Tài liệu Nghiên cứu quá trình tái sinh chồi của hương nhu tía (ocimum tenuiflorum) trong nuôi cấy in vitro: 22
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(87)/2018
Khurnpoon, L., Siriphanich, J. and Labavitch, J. M., 
2008. Cell wall metabolism during durian fruit 
dehiscence. Postharvest Biology and Technology 
48:391-401. Knee, M. 1987. Development of 
ethylene biosynthesis in pear fruits at -1 ºC. Journal 
of Experimental Botany 38:1724-1733.
Miguela, S., Demetrio, V., Elda., B. and Merly, A., 
2006. Postharvest behavior and storage life of 3 
durian cultivars with varying maturity, waxing and 
temperature. Philippine Journal of Crop Science, 
31(1): 29-46.
Nafsi N., 2007. Diversity analysis of durian (Durio 
zibethinus Murr.) varieties using microsatellite 
markers. Thesis School of Bioscience and 
Biotechnology, Bandung Institute of Technology. 
Bandung. Indonesia.
Oeticker, J.H and Yang S.F., 1995. The role of ethylene 
in fruit ripening. Acta Hort. 398: 167-178.
Ofelia, K.B and Elda B.E., 1990. Postharvest Technology 
for Southeast Asian Perishable Crop...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu quá trình tái sinh chồi của hương nhu tía (ocimum tenuiflorum) trong nuôi cấy in vitro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(87)/2018
Khurnpoon, L., Siriphanich, J. and Labavitch, J. M., 
2008. Cell wall metabolism during durian fruit 
dehiscence. Postharvest Biology and Technology 
48:391-401. Knee, M. 1987. Development of 
ethylene biosynthesis in pear fruits at -1 ºC. Journal 
of Experimental Botany 38:1724-1733.
Miguela, S., Demetrio, V., Elda., B. and Merly, A., 
2006. Postharvest behavior and storage life of 3 
durian cultivars with varying maturity, waxing and 
temperature. Philippine Journal of Crop Science, 
31(1): 29-46.
Nafsi N., 2007. Diversity analysis of durian (Durio 
zibethinus Murr.) varieties using microsatellite 
markers. Thesis School of Bioscience and 
Biotechnology, Bandung Institute of Technology. 
Bandung. Indonesia.
Oeticker, J.H and Yang S.F., 1995. The role of ethylene 
in fruit ripening. Acta Hort. 398: 167-178.
Ofelia, K.B and Elda B.E., 1990. Postharvest Technology 
for Southeast Asian Perishable Crops. (Ed). Chapter 
12: Ripening, degreening and color adding, 171:190.
Siriphanich, J. and Jarimopas, B., 1993. Postharvest 
loss of durian. National Agricultural Machinery 
Center Newsletter, 6(4):1-3.
Sutthaphan, S., 1993. Postharvest change in chemical 
composition of Chanee and Monthong durian pulp. 
MS Thesis, Kasetart University, Bangkok.
Tira-daengkanit., 1995. Relationships between activities 
of polygalacturonase, pectin methylesterase, cellulase 
and beta-galactosidase and pulp softening of ripe 
durians, Bangkok (Thailand), 64p.
Tongdee, S.C., Chayasombat, A and Neamprem, S., 
1988. Respiration, ethylene production and changes 
in interal atmospheres of durian (Durio zibethinus 
Murr.) In: Proceedings of the seminar on durian. 
Thailand Institute of Scientific and Technological 
Research, Bangkok, 31-36. 
Study on ripening process of Ri 6 durian fruit by exogenous ethylene gas
Duong Thi Cam Nhung and Nguyen Van Phong
Abstract
Study on the effect of exogenous ethylene fumigation approaches on the ripening process of “Ri 6” durian fruit was 
conducted to find out ripening effective method. The experiment was arranged in completely randomized design 
with different treatments (ethephone dip 500 ppm, ethylene from ethephone in NaOH, ethylene generator with conc. 
