Điều đó cho phép chuột 
đưa vào nghiên cứu có cấu trúc mạch não 
giữa khá tương đồng nhau, tính lặp lại cũng 
như độ chính xác của thử nghiệm cao. 
* Về các thử nghiệm đánh giá tổn thương 
thần kinh gây ra do NMN: 
Thang điểm Clark đánh giá dựa trên 
rất nhiều chỉ tiêu về tư thế và vận động 
của chuột. 
Thử nghiệm bảng đục lỗ là thử nghiệm 
đơn giản, có độ nhạy cao, phù hợp với 
chuột sau đột quỵ não để đánh giá về 
mức độ hoạt động của chuột. 
Phương pháp và thang điểm sử dụng 
trong nghiên cứu là phương pháp đánh 
giá tác dụng dược lý có tính kinh điển, 
được nhiều tác giả trong và ngoài nước 
sử dụng, bảo đảm tính chính xác, độ 
nhạy và phù hợp với mô hình bệnh. 
* Về tác dụng của cao lỏng Trúng phong: 
Trong thiết kế nghiên cứu, lô chứng 
phẫu thuật không gây nhồi máu và lô 
chứng phẫu thuật gây nhồi máu sử dụng 
để bảo đảm tác dụng của cao lỏng Trúng 
phong được đánh giá rõ ràng khi so sánh 
với nhóm chứng. Ngoài ra, tác dụng của 
cao lỏng Trúng phong còn được so sánh 
với thuốc tham chiếu boluoke (Canada 
RNA Biochemical Inc) là thuốc được sử 
dụng rộng rãi trên lâm sàng và cho hiệu 
quả điều trị tốt. 
Chế phẩm uống lần đầu tiên tại thời 
điểm 3 giờ sau gây nhồi máu, sau khi 
chuột đã hoàn toàn hồi phục không còn 
tác dụng của gây mê. Tại thời điểm đánh 
giá sau gây nhồi máu 6 giờ (sau 3 giờ 
uống thuốc), các lô dùng thuốc đều giảm 
điểm Clark (mặc dù chưa rõ rệt), cho 
phép nghĩ tới chế phẩm bắt đầu có tác 
dụng. Tại thời điểm sau 24 giờ, các lô 
dùng thuốc có điểm Clark giảm có ý nghĩa 
thống kê so với lô gây nhồi máu không 
dùng thuốc, chứng tỏ chế phẩm đã có tác 
dụng. Chế phẩm có tác dụng sớm là điều 
rất quan trọng trong điều trị đột quỵ NMN. 
Tổn thương tế bào não hồi phục càng 
sớm thì tác dụng điều trị càng tốt và di 
chứng sau tai biến càng giảm, chứng tỏ 
thuốc có tác dụng tốt. Chúng tôi cho rằng 
nếu có thể bào chế ở dạng tiêm thì hiệu 
quả điều trị sẽ tăng lên, do bệnh lý đột 
quỵ não là bệnh lý cấp tính. 
KẾT LUẬN 
Cao lỏng Trúng phong 2:1 với mức liều 
10,5 ml/kg (tương đương 21 g dược liệu 
khô/kg) có tác dụng tốt khi sử dụng điều 
trị trên mô hình gây NMN thực nghiệm ở 
chuột nhắt trắng, thuốc có tác dụng tương 
đương với thuốc tham chiếu boluoke liều 
200 mg/kg. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế. Quyết định số 371/BYT-QĐ về 
việc ban hành “Quy chế đánh giá tính an toàn 
và hiệu lực của thuốc cổ truyền”. 1996. 
2. Clark W, Gunion-Rinker L, Lessov N, 
Hazel K, Macdonald R.L. Citicoline treatment 
for experimental intracerebral hemorrhage in 
mice. Stroke. 1998, 29, pp.2136-2140. 
3. Hiroshi Sugimori et al. Krypton laser-
induced photothrombotic distal middle cerebral 
artery occlusion without craniectomy in mice. 
Brain Research Protocols. 2004, 13, pp.189-196.