Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 416
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM XÉT NGHIỆM KHÁNG THỂ KHÁNG 
PHOSPHOLIPID BAO GỒM KHÁNG ĐÔNG LUPUS, KHÁNG THỂ 
KHÁNG CARDIOLIPIN VÀ β2 – GLYCOPROTEIN 1 
TẠI VIỆN HUYẾT HỌC TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG 
Vũ Đức Quang*, Trần Thị Kiều My**, Đào Thị Thiết*, Nguyễn Thị Thanh Hương*, 
Nguyễn Thị Ngọc Quyên*, Bạch Quốc Khánh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nghiên cứu đặc điểm xét nghiệm một vài loại kháng thể kháng phospholipid bao gồm kháng 
đông Lupus, kháng thể kháng Cardiolipin, kháng thể kháng β2 – Glycoprotein góp phần hỗ trợ các bác sĩ lâm 
sàng trong chẩn đoán và điều trị bệnh nhân mắc hội chứng antiphospholipid. 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm một vài loại kháng thể kháng phospholipid bao gồm kháng đông Lupus, kháng thể 
kháng Cardiolipin, kháng thể kháng β2 – Glycoprotein với một số xét nghiệm liên quan tại Viện Huyết học – 
Truyền máu Trung ương giai đoạn 2017-2018. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu và tiến cứu 501 bệnh nhân 
được khám và điều trị tại Viện huyết học – Truyền máu Trung ương từ 1/1/2017-30/12/2018. 
Kết quả: 39,9% bệnh nhân có xuất hiện kháng thể: kháng thể LA chiếm tỷ lệ cao nhất (33,9% bệnh nhân). 
Bệnh nhân dương tính với một loại kháng thể chiếm tỷ lệ cao nhất (22,6%). Chỉ số rAPTT kéo dài hơn, số lượng 
TC có xu hướng giảm hơn, D-Dimer có xu hướng tăng hơn và KĐKPT dương tính chiếm tỷ lệ cao hơn ở các 
bệnh nhân có kháng thể, đặc biệt khi có sự kết hợp cả ba kháng thể. Các chỉ số xét nghiệm Fib, INR, rTT không có 
sự khác biệt ở bệnh nhân có và không có kháng thể. 
Kết luận: Bệnh nhân có kháng thể có chỉ số rAPTT kéo dài hơn, số lượng tiểu cầu giảm hơn, D-Dimer tăng 
cao hơn so với nhóm không có kháng thể kháng phospholipid. Bệnh nhân có xuất hiện đồng thời cả 3 kháng thể có 
sự thay đổi rõ rệt nhất ở các chỉ số rAPTT, tiểu cầu, D-Dimer. Không có sự khác biệt của các chỉ số Fib, INR, rTT 
ở các nhóm bệnh nhân. 
Từ khóa: kháng thể kháng phospholipid (aPL), kháng đông lupus (LA), kháng thể kháng Cardiolipin (aCL), 
kháng thể kháng β2 – Glycoprotein (aGPI) 
ABSTRACT 
RESEARCH CHARATERISTICS OF ANTIPHOSPHOLIPID ANTIBODY 
INCLUDING LUPUS ANTICOAGULANT, ANTI CARDIOLIPIN, ANTI β2 – GLYCOPROTEIN 1 
IN NATIONAL INSTITUTE OF HEMATOLOGY AND BLOOD TRANSFUSION 
Vu Duc Quang, Tran Thi Kieu My, Dao Thi Thiet, Nguyen Thị Thanh Huong, 
Nguyen Thi Ngoc Quyen, Bach Quoc Khanh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 416 – 423 
Backgrounds: Study on characteristics some type of antiphospholipid antibodies test including Lupus 
anticoagulant, anti Cardiolipin, anti β2 – Glycoprotein to help clinicians in diagnosing and treating patients with 
antiphospholipid syndrome. 
Objectives: Describe the characteristics some type of antiphospholipid antibodies test including Lupus 
* Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương ** Đại học Y Hà Nội 
Tác giả liên lạc: KTV. Vũ Đức Quang ĐT: 0986501350 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 417
anticoagulant, anti Cardiolipin, anti β2 – Glycoprotein with some related coagulation tests at National Institute 
of Hematology and Blood Transfusion from 2017 to 2018. 
Methods: Cross-sectional descriptive retrospective and prospective study of 501 patients who were 
examined and treated at the National Institute of Hematology - Blood Transfusion from January 1, 2017 to 
December 30, 2018. 