200 ppm - 24 hrs and control) and five replications; each replication was one fruit. Durian fruits with 90% of mature 
and uniform size were harvested from durian orchard belonging to Thanh Binh commune, Vinh Long province. After 
harvesting, fruits were carefully transported to the postharvest laboratory and treated with ethylene as described 
above. After treatment, the samples were kept in ambient (27 - 29oC) and recorded the number of days to ripening 
edibility. Among three ripening approaches, fumigations with ethylene gas obtained from ethylene generator and 
ethephone reacted with NaOH could be considered as the most suitable for ripening Ri-6 durian fruits. The ripening 
time of Ri-6 durian fruits using the fumigation was shortened down 2 days and fruit gave optimum eating quality.
Keywords: Ethephon, ethylene, respiration, Ri 6 durian, ripening
Ngày nhận bài: 15/1/2018
Ngày phản biện: 30/1/2018
Người phản biện: PGS.TS. Lê Nguyễn Đoan Duy
Ngày duyệt đăng: 12/2/2018
 1 Viện Dược liệu; 2 Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm
NGHIÊN CỨU QUÁ TRÌNH TÁI SINH CHỒI CỦA HƯƠNG NHU TÍA 
(Ocimum tenuiflorum) TRONG NUÔI CẤY IN VITRO
Lương Thị Hoan1, Hoàng Thị Như Nụ1, Nguyễn Đăng Minh Chánh2
TÓM TẮT
Hương nhu tía (Ocimum tenuiflorum) là một trong các loài dược liệu có giá trị trong điều trị đường hô hấp, tiêu 
chảy, nhức đầu và làm mỹ phẩm. Tuy nhiên, nhân giống bằng con đường hữu tính đã giảm do tỷ lệ nảy mầm hạt 
giống thấp. Mục tiêu của nghiên cứu này xác định quá trình tái sinh chồi của Hương nhu tía trong nuôi cấy in vitro. 
Chồi của hương nhu tía lấy từ vườn cây thuốc tại Hà Nội, được khử trùng bằng HgCl2 0,1% trong các thời gian 
khác nhau (2, 4, 6, và 8 phút) và được đưa vào môi trường MS; môi trường tái sinh chồi gồm MS + 0,5 mg/l BA, 
MS + 0,25 mg/l BA và môi trường ½ MS + 0,5 mg/l BA, ½ MS + 0,25 mg/l BA. Kết quả cho thấy mẫu chồi khử trùng 
tối ưu nhất khi dùng HgCl2 0,1% trong 4 phút, đạt tỷ lệ bật chồi cao nhất (32%); môi trường tái sinh chồi ½ MS bổ 
23
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(87)/2018
sung 0,25 mg/l BA cho hệ số nhân chồi trung bình 4,5 chồi/mẫu và chiều cao trung bình 1,5 cm/chồi. Kết quả nghiên 
cứu này là cơ sở tìm ra môi trường nhân nhanh chồi, tái sinh hữu hiệu và tạo cây con hoàn chỉnh ngoài vườn ươm 
làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo. 
Từ khóa: Hương nhu tía, tái sinh chồi, nuôi cấy mô, nhân giống 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hương nhu tía (Ocimum tenuiflorum) là một loại 
cây thân thảo, thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae), có 
nguồn gốc dân gian từ Ấn độ, được trồng rộng rãi ở 
nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, trước đây cây chủ 
yếu mọc hoang dại ở một số địa phương như Quảng 
Ninh, Hà Giang, Phú Thọ, Yên Bái và Cửu Long... 
Đến nay, cây đã được trồng ở một số tỉnh Nam Hà, 
Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Đắc Lắc, Vĩnh Phúc và 
một số tỉnh Đông Nam bộ... Theo y học cổ truyền, 
Hương nhu tía có tinh dầu với tỷ lệ 0,2 - 0,3% ở 
cây tươi và 0,5% ở cây khô; thành phần chính của 
tinh dầu là eugenol (trên 70%), methyleugenol (trên 
12%) và β- caryophyllen. Sử dụng chữa trị nhiều căn 
bệnh về đường hô hấp, tiêu chảy, nhức đầu, sốt, bệnh 
về da và viêm phổi. Chiết xuất từ cây này chứa các 
chất có hoạt tính kháng khuẩn, kháng nấm và hoạt 
tính chống sốt rét, chảy máu camvà dùng làm mỹ 
phẩm (Đỗ Tất Lợi, 2004; Jurges et al., 2009; Adebolu 
et al., 2005; Gopi et al., 2006). 
