Nguyễn Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 105 - 110 
105 
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ GIẢI PHẪU CỦA MỘT SỐ LOÀI 
THỰC VẬT THỦY SINH 
Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Luyến, 
 Cao Thị Phương Thảo, Lê Phương Dung* 
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Một số loài thực vật thủy sinh như rau Rút (Neptunia oleracea Lour.), rau Dừa nước (Ludwidgia 
adscendens L.) và Bèo tây (Eichhornia crassipes Solms) là những loài cây sống phổ biến trong 
nước ao, hồ. Chúng có nhiều công dụng khác nhau như dùng làm thuốc chữa bệnh, làm rau ăn và 
có vai trò làm sạch môi trường nước bị ô nhiễm. Vì vậy, chúng là đối tượng được nhiều nhà khoa 
học quan tâm nghiên cứu. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thái, cấu tạo 
giải phẫu thích nghi với môi trường sống ở nước ao, hồ của ba loài thực vật thủy sinh nói trên. Sử 
dụng phương pháp làm tiêu bản hiển vi, quan sát và mô tả theo tài liệu của Hoàng Thị Sản, 
Nguyễn Phương Nga (2008). Kết quả đã mô tả được đặc điểm hình thái, cấu tạo giải phẫu thích 
nghi của các loài rau Rút, rau Dừa nước và Bèo tây sống trong môi trường nước ao, hồ, nhằm cung 
cấp những dữ liệu phục vụ trong học tập và nghiên cứu. 
Từ khóa: Rau Rút, rau Dừa nước, Bèo tây, rễ, thân. 
MỞ ĐẦU* 
Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió 
mùa nóng, ẩm nên hệ thực vật rất phong phú 
và đa dạng. Theo Phạm Hoàng Hộ (2003) [2], 
ở nước ta hiện nay có gần 13.000 loài thực vật 
bậc cao có mạch sống trong các môi trường 
trên cạn và dưới nước. Những loài thực vật 
thủy sinh như cây rau Rút (Neptunia oleracea 
Lour.), rau Dừa nước (Ludwidgia adscendens 
L.) và Bèo tây (Eichhornia crassipes Solms) 
là những loài cây sống phổ biến trong các ao, 
hồ ở nước ta. Mặc dù có nhiều công trình 
nghiên cứu về tác dụng làm thuốc chữa bệnh, 
làm rau ăn hoặc dùng làm sạch môi trường 
nước bị ô nhiễm của cây rau Rút, rau Dừa 
nước và cây Bèo tây [3], [4], [5], [7], nhưng 
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách 
đầy đủ, có hệ thống về đặc điểm hình thái, 
cấu tạo giải phẫu thích nghi của các loài cây 
này trong môi trường sống ở nước ao, hồ. Vì 
vậy, kết quả thu được nhằm cung cấp những 
dữ liệu phục vụ trong học tập, nghiên cứu và 
giải thích mối quan hệ thích nghi của các loài 
thực vật với môi trường sống. 
*
 Tel: 0971 338385, Email: 
[email protected] 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là ba loài thực vật rau Rút (Neptunia oleracea 
Lour.), rau Dừa nước (Ludwidgia adscendens 
L.) và cây Bèo tây (Eichhornia crassipes 
Solms.) được thu thập tại Thái Nguyên. 
Phương pháp nghiên cứu 
Xác định tên khoa học theo phương pháp hình 
thái so sánh, đối chiếu với khóa phân loại và 
mô tả loài theo Phạm Hoàng Hộ (2003) [2], 
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) 
[1]. Nghiên cứu cấu tạo giải phẫu hiển vi rễ, 
thân, lá theo phương pháp của Hoàng Thị Sản, 
Nguyễn Phương Nga (2008) [6], quan sát và 
chụp ảnh tiêu bản trên kính hiển vi quang học 
kết nối với phần mềm Microscope Manager. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Đặc điểm hình thái 
Cây rau Rút (Neptunia oleracea Lour.) 
Rau Rút được trồng ở các ao, hồ, làm rau ăn, 
rau có mùi thơm đặc trưng. Rau Rút là loài 
cây thân thảo xốp sống dưới nước, mọc lan 
trên mặt nước. Thân thường mềm, xốp, rỗng 
ruột, cọng non được bao bọc bởi một lớp 
phao trắng xốp. Lá kép lông chim hai lần, 
Nguyễn Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 105 - 110 
106 
phiến lá chét nhỏ 2 x 5 mm và mọc đối. Rễ 
chùm, có rễ gốc bám vào đất, rễ đốt mọc 
thành chùm từ đốt thân phát triển ở trong 
nước. Hoa tập hợp thành cụm hoa hình đầu, 
màu vàng, quả có 6 hạt dẹt, nhẵn. 