Results: 39.9% of patients had antibodies: LA antibodies accounted for the highest proportion (33.9% of 
patients). The antibody positive for the antibody was the highest percentage (22.6%), the rAPTT index is longer, 
Platelet count tends to decrease, D-Dimer tends to increase and Immediate acting inhibitor is positive. The rate 
was higher in patients with aPL antibodies, especially when there were a combination of all three antibodies. Fib, 
INR, rTT assays showed no difference in patients with or without antibodies. 
Conclusion: Patients with antiphospholipid antibodies have a longer rAPTT, lower platelet count, higher D-
Dimer than those without antiphospholipid antibodies. Patients with simultaneous presence of all three antibodies 
showed the most significant changes in the rAPTT, platelet, D-Dimer indices. There were no differences in Fib, 
INR and rTT in the patient groups. 
Key words: anti phospholipid antibody (aPL), lupus anticoagulant (LA), anti Cardiolipin (aCL), anti β2 – 
Glycoprotein (aGPI) 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội chứng antiphospholipid là bệnh lý tự 
miễn được mô tả bởi huyết khối động tĩnh 
mạch tái diễn hoặc sảy thai nhiều lần cùng với 
sự có mặt của kháng thể kháng phospholipid. 
Để chẩn đoán APS, xét nghiệm kháng thể 
kháng phospholipid đóng vai trò quan trọng. 
Kháng thể kháng phospholipid còn gặp trong 
các bệnh lý tự miễn, nhiễm trùng, ung thư. Tại 
Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương, 
các xét nghiệm phát hiện chất kháng đông 
lupus (LA), kháng thể kháng β2 - 
Glycoprotein, kháng thể kháng Cardiolipin 
đang được thực hiện thường quy với các bệnh 
nhân có nghi ngờ kháng thể kháng 
phospholipid lưu hành. 
Tại Việt nam, những nghiên cứu tìm hiểu 
đặc điểm các xét nghiệm đông máu và kháng 
thể kháng phospholipid còn chưa nhiều. Vì 
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đặc điểm 
xét nghiệm kháng thể kháng phospholid với 
mục tiêu: "Mô tả đặc điểm kháng thể kháng 
phospholipid bao gồm kháng đông Lupus, 
kháng thể kháng Cardiolipin, kháng thể kháng 
β2 – Glycoprotein với một số xét nghiệm liên 
quan tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung 
ương giai đoạn 2017-2018". 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
501 bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng nghi 
ngờ APS hoặc có kết quả rAPTT kéo dài được 
khám và chỉ định xét nghiệm sàng lọc APS lần 
đầu tại Viện Huyết học-Truyền máu Trung ương 
từ 1/1/2017- 30/12/2018. 
Chọn mẫu 
Theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện 
thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng 
nghi ngờ APS hoặc có kết quả xét nghiệm 
rAPTT kéo dài, được chỉ định các xét nghiệm 
sàng lọc APS lần đầu tại Viện Huyết học – 
Truyền máu Trung ương. 
Mẫu xét nghiệm đảm bảo tiêu chuẩn của 
phòng xét nghiệm, mẫu được ly tâm hai lần với 
tốc độ 2500 vòng/phút trong 10 phút để loại trừ 
yếu tố tiểu cầu và được xét nghiệm ngay trong 
vòng 4 giờ đồng hồ kể từ sau khi lấy máu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân có rối loạn đông máu bẩm sinh 
như: Hemophilia A, Hemophilia B. 
Bệnh nhân đang sử dụng các thuốc chống 
đông, thuốc kháng vitamin K, heparin standard, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 418
hidroxil chloroquine. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang, hồi cứu và tiến cứu. 
Nội dung nghiên cứu 
Thu thập mẫu bệnh phẩm từ các khoa lâm sàng. 
Xét nghiệm Fibrinogen, PT, APTT, TT, tổng 
phân tích tế bào máu ngoại vi. 
Xét nghiệm phát hiện chất ức chế đường 
đông máu nội sinh. 
Thực hiện các xét nghiệm LA, kháng thể 
kháng β2glycoprotein, kháng thể kháng 
cardiolipin. 
Phân tích và xử lý số liệu 
Đặc điểm xét nghiệm các kháng thể kháng 
phospholipid: tỷ lệ dương tính, phối hợp các 
kháng thể, mối liên quan với một số xét nghiệm 
đông cầm máu. 
Xử lý số liệu nghiên cứu 
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm chung nhóm đối tượng nghiên cứu 
Tỷ lệ nữ: nam là 2,2:1. Tuổi trung bình 
nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu là 39,6 tuổi. 
Nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 16-30 tuổi, 
chiếm 24,8%. 
Tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể lưu hành 
Trong các kháng thể kháng phospholipid, 
kháng khể LA chiếm tỷ lệ cao nhất (33,9%). 
Kháng thể kháng Cardiolipin và β2glycoprotein 
chiếm tỷ lệ tương đương (lần lượt là 18,6% và 
16,6%) (Hình 1). 
Tỷ lệ phối hợp kháng thể dương tính 
nhómbệnh nhân nghiên cứu 
Bệnh nhân dương tính với một loại kháng 
thể chiếm tỷ lệ cao nhất với 22,6%. Bệnh nhân 
dương tính với hai loại kháng thể chiếm tỷ lệ 
thấp nhất với 5,6%. Có 11,8% bệnh nhân dương 
tính với cả ba loại kháng thể. 
Đặc điểm xét nghiệm đông máu liên quan đến 
các loại kháng thể kháng phospholipid trong 
nghiên cứu 
Giá trị trung bình một số xét nghiệm đông cầm 
máu theo giá trị xét nghiệm LA 
Giá trị trung bình của xét nghiệm rAPTT của 
nhóm bệnh nhân có LA (+) cao hơn ở nhóm bệnh 
nhân có xét nghiệm LA nghi ngờ và nhóm bệnh 
nhân LA (-). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p <0,05 (Bảng 1). 
Giá trị D-Dimer cao nhất ở nhóm bệnh 
nhân có LA (+). Sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê với p <0,05. 
Không có sự khác biệt về giá trị trung bình 
của các chỉ số INR, Fib, và số lượng tiểu cầu ở 
các nhóm bệnh nhân. 
Hình 1. Tỷ lệ bệnh nhân dương tính với từng loại kháng thể (n=501) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 419
Hình 2. Tỷ lệ phối hợp kháng thể dương tính (n=501) 
Bảng 1. So sánh giá trị trung bình một số chỉ số xét nghiệm đông cầm máu theo giá trị xét nghiệm LA (n=501) 
 rAPTT INR Fib (g/L) D-Dimer (ng/mL) Tiều cầu (G/L) 
LA (+) 2,43±1,31 1,08±0,16 3,71±1,07 2650±3295 235±189 
LA (-) 1,37±0,49 1,07±0,17 3,78±1,41 2098±2815 280±222 
LA (±) 1,44±0,27 1,12±0,15 4,62±1,73 1644±1656 339±206 
p 
p(1,2)<0,05 
p>0,05 p>0,05 
p(1,2)<0,05 
p>0,05 
p(1,3)<0,05 p(1,3)<0,05 
Bảng 2. Đặc điểm chỉ số rAPTT theo giá trị xét 
nghiệm LA (n=501) 
 rAPTT bình thường (%) rAPTT kéo dài (%) 
LA (+) 8,9 91,1 
LA (-) 37,8 62,2 
LA (±) 7,3 92,7 
p 
p(1,2)<0,05 P(1,2)<0,05 
p(2,3)<0,05 p(2,3)<0,05 
Tỷ lệ bệnh nhân có xét nghiệm rAPTT kéo 
dài là tương đương nhau ở nhóm có xét nghiệm 
LA (+) và xét nghiệm LA nghi ngờ, cao hơn ở 
nhóm có xét nghiệm LA(-) với p <0,05 (Bảng 2). 
Bảng 3. Đặc điểm xét nghiệm KĐKPT theo giá trị 
LA (n=501) 
 KĐKPT (-) % KĐKPT (+) % KĐKPT (±) % 
LA (+) 7,6 84,1 8,2 
LA (-) 67,5 14,9 17,6 
LA (±) 45,2 26,2 28,6 
p 
p(1,2)<0,05 p(1,2)<0,05 p(1,2)<0,05 
p(1,3)<0,05 p(1,3)<0,05 p(1,3)<0,05 
Tỷ lệ bệnh nhân có kháng đông nội sinh 
không phụ thuộc thời gian, nhiệt độ dương tính 
cao nhất nhóm có LA (+) (84,1%). Khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p<0,05 (Bảng 3). 
Giá trị trung bình một số xét nghiệm đông cầm 
máu theo giá trị xét nghiệm aCL và Agpi 
Giá trị rAPTT kéo dài hơn ở những bệnh 
nhân có kháng thể aCL IgM/IgG và aGPI 
IgM/IgG dương tính (Bảng 4). 
Số lượng tiểu cầu thấp hơn ở những bệnh 
nhân có kháng thể aCL IgM/IgG và aGPI 
IgM/IgG dương tính, thấp nhất ở nhóm có 
kháng thể aCL IgG dương tính. 