Ở một số nước, Hương nhu tía đã được trồng và 
phát triển với quy mô thương mại phục vụ cho sản 
xuất đám ứng yêu cầu về dược liệu và mỹ phẩm cho 
loài cây này. Ở Ấn Độ, hương nhu là loài quan trọng 
và nằm trong số 178 loài cây cao cấp và là một trong 
số 36 loài cây ổn định hệ thống nông nghiệp ở địa 
phương của Ấn Độ (Ved and Goraya, 2008). Theo 
truyền thống, nhân giống bằng hạt tỷ lệ nảy mầm 
hạt giống thấp ≤ 10% (Gopi et al., 2006), cách tiếp 
cận này dẫn đến mức độ đa dạng hóa cao, các sản 
phẩm thảo dược không phù hợp với yêu cầu thương 
mại (Engels & Brinckmann, 2013; Tyub & Kamili, 
2009) đã giảm hoạt tính và tạo ra sản phẩm kém 
chất lượng. Để nâng cao trong ngành công nghiệp 
sản phẩm chăm sóc sức khỏe tự nhiên, nhân giống 
trong ống nghiệm in vitro là một kỹ thuật hữu ích 
và nhân giống được chọn lọc có giá trị cao (Paek 
et al., 2005; Rout et al., 2000) giúp tuân thủ được các 
quy định và hướng dẫn, tiêu chuẩn chất lượng thực 
hành khai thác nông nghiệp sạch đối với sức khỏe 
ở Canada và Ấn Độ (Government of Canada, 2004; 
Ved & Goraya, 2008). Do đó, việc cung cấp Hương 
nhu tía chất lượng cao, sản xuất hàng loạt thông qua 
việc nhân giống trong ống nghiệm kết hợp với sản 
xuất nhà kính sẽ là một hệ thống lý tưởng.
Ở Việt Nam, phát triển và khai thác nguồn giống 
dược liệu phục vụ cho sản xuất đang là vấn đề cấp 
bách. Trong đó, Hương nhu tía là một trong các loài 
cây nằm trong định hướng phát triển nguồn dược 
liệu quốc gia, nhưng hiện nay trồng Hương nhu tía 
còn tản mạn, phân tán rải rác nên chưa được quan 
tâm. Để đáp ứng như cầu của người dân vùng trồng 
dược liệu nói riêng và cả nước nói chung, mục tiêu 
của nghiên cứu này xác định quá trình tái sinh chồi 
của Hương nhu tía (Ocimum tenuiflorum) trong 
nuôi cấy in vitro nhằm tạo nguồn cây giống có giá 
trị đáp ứng nhu cầu sản xuất cây trồng trên quy mô 
thương mại.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu 
Đoạn chồi của Hương nhu tía được lấy từ cây 
giâm hom 6 tháng tuổi ở vườn cây thuốc, Trung tâm 
Nghiên cứu Trồng và Chế biến cây thuốc Hà Nội, 
Viện Dược liệu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp khử trùng và chuẩn bị mẫu: Đoạn 
chồi được cắt dài 6 - 8 cm xử lý sạch trên bề mặt 
trước, sau đó dùng HgCl2 0,1% khử trùng trong thời 
gian 2, 4, 6 và 8 phút, được rửa sạch bằng nước cất 
vô trùng, khi đưa vào bình cấy mẫu được cắt thành 
từng đoạn 2 cm và cấy trên môi trường MS. 