Rau Dừa nước (Ludwidgia adscendens L.) 
Rau Dừa nước thường sinh sống tự nhiên ở 
các ao, hồ và đầm lầy. Thân có tiết diện tròn, 
phân cành nhiều, cành nằm được mọc ra từ 
các kẽ lá, về sau các cành hơi đứng. Lá đơn 
nguyên, hầu hết đều mọc cách, phiến lá hình 
xoan ngược, mép lá thẳng, gân lông chim, 
cuống lá thường dài bằng một nửa phiến lá. 
Có hai loại lá, lá chìm trong nước có màu đỏ 
tím, lá nổi trên mặt nước có màu xanh. Cây 
sống ở nước có rễ phát triển từ các mấu thân 
và tạo thành các chùm phao chứa khí giúp cây 
ngập trong nước nhưng vẫn đảm bảo chức 
năng sinh lý bình thường và giúp ngọn cây 
hướng lên khỏi mặt nước. Rau Dừa nước có 
hoa to màu trắng, lá đài hình tam giác, tràng 
hoa rời, quả hình trụ, hạt nhỏ và nhiều. 
Cây Bèo tây (Eichhornia crassipes Solms) 
Bèo tây là loài dễ sống, có thể ở ao, hồ, kênh 
mương hay nơi đất ẩm. Cây Bèo tây mọc cao 
khoảng 30 cm hay hơn, cây thân thảo với 
phiến lá dạng hơi tròn, màu xanh lục, láng và 
mặt nhẵn. Cuống lá phồng lên thành phao 
trông giống như chiếc lọ lục bình giúp cây nổi 
trên mặt nước. Lá mọc hình hoa thị, gân lá 
hình cung dài, hẹp. Hoa không đều, mọc thành 
chùm ở ngọn, màu tím nhạt, đài và tràng cùng 
màu, dính liền với nhau ở gốc. Cánh hoa trên 
có một đốm màu vàng, 6 nhị, quả nang. Rễ 
Bèo tây màu đen buông rủ trong nước. 
Từ đặc điểm hình thái của các loài cây rau 
Rút, rau Dừa nước, Bèo tây, cho thấy cả ba 
loài đều có những đặc điểm phù hợp thích 
nghi với môi trường sống nổi trên mặt nước 
như cây thân thảo, thường xốp, nhẹ, thân có 
sự biến đổi tạo thành các phao trắng bao 
quanh phía ngoài thân (rau Rút), hoặc ở các 
đốt phần thân bị ngập nước có các chùm phao 
xốp (rau Dừa nước) hay có cuống lá phình to, 
xốp tựa như phao (Bèo tây). 
Đặc điểm cấu tạo giải phẫu 
Cây rau Rút (Neptunia oleracea Lour.) 
Cấu tạo giải phẫu thân 
Cấu tạo sơ cấp thân cây rau Rút gồm các phần 
như sau (Hình 1): 
 Hình 1. Cấu tạo sơ cấp thân rau Rút 
Ngoài cùng là một lớp tế bào biểu bì hình chữ 
nhật, kích thước đồng đều xếp sít nhau, có 
chức năng bảo vệ. Dưới biểu bì là hệ thống 
mô dày rất phát triển, chủ yếu là mô dày góc 
và mô dày xốp, gồm 15 - 16 lớp tế bào có 
vách dày bằng xenluloz đảm nhiệm chức 
năng cơ học. Mô cứng gồm 6 - 7 lớp tế bào 
rất khác nhau về hình dạng và tính chất, các tế 
bào này sắp xếp chủ yếu ở phía ngoài các bó 
dẫn, thực hiện vai trò cơ học đảm bảo cấu trúc 
vững chắc của cây. Hệ dẫn ở thân cây là các 
bó dẫn kiểu chồng chất hở xếp thành vòng 
trong thân thực hiện chức năng dẫn truyền. 
Libe sơ cấp gồm nhiều lớp tế bào sống, có 
hình đa giác, kích thước nhỏ, sắp xếp sít 
nhau. Giữa gỗ và libe là tầng trước phát sinh 
gồm các tế bào sống có hình dẹt, màng mỏng. 