Nhóm các bệnh nhân có kháng thể aCL và 
aGPI dương tính có tỷ lệ bệnh nhân có rAPTT 
kéo dài cao hơn các nhóm không có kháng thể 
(Bảng 5). 
Bệnh nhân có D-Dimer tăng gặp với tỷ lệ cao 
ở nhóm có kháng thể aGPI IgM (+) và aCL 
IgM(+) (90,5 và 100%) (Bảng 6). 
Tỷ lệ bệnh nhân có số lượng tiểu cầu giảm 
gặp với tỷ lệ cao hơn ở các nhóm có kháng thể 
aCL và Agpi (Bảng 7). 
Bệnh nhân có kháng đông nội sinh không 
phụ thuộc thời gian, nhiệt độ chiếm tỷ lệ cao ở 
các nhóm có kháng thể aCL và aGPI (+), đặc biệt 
cao ở nhóm có kháng thể aCL IgG (+) (96,6%) 
(Bảng 8). 
Chỉ số rAPTT kéo dài nhất và số lượng tiểu 
cầu giảm sâu nhất ở nhóm bệnh nhân có đồng 
thời cả 3 loại kháng thể kháng phospholipid 
(Bảng 9). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 420
Bảng 4. So sánh giá trị trung bình rAPTT và số lượng tiểu cầu theo xét nghiệm aGPI và aCL
aGPI IgM 
(-) 
aGPI IgM 
(+) 
aGPI IgG 
(-) 
aGPI IgG 
(+) 
aCL IgM 
(-) 
aCL IgM 
(+) 
aCL IgG 
(-) 
aCL IgG 
(+) 
p 
rAPTT 1,58±0,80 2,48±1,40 1,69±0,94 2,37±1,39 1,71±0,98 2,02±1,00 1,59±0,78 2,81±1,55 p<0,05 
Tiểu cầu 
(G/L) 
292±219 159±121 277±214 148±108 276±214 179±170 288±216 135±105 p<0,05 
Bảng 5. Đặc điểm chỉ số rAPTT theo giá trị xét nghiệm aGPI và aCL 
aGPI 
IgM(-) 
aGPI 
IgM(+) 
aGPI 
IgG(-) 
aGPI IgG 
(+) 
aCL 
IgM(-) 
aCL 
IgM(+) 
aCL 
IgG(-) 
aCL 
IgG(+) 
p 
rAPTT 
bình 
thường 
n 127 1 126 6 126 2 125 4 
p<0,05 
% 26,5 4,8 28,7 9,7 27 5,9 28,3 6,8 
rAPTT 
kéo dài 
n 353 20 313 56 341 32 317 55 
p<0,05 
% 73,5 95,2 71,3 90,3 73 94,1 71,7 93,2 
Bảng 6. Đặc điểm chỉ số D-Dimer theo giá trị xét nghiệm aGPI và aCL 
aGPI 
IgM(-) 
aGPI 
IgM(+) 
aGPI 
IgG(-) 
aGPI 
IgG(+) 
aCL 
IgM(-) 
aCL 
IgM(+) 
aCL 
IgG(-) 
aCL 
IgG(+) 
p 
D-Dimer 
bình 
thường 
n 108 2 96 14 107 0 89 18 
p<0,05 
% 22,5 9,5 21,9 22,6 22,9 0 20,1 30,5 
D-Dimer 
tăng 
n 372 19 343 48 360 34 353 41 
p<0,05 
% 77,5 90,5 78,1 77,4 77,1 100 79,9 69,5 
Bảng 7. Đặc điểm số lượng tiểu cầu theo giá trị xét nghiệm aGPI và aCL 
aGPI 
IgM(-) 
aGPI 
IgM(+) 
aGPI 
IgG(-) 
aGPI 
IgG(+) 
aCL 
IgM(-) 
aCL 
IgM(+) 
aCL 
IgG(-) 
aCL 
IgG(+) 
p 
Tiểu cầu 
giảm 
n 141 13 114 35 138 19 119 37 
p<0,05 
% 29,4 61,9 26 56,5 29,6 55,9 26,9 62,7 
Tiểu cầu 
BT 
n 267 8 252 26 259 13 251 22 
p<0,05 
% 55,6 38,1 57,4 41,9 55,5 38,2 56,8 37,3 
Tiểu cầu 
tăng 
n 72 0 73 1 70 2 72 0 
p<0,05 
% 15 0 16,6 1,6 15 5,9 16,3 0 
Bảng 8. Đặc điểm xét nghiệm KĐKPT theo giá trị xét nghiệm aGPI và aCL 
aGPI 
IgM(-) 
aGPI 
IgM(+) 
aGPI 
IgG(-) 
aGPI 
IgG(+) 
aCL 
IgM(-) 
aCL 
IgM(+) 
aCL 
IgG(-) 
aCL 
IgG(+) 
p 
KĐKPT (-) 