- Phương pháp nuôi cây tái sinh chồi: Sau khi 
mẫu vào 20 ngày bật chồi, các chồi được tách ra và 
cấy vào môi trường. Bốn công thức tái sinh chồi từ 
mẫu được sử dụng là TS1 (MS + 0,5 mg/l BA), TS2 
(MS + 0,25 mg/l BA), TS3 (1/2 MS + 0,5 mg/l BA) 
và TS4 (1/2 MS + 0,25 mg/l BA). Thí nghiệm được 
nhắc lại 3 lần đánh giá khả năng hình thành chồi sau 
5 tuần nuôi cấy.
- Điều kiện nuôi cấy: Mẫu được nuôi cấy trong 
bình tam giác, giữ điều kiện nhiệt độ nuôi cấy 
25 ± 2oC, môi trường nuôi cấy được hấp khử trùng 
15 phút ở 121oC, 1atm. Thời gian chiếu sáng 14 - 16 
giờ/ngày.
- Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu thập 
khử trùng mẫu và tái sinh chồi được sử dụng phần 
mền SPSS và Excel để tính toán.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 đến tháng 
12 năm 2017 tại phòng Công nghệ sinh học, Viện 
Dược liệu.
24
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(87)/2018
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả khử trùng mẫu chồi của hương nhu tía 
Mẫu chồi hương nhu tía sau khi được làm sạch 
khử trùng HgCl2 0,1% với 4 công thức khác nhau về 
thời gian, sau 3 tuần nuôi cấy trên môi trường nuôi 
cấy khởi đông, kết quả thu được ở bảng 1. 
Bảng 1. Kết quả về thời gian khử trùng 
đến tỷ lệ mẫu sạch bật chồi Hương nhu tía
Bảng 1 cho thấy rằng khi sử dụng dung dịch 
HgCl2 0,1% để khử trùng với thời gian khác nhau 
cho khả năng tạo mẫu sạch và khả năng bật chồi của 
Hương nhu tía khác nhau. Trong đó, công thức CT2 
cho tỷ lệ mẫu sạch bật chồi tốt nhất vào 4 phút, đây 
cũng là công thức khử trùng đạt hiệu quả cao nhất 
đối với chồi Hương nhu tía (32%). Khi tăng thời gian 
khử trùng lên 6 và 8 phút, tỷ lệ mẫu sạch nảy chồi và 
mẫu chết giảm dần, tỷ lệ mẫu chết tăng ở công thức 
khử trùng 8 phút (CT4), tỷ lệ mẫu sống bật chồi 12%, 
không có mẫu nhiễm nào, trong khi mẫu chết đạt 
88%. Ở công thức CT2 (thời gian khử trùng 2 phút) 
tỷ lệ mẫu nhiễm khuẩn cao 90% trên tổng số mẫu, 
tỷ lệ mẫu sạch bật chồi thấp (10%), không có mẫu 
nào chết. Điều này cho thấy nếu kéo dài thời gian 
khử trùng với HgCl2 0,1%, hóa chất sẽ ngấm vào mô 
thực vật sẽ làm hỏng và gây độc do đó protocorm 
không thể phát sinh chồi, phù hợp với các nghiên 
cứu trước đây của Jaime et al. (2015) và Nguyễn Văn 
Việt (2017). Kết quả nghiên cứu cho thấy công thức 
khử trùng phù hợp là công thức CT2 với thời gian 
khử trùng 4 phút cho tỷ lệ mẫu sạch và tỷ lệ bật chồi 
32% (Hình 1). 
Hình 1. (a) chồi sau khi khử trùng đưa vào môi môi trường khởi động; (b) chồi xuất hiện sau 2 tuần nuôi cấy 
trên môi trường khởi động; (c) sau 3 tuần nuôi cấy trên môi trường nuôi cấy khởi đông
Công 
thức 
Thời 
gian khử 
trùng 
(phút)
Tỷ lệ 
mẫu 
sạch nảy 
chồi (%)
Tỷ lê 
mẫu 
nhiễm 
(%)
Tỷ mẫu 
mẫu 
chết 
(%)
CT1 2 10 90 0
CT2 4 32 40 28
CT3 6 25 20 55
CT4 8 12 0 88
Kết quả này phù hợp với phân tích thống kê về 
phương sai một nhân tố Ftính < 0,05 (= 0,002) thời 
gian khử trùng khác nhau ảnh hưởng rõ rệt đến khả 
năng tạo mẫu sạch bật chồi của Hương nhu tía.