Gỗ sơ cấp gồm 5 - 7 lớp tế bào, phân hóa theo 
hướng li tâm. Phần chiếm diện tích chủ yếu 
trong thân là hệ thống mô mềm, gồm 20 - 25 
lớp tế bào, các tế bào có hình hơi tròn, kích 
thước khá đồng đều, màng mỏng bằng 
xenluloz, sắp xếp thưa nhau để chừa ra nhiều 
khoảng gian bào lớn chứa khí. Chính những 
khoảng trống này giúp thân cây rau Rút nhẹ, 
xốp và nổi trên mặt nước. 
Cấu tạo giải phẫu cuống lá 
Phía ngoài của cuống lá cây rau Rút là một 
lớp tế bào biểu bì hình chữ nhật, xếp xít nhau 
Nguyễn Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 105 - 110 
107 
làm nhiệm vụ bảo vệ. Tiếp theo là mô dày với 
chức năng cơ học gồm 2- 3 lớp tế bào sống, 
có màng sơ cấp dày bằng xenluloz, sắp xếp sít 
nhau. Mô mềm rất phát triển chiếm phần lớn 
diện tích của cuống lá gồm nhiều lớp tế bào, 
các tế bào hình tròn cạnh xếp thưa để chừa ra 
những khoang trống lớn chứa khí. Mô cứng 
gồm 5 - 7 lớp tế bào có hình đa giác và kích 
thước không đồng đều, các tế bào có màng 
dày hóa gỗ và sắp xếp theo hình vòng cung 
bao quanh bên ngoài bó dẫn để nâng đỡ phiến 
lá. Các bó dẫn nằm trong khối mô mềm 
thường xếp thành hình cung, mặt lõm của 
cung quay vào phía trong, bó lớn nhất nằm 
trên mặt phẳng đối xứng, các bó khác nhỏ 
hơn nằm đối xứng ở hai bên. Cấu tạo một bó 
dẫn gồm libe sơ cấp có 8 - 9 lớp tế bào sống, 
màng mỏng, hình đa giác nhỏ, kích thước 
không giống nhau, xếp sít nhau. Gỗ sơ cấp 
nằm phía trong libe sơ cấp, có 10 - 12 lớp tế 
bào với hình dạng và kích thước không đồng 
đều (Hình 2). 
Hình 2. Cấu tạo cuống lá cây rau Rút 
Rau Dừa nước (Ludwidgia adscendens L.) 
Cấu tạo giải phẫu thân cây 
Cấu tạo sơ cấp thân rau Dừa nước từ ngoài 
vào trong bao gồm các phần như sau: biểu bì 
có một lớp tế bào sống không chứa diệp lục, 
tế bào dạng hình phiến xếp sít nhau, thường 
có vách ngoài dày hơn vách trong làm nhiệm 
vụ bảo vệ. Mô dày nằm dưới biểu bì, chủ yếu 
là mô dày góc gồm 1 - 2 lớp tế bào sống, các 
tế bào mô dày có hình đa giác, kích thước 
không đều nhau, có vách dày bằng xenluloz, 
đảm nhận chức năng cơ học. Mô mềm vỏ 
nằm ở phía trong mô dày, gồm 14 - 16 lớp tế 
bào, mỗi tế bào có hình hơi tròn sắp xếp 
không sít nhau để chừa ra các khoảng trống 
lớn chứa khí. Vách tế bào mỏng, kích thước 
không đồng đều. Các tế bào mô mềm vỏ ở 
phía ngoài có lục lạp nên thân non có màu 
lục, đảm nhiệm chức năng quang hợp. Vỏ 
trong có cấu tạo từ 1-2 lớp tế bào, kích thước 
các tế bào khá đồng đều, xếp sít nhau, nhỏ 
hơn các tế bào mô mềm và hơi kéo dài theo 
hướng tiếp tuyến. Vỏ trụ là miền ngoài cùng 
của phần trụ nằm phía trong lớp nội bì gồm 
các tế bào sống, hình chữ nhật nhỏ, có màng 
mỏng. Hệ dẫn của thân có kiểu bó chồng chất 
với libe nằm ngoài, gỗ nằm trong. Libe sơ cấp 
gồm những tế bào sống có hình đa giác nhỏ, 
xếp sít nhau, phân hóa hướng tâm. Gỗ sơ cấp 
gồm 5 - 6 lớp tế bào, các mạch gỗ có vách 
dày hóa gỗ, cứng. Phần mô mềm ruột gồm 
các tế bào màng mỏng bằng xenluloz, hình 
hơi tròn, kích thước tăng dần từ ngoài vào 
trong, mô mềm chứa nhiều chất dự trữ cho 
cây (Hình 3). 