n 229 2 232 4 224 4 226 2 
p<0,05 
% 47,7 9,5 52,8 6,5 48 11,8 51,1 3,4 
KĐKPT (+) 
n 174 18 130 55 170 26 139 57 
p<0,05 
% 36,3 85,7 29,6 88,7 36,4 76,5 31,4 96,6 
KĐKPT (±) 
n 77 1 77 3 73 4 77 0 
p<0,05 
% 16 4,8 17,5 4,8 15,6 11,8 17,4 0 
Bảng 9. So sánh giá trị trung bình một số chỉ số xét nghiệm đông cầm máu theo số lượng kháng thể dương tính 
 rAPTT INR Fib (g/L) D-Dimer (ng/mL) Số lượng tiểu cầu (G/L) 
Âm tính 1,36 ± 0,47 1,07 ± 0,17 3,87 ± 1,44 2125 ± 2766 293 ± 222 
1 kháng thể (+) 2,11 ± 1,07 1,10 ± 0,18 3,88 ± 1,39 2130 ± 2050 297 ± 212 
2 kháng thể (+) 2,04 ± 0,88 1,04 ± 0,15 3,51 ± 1,02 4172 ± 6589 200 ± 117 
3 kháng thể (+) 2,78 ± 1,57 1,05 ± 0,13 3,64 ± 0,84 2055 ± 2093 129 ± 100 
p p0,05 p>0,05 p<0,05 p<0,05 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 421
BÀN LUẬN 
Đặc điểm xuất hiện các loại kháng thể kháng 
phospholipid trong nghiên cứu 
Nghiên cứu về tỷ lệ xuất hiện từng loại 
kháng thể trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu 
nhận thấy, kháng thể lupus (LA) chiếm tỷ lệ cao 
nhất với 33,9%. Kháng thể kháng Cardiolipin 
(aCL) và β2glycoprotein (aGPI) chiếm tỷ lệ 
tương đương nhau, lần lượt là 18,6% và 16,6% 
(Hình 1). Nghiên cứu của tác giả Lê Thị Phương 
Lan trên đối tượng xảy thai liên tiếp, kháng thể 
aCL và aGPI lại xuất hiện với tỷ lệ cao hơn 
kháng thể LA(5). Nghiên cứu của tác giả Hoàng 
Thị Thuý Hà trên 8 bệnh nhân được chẩn đoán 
xác định APS tại Bệnh viện Chợ Rẫy, có 7/8 bệnh 
nhân xuất hiện kháng thể aCL, 5 bệnh nhân xuất 
hiện thêm kháng thể LA(4). Nghiên cứu của 
chúng tôi đa số dựa trên các bệnh nhân có xét 
nghiệm APTT kéo dài (có thể xuất hiện kháng 
đông nội sinh lưu hành) cũng đã bắt gặp tỷ lệ 
khá cao bệnh nhân có các kháng thể kháng 
phospholipid (40,0%). Theo các nhà nghiên cứu, 
kháng thể kháng phospholipid nên được chỉ 
định ở tất cả các bệnh nhân có xét nghiệm APTT 
kéo dài chưa rõ nguyên nhân(4,1) .Điều này nhằm 
mục đích phát hiện sớm sự xuất hiện của kháng 
thể kháng phospholipid ngay cả khi bệnh nhân 
chưa có triệu chứng APS trên lâm sàng để có kế 
hoạch theo dõi cho bệnh nhân, phòng các biến 
chứng tắc mạch có thể xảy ra. Theo nghiên cứu 
của tác giả Laura và Galli, tỷ lệ bệnh nhân có 
kháng thể LA có nguy cơ biến chứng tắc mạch 
cao hơn ở bệnh nhân có kháng thể aCL và 
aGPI(1,2,3). Như vậy, sự xuất hiện kháng thể LA 
với tỷ lệ cao hơn kháng thể aCL và aGPI trong 
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các bệnh 
nhân này cần được tư vấn để phát hiện sớm các 
biến chứng tắc mạch và cân nhắc điều trị dự 
phòng cho bệnh nhân. 