3.2. Tái sinh chồi Hương nhu tía
Những chồi tái sinh từ mẫu đưa vào trong môi 
trường nuôi cấy khởi động được cấy chuyển sang 
môi trường nhân nhanh chồi. Thí nghiệm được bố 
trí với 4 công thức có sử dụng 2 loại môi trường MS 
và ½ MS bổ sung chất điều hòa sinh trưởng BA ở 
nồng độ 0,5 mg/l và 0,25 mg/l, sau 5 tuần nuôi cấy 
kết quả thu được thể hiện ở bảng 2.
Số liệu bảng 2 cho thấy, hàm lượng vi lượng và 
đa lượng ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ nảy chồi của 
Hương nhu tía. Trong môi trường cả MS số chồi 
trung bình/mẫu đạt 1,5 - 2,0 chồi/mẫu và chiều dài 
của các chồi đạt từ 0,4 tới 0,7 cm, thấp hơn so với 
các công thức giảm ½ thành phần khoáng (vi lượng 
và đa lượng) ở công thức thí nghiệm TS3 và TS4. Có 
lẽ trong môi trường MS nồng độ các chất khoáng 
đa lượng và vi lượng cao hơn nên không thích hợp 
cho sự tái sinh chồi nên chồi tái sinh ngắn, các đầu 
lá xoăn lại. Trong môi trường ½ MS có tỷ lệ các chất 
khoáng phù hợp với sự phát triển của tái sinh chồi 
nên số chồi trung bình/mẫu đạt 3,0 - 4,5 chồi, chiều 
cao từ 1,1 - 1,5 cm (Hình 2). Kết quả này chứng tỏ 
môi trường ½ MS cho khả năng tái sinh chồi Hương 
nhu tía phát triển nhanh và cây xanh tốt và dài hơn 
môi trường còn lại. Vì vậy thành phần môi trường 
nuôi cấy là một trong những yếu tố quan trọng nhất 
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của bộ 
phận nuôi cấy (Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị Thủy 
Tiên, 2002; Ngô Xuân Bình, 2009), đặc biệt thành 
phần khoáng có vai trò quan trọng trong việc cảm 
ứng, tăng trưởng và tái sinh chồi trong nuôi cấy mô 
do lượng chất dinh dưỡng trong 2 môi trường khác 
nhau. Kết quả này phù hợp với với lý thuyết về khả 
năng chuyển hóa và bảo toàn vật chất (Ngô Xuân 
Bình, 2009).
(a) (b) (c)
25
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(87)/2018
Hình 2. (a) môi trường nuôi cấy 1/2 MS + 0,25 mg/l BA; (b) môi trường nuôi cấy MS + 0,5 mg/l BA; 
(c) môi trường nuôi cấy ½ MS + 0,5 mg/l BA
Bảng 2. Ảnh hưởng của môi trường 
đến khả năng tái sinh chồi Hương nhu tía
Ngoài ra, nồng độ chất điều hòa sinh trưởng ảnh 
hưởng đến tái sinh chồi Hương nhu tía. Ở nồng độ 
khác nhau cho số chồi khác nhau. Trong nghiên cứu 
này, nồng độ BA 0,25 mg/l thích hợp hơn so với nồng 
độ BA 0,5 mg/l. Trong 2 loại môi trường MS và ½ 
MS số chồi ở nồng độ BA 0,25 mg/l đạt 2,2 chồi/mẫu 
và 4,5 chồi /mẫu, trong khi ở nồng độ 0,5 mg/l cho 
số chồi thấp hơn dao động là 1,5 chồi/mẫu và 3 chồi/
mẫu. Điều này nhận thấy rằng nồng độ BA có ảnh 
hưởng đáng kể đến sự hình thành chồi của Hương 
nhu tía vì BA là chất cytokinin có vai trò trong việc 
hình thành chồi (Nguyễn Đức Lượng và Lê Thị Thủy 
Tiên, 2002). Qua kiểm tra số chồi/mẫu giữa các công 
thức thí nghiệm p < 0,000, vì vậy điều này chứng tỏ 
rằng giữa các công thức thí nghiệm có sự khác nhau 
rõ rệt. Kết quả này phù hợp với một vài nghiên cứu 
về Hương nhu tía nhân giống in vitro trên thế giớí sử 
dụng BA với nồng độ 0,25 mg/l đối với việc tái sinh 
chồi (Neeti, 2013; Helgde et al., 2015). 