Các bệnh nhân nghi ngờ hoặc được chẩn 
đoán xác định APS có thể xuất hiện 1, 2 hay 
đồng thời cả 3 loại kháng thể LA, aCL và aGPI. 
Hình 2 biểu thị sự phối hợp các kháng thể xuất 
hiện ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu. Kết quả cho 
thấy tỷ lệ bệnh nhân có một loại kháng thể 
dương tính chiếm tỷ lệ cao nhất với 22,6%. bệnh 
nhân có cả ba loại kháng thể dương tính cũng 
chiếm tỷ lệ khá cao là 11,8%. bệnh nhân có xuất 
hiện 2 trong 3 loại kháng thể kháng 
phospholipid chiếm tỷ lệ thấp nhất, chỉ với 5,6%. 
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán APS, vai trò của các 
loại kháng thể kháng phospholipid là tương 
đương nhau. Tuy nhiên, sự kết hợp của nhiều 
loại kháng thể được cho là có thể liên quan đến 
nguy cơ biến chứng tắc mạch và ảnh hưởng đến 
kết quả các xét nghiệm đông máu khác(8,7). Theo 
nghiên cứu của tác giả Lê Thị Phương Lan, tỷ lệ 
bệnh nhân dương tính với kháng thể kháng 
phospholipid ở bệnh nhân sẩy thai liên tiếp 
chiếm 56%(5). Tác giả Hoàng Thị Thuý Hà nghiên 
cứu trên 8 bệnh nhân APS thì có 5/8 bệnh nhân 
có sự kết hợp hai loại kháng thể LA và aCL (tại 
thời điểm nghiên cứu, bệnh viện Chợ Rẫy chưa 
tiến hành xét nghiệm kháng thể aGPI)(4). 
Đặc điểm một số xét nghiệm đông máu liên 
quan tới sự xuất hiện các loại kháng thể kháng 
phospholipid trong nghiên cứu 
Đặc điểm một số xét nghiệm đông máu liên 
quan tới sự xuất hiện kháng thể LA 
Giá trị xét nghiệm LA được chia làm 3 
ngưỡng: Âm tính, nghi ngờ và dương tính. So 
sánh giá trị trung bình và đặc điểm của một số 
xét nghiệm đông máu, chúng tôi nhận thấy: 
- Chỉ số rAPTT có sự khác biệt giữa các 
nhóm có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Theo 
đó, giá trị trung bình của chỉ số rAPTT là 2,43 ± 
1,31, cao hơn nhóm có LA âm tính (r APTT 
1,37±0,49) và LA nghi ngờ (rAPTT 1,44±0,27). 
Kết quả Bảng 2 cũng cho thấy tỷ lệ bệnh nhân 
có rAPTT kéo dài ở nhóm bệnh nhân LA 
dương tính cao hơn hẳn so với nhóm LA âm 
tính với p<0,05. Theo nghiên cứu của tác giả 
Hoàng Thị Thuý Hà, tất cả các bệnh nhân 
trong nghiên cứu đều có rAPTT kéo dài. Tác 
giả này cũng nhận định, xét nghiệm mixtest và 
tìm kháng thể kháng phospholipid nên được 
chỉ định ở tất cả các bệnh nhân có chỉ số APTT 
kéo dài(4). Qua đó cho thấy xét nghiệm rAPTT 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 422
là một xét nghiệm có ý nghĩa quan trọng trong 
định hướng chẩn đoán APS. 
- Kháng đông lưu hành đường nội sinh 
không phụ thuộc thời gian, nhiệt độ (KĐKPT) là 
một xét nghiệm được tiến hành khi chỉ số rAPTT 
kéo dài. Xét nghiệm được tiến hành để xác định 
sự có mặt của kháng thể không đặc hiệu chống 
lại yếu tố đông máu con đường nội sinh dựa 
trên nguyên lý của xét nghiệm mix test. Xét 
nghiệm có ý nghĩa quan trọng trong định hướng 
khả năng xuất hiện các kháng thể miễn dịch 
trong đó có kháng thể kháng phospholipid. Trên 
Bảng 3 cho thấy, ở nhóm LA (+) có KĐKPT 
dương tính chiếm tỷ lệ rất cao (84,1%), cao hơn 
nhiều so với các nhóm bệnh nhân có LA(-) hoặc 
nghi ngờ. Điều đó chứng tỏ, xét nghiệm KĐKPT 
(+) là một chỉ điểm quan trọng trong việc tiến 
hành xét nghiệm tìm kháng thể LA. 