Công 
thức
Môi 
trường
Nồng 
độ BA 
(mg/l)
Số chồi 
trung 
bình/mẫu
Chiều 
cao trung 
bình/chồi 
(cm)
TS1 MS 0,5 1,5 0,4
TS2 0,25 2,2 0,7
TS3 ½ MS 0,5 3,0 1,1
TS4 0,25 4,5 1,5
Sig = 0.000
IV. KẾT LUẬN
Mẫu chồi Hương nhu tía được khử trùng bằng 
dung dịch HgCl2 0,1% trong thời gian 4 phút cho tỷ 
lệ tái sinh chồi tốt nhất. Nhân nhanh chồi tái sinh 
được tạo ra trên môi trường ½ MS có bổ sung 0,25 
mg/l BA cho hệ số nhân chồi và khả năng phát triển 
chiều dài của chồi cao hơn so với ở nồng độ 0,5 mg/l, 
cao hơn môi trường MS cùng nồng độ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Ngô Xuân Bình, 2009. Nuôi cấy tế bào thực vật cơ sở lý 
luận và ứng dụng. Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật. 
Đỗ Tất Lợi, 2004. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. 
NXB Y học.
Nguyễn Đức Lượng, Lê Thị Thủy Tiên, 2002. Công 
nghệ tế bào. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ 
Chí Minh. 
Nguyễn Văn Việt, 2017. Ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy 
Invitro trong nhân giống Lan Hoàng Thảo Kèn 
(Dendrobium lituiflorum Lindley). Tạp chí Khoa học 
và Công nghệ Lâm nghiệp số 4: 39-45.
Adebolu TT, Aladimeji SA., 2005. Antimicrobial 
activity of leaf extracts of Ocimum gratissimum on 
selected diarrhoea causing bacteria in Southwestern 
Nigeria. African Journal of Biotechnology Vol 4 
(7):682-684.
Engels G, Brinckmann J., 2013. Hly Basil Ocimum 
tenuiflorum (syn. O.sanctum) HerbalGram 2013. 
American Botanical Council:1-6.
Gopi C, Nataraja Sekhar Y, Ponmurugan P., 2006. 
In vitro Multiplication of Ocimum gratissimum L. 
through direct regeneration. African Journal of 
Biotechnology Vol 5 (9): 723-726.
Government of Canada, 2013. Natural Health products 
Regulations. 
Helgde VK, Sunil Kumar MAKH, Deepa Kumari AB., 
2015. In vitro callus induction and multiple shoot 
induction of Ocimum tenuiflorum. Global Journal 
of Multidisciplinary Studies Vol 4 No. 5, 2348-2495.
Jaime Ateixeira da Silva, jean arlos Cardoso et al., 
2015. Dendrobium micropropagation a review. Plant 
Cell Rep. 30: 671-704.
Jurges G, Beyerle K, tosenberger M, Haser A, Nick P., 
2009. Development and validation of microscopical 
diagnostics for “Tulsi” (Ocimum tenuiflorum L.) in 
ayurvedic preparation. European Food Research and 
Technology 229: 99-106.
(a) (b) (c)
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 28_6707_2153279.pdf 28_6707_2153279.pdf