- Cũng theo Bảng 1, các chỉ số xét nghiệm 
Fib, INR, rTT không có sự khác biệt giữa các 
nhóm có và không có kháng thể LA. Đây là các 
xét nghiệm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố 
thuộc con đường đông máu ngoại sinh và con 
đường chung. Trên thực tế, sự có mặt của kháng 
thể kháng phospholipid ít gây ảnh hưởng đến 
con đường đông máu ngoại sinh và con đường 
chung. Theo nghiên cứu của tác giả Miho 
Sakakura và cộng sự, xét nghiệm PT không có sự 
khác biệt giữa các nhóm có kháng thể aPL và 
không có kháng thể aPL(7). 
Đặc điểm một số xét nghiệm đông máu liên 
quan tới sự xuất hiện kháng thể aCL và aGPI 
Giá trị xét nghiệm aCL và aGPI được chia 
làm 2 ngưỡng: Âm tính và dương tính với IgG 
hoặc IgM. So sánh giá trị trung bình và đặc điểm 
của một số xét nghiệm đông máu, chúng tôi 
nhận thấy: 
- Chỉ số rAPTT cao hơn có ý nghĩa thống 
kê với p<0,05 ở nhóm có kháng thể aCL 
IgM/IgG và kháng thể aGPI IgM/ IgG. Giá trị 
rAPTT cao nhất thuộc nhóm có kháng thể aCL 
IgG (+). Theo đó, giá trị trung bình của chỉ số 
rAPTT ở nhóm có kháng thể aCL IgG là 
2,81±1,55 (Bảng 4). Kết quả Bảng 5 cũng cho 
thấy tỷ lệ bệnh nhân có rAPTT kéo dài ở nhóm 
bệnh nhân aCL và aGPI IgM/IgG dương tính 
cao hơn hẳn so với nhóm không có kháng thể 
với p<0,05. Qua đó cho thấy xét nghiệm rAPTT 
là một xét nghiệm có ý nghĩa quan trọng trong 
định hướng đi tìm kháng thể aCL và aGPI ở 
bệnh nhân nghi ngờ hội chứng APS. 
- Số lượng tiểu cầu: Theo kết quả Bảng 4, 
nhóm nghiên cứu ghi nhận, số lượng trung bình 
tiểu cầu thấp hơn ở nhóm có kháng thể aCL và 
aGPI lưu hành và thấp nhất ở nhóm có kháng 
thể aCL IgG (+). Thống kê tỷ lệ bệnh nhân có số 
lượng tiểu cầu giảm theo Bảng 7 cũng nhận thấy, 
nhóm bệnh nhân có aCL và aGPI IgM/IgG (+) thì 
tỷ lệ bệnh nhân có số lượng tiểu cầu giảm là cao 
hơn các nhóm không có kháng thể. Như vậy, số 
lượng tiểu cầu cũng là một chỉ số giúp định 
hướng cho sự phát hiện của kháng thể aCL và 
aGPI. 
- Kết quả Bảng 6 cho thấy 100% bệnh nhân có 
kháng thể aCL IgM và 90,5% bệnh nhân aGPI 
IgM có giá trị giá trị D-Dimer tăng so với mức 
bình thường. Như vậy, D-Dimer cũng là một chỉ 
số có sự khác biệt và thường tăng trong các 
trường hợp nghi ngờ có sự xuất hiện của kháng 
thể aCL. 
- Theo Bảng 8, tỷ lệ bệnh nhân có KĐPKT (+) 
cao hơn ở nhóm bệnh nhân có kháng thể aCL và 
aGPI IgM/IgG so với các nhóm khác. Khác biệt 
có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều đó cho thấy 
xét nghiệm mix test tìm KĐKPT thực sự có ý 
nghĩa trong định hướng chẩn đoán kháng thể 
kháng phospholipid. 
Như vậy, các kháng thể LA, aCL, aGPI với 
bản chất là các kháng thể kháng phospholipid có 
tác động trực tiếp đến con đường đông máu nội 
sinh và sự hình thành huyết khối. Giá trị D-
Dimer tăng và số lượng tiểu cầu giảm gặp nhiều 
hơn ở những bệnh nhân có kháng thể kháng 
phospholipid (bao gồm cả LA, aCL, aGPI) có thể 
do khuếch đại quá trình tăng tiêu thụ các yếu tố 
đông cầm máu trong quá trình tạo huyết khối. 
Vì vậy, các chỉ số rAPTT, số lượng tiểu cầu, D-
Dimer và xét nghiệm KĐKPT thực sự có ý nghiã 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 423
trong định hướng sự có mặt của kháng thể 
kháng phospholipid, đồng thời cũng là những 
xét nghiệm có giá trị trong theo dõi diễn biến 
điều trị ở những bệnh nhân này. 
Đặc điểm của các xét nghiệm đông máu theo 
số lượng kháng thể kháng dương tính 
Theo các kết quả thu nhận được ở trên, rõ 
ràng, các kháng thể kháng phospholipid ảnh 
hưởng đến các giá trị xét nghiệm rAPTT, số 
lượng tiểu cầu, D-Dimer. Tuy nhiên, để đánh 
giá mức độ ảnh hưởng khi có sự kết hợp các 
kháng thể, chúng tôi tiếp tục so sánh giá trị 
trung bình và thống kê đặc điểm các xét 
nghiệm dựa trên số lượng kháng thể dương 
tính và được chia làm các nhóm: Nhóm có 1 
kháng thể dương tính, nhóm có 2 kháng thể 
dương tính và nhóm có cả 3 kháng thể dương 
tính trên tổng số 200 bệnh nhân có xuất hiện 
kháng thể kháng phospholipid. Kết quả ghi 
nhận được: Nhóm có dương tính với cả ba loại 
kháng thể có chỉ số rAPTT kéo dài nhất, số 
lượng tiểu cầu giảm thấp nhất và tỷ lệ bệnh 
nhân có giảm số lượng tiểu cầu cao nhất (Bảng 
9). Đối với chỉ số D-Dimer, nhóm bệnh nhân có 
xuất hiện 2 loại kháng thể có giá trị trung bình 
D-Dimer cao nhất (Bảng 9). Như vậy, mức độ 
ảnh hưởng đến các chỉ số rAPTT, số lượng tiểu 
cầu và D-Dimer bước đầu ghi nhận sự khác 
nhau theo số lượng kháng thể kháng 
phospholipid tồn tại trên cơ thể bệnh nhân. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu kết quả xét nghiệm của 501 
bệnh nhân khám và điều trị tại Viện từ 1/2017- 
12/2018, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 
+ 39,9% bệnh nhân có xuất hiện kháng thể: 
kháng thể LA chiếm tỷ lệ cao nhất (33,9% bệnh 
nhân). Bệnh nhân dương tính với một loại kháng 
thể chiếm tỷ lệ cao nhất (22,6%). 
+ Chỉ số rAPTT kéo dài hơn, số lượng tiểu 
cầu có xu hướng giảm hơn, D-Dimer có xu 
hướng tăng hơn và KĐKPT dương tính chiếm tỷ 
lệ cao hơn ở các bệnh nhân có kháng thể aPL, 
đặc biệt khi có sự kết hợp cả ba loại kháng thể. 
+ Các chỉ số xét nghiệm Fib, INR, rTT không 
có sự khác biệt ở bệnh nhân có và không có 
kháng thể. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alving BM, Barr CF (1990). Correlation between lupus 
anticoagulants and anticardiolipin antibodies in patients with 
prolonged activated partial thromboplastin times. Am J Med, 
88:112–116. 
2. Durcan L (2017). Epidemiology of the Antiphospholipid 
Syndrome. Handbook of Systemic Autoimmune Diseases, 12:17-30. 
3. Galli M, Luciani D, Bertolini G (2014). Lupus anticoagulants are 
stronger risk factors for thrombosis than anticardiolipin 
antibodies in the antiphospholipid syndrome: a systematic 
review of the literature. Blood, 101:1827–1832. 
4. Hoàng Thị Thuý Hà (2014). Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
của hội chứng kháng phospholipid tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm 
2012. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 18(2):107-111. 
5. Lê Thị Phương Lan, Hoàng Minh Phương, Đỗ Thanh Dung, 
Phùng Thị Hoa (2010). Sẩy thai liên tiếp và Hội chứng 
Antiphospholipid. Nội san Y học Sinh sản, 15:11. 
6. Ortel TL (2012). Antiphospholipid Syndrome Laboratory 
Testing and Diagnostic Strategies. Am J Hematol, 87(1):75–81. 
7. Pengo V, Ruffatti A, Legnani C, et al (2011). Incidence of a first 
thromboembolic event in asymptomatic carriers of high-risk 
antiphospholipid antibody profile: a multicenter prospective 
study. Blood, 118(17):4714–8. 
8. Sakakura M, et al (2000). Coagulation tests and anti-
phospholipid antibodies in patients positive for Lupus 
Anticoagulant. Clin Appl Thrombosis/Hemostasis, 6(3):144-150. 
Ngày nhận bài báo: 19/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/07/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019