Hình 3. Cấu tạo sơ cấp thân rau Dừa nước 
Cấu tạo giải phẫu lá cây 
Bên ngoài lá có biểu bì trên (mặt trên lá) và 
biểu bì dưới (mặt dưới lá) gồm các tế bào 
hình chữ nhật, xếp sít nhau làm nhiệm vụ bảo 
vệ. Biểu bì mặt dưới lá có nhiều lỗ khí giúp lá 
thực hiện việc trao đổi khí giữa cây và môi 
trường. Giữa hai lớp biểu bì trên và biểu bì 
dưới là phần thịt lá gồm có mô giậu, mô xốp. 
Mô giậu gồm 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật 
dài, xếp vuông góc với lớp biểu bì, tế bào mô 
giậu có rất nhiều diệp lục đảm nhiệm chức 
năng quang hợp. Mô xốp nằm tiếp giáp với 
Nguyễn Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 105 - 110 
108 
lớp biểu bì dưới, gồm những tế bào tròn cạnh, 
kích thước không đều, sắp xếp rời rạc tạo ra 
những khoang trống là nơi dự trữ khí giúp 
cho quá trình trao đổi khí tiến hành thuận lợi. 
Hệ dẫn gồm các bó dẫn kiểu bó chồng chất 
đảm nhiệm chức năng dẫn truyền. Libe sơ cấp 
gồm 2 - 3 lớp tế bào hình đa giác nhỏ. Gỗ sơ 
cấp nằm phía trong gồm 5 - 6 lớp tế bào hình 
tròn cạnh. Phần gân lá gồm: Mô dày nằm sát 
dưới biểu bì, gồm 2 lớp tế bào có màng dày 
bằng xenluloz đảm nhận chức năng cơ học. 
Tiếp đến là mô mềm gồm 15-17 lớp tế bào có 
hình đa giác hơi tròn xếp rời rạc để lại nhiều 
khoang trống lớn chứa khí. Bó dẫn xếp thành 
dải hình vòng cung theo gân lá, thuộc bó 
chồng chất, đảm nhiệm chức năng dẫn truyền. 
(Hình 4). 
Hình 4. Cấu tạo lá rau Dừa nước 
Cấu tạo giải phẫu rễ cây 
Cấu tạo sơ cấp của rễ gồm các phần như sau 
(Hình 5). 
Hình 5. Cấu tạo sơ cấp rễ rau Dừa nước 
Bên ngoài là biểu bì có một lớp tế bào có hình 
chữ nhật, màng mỏng, xếp sít nhau làm nhiệm 
vụ bảo vệ. Phần vỏ sơ cấp có vỏ ngoài nằm 
ngay dưới biểu bì gồm một lớp tế bào có 
nhiều cạnh, hơi kéo dài, màng mỏng và xếp 
sít nhau. Mô mềm vỏ gồm 13 - 14 lớp tế bào, 
các tế bào có màng mỏng bằng xenluloz xếp 
thưa nhau, để hở nhiều khoảng gian bào nhỏ 
chứa khí. Vỏ trong có một lớp tế bào nằm 
phía trong cùng của vỏ sơ cấp, có đai caspari 
tại các vách xuyên tâm nên việc dẫn truyền 
nước và chất dinh dưỡng được thực hiện theo 
một chiều nhất định. Phần trụ giữa có vỏ trụ 
nằm ngay sát vỏ trong, gồm một lớp tế bào 
sống có màng mỏng. Hệ dẫn gồm các bó gỗ 
và bó libe riêng biệt, xếp xen kẽ nhau dưới vỏ 
trụ và vòng quanh trụ giữa. Libe sơ cấp phân 
hóa hướng tâm, gồm các tế bào hình đa giác. 
Gỗ sơ cấp cũng phân hóa hướng tâm, gồm 2 - 
3 lớp tế bào có hình hơi tròn. Phần trong cùng 
là mô mềm ruột gồm các tế bào có màng 
mỏng bằng xenluloz, kích thước tăng dần từ 
ngoài vào trong có chức năng dự trữ. 
Cây Bèo tây (Eichhornia crassipes Solms) 
Cấu tạo giải phẫu cuống lá 
Bèo tây là cây một lá mầm, có cuống lá phình 
to, phía ngoài là biểu bì gồm 1-2 lớp tế bào 
hình chữ nhật xếp sít nhau có kích thước khá 
đồng đều và thực hiện chức năng bảo vệ. Mô 
mềm gồm các tế bào có hình tròn cạnh, kích 
thước tăng dần từ ngoài vào trong. Các tế bào 
mô mềm này sắp xếp thưa nhau tạo thành các 
khoang trống lớn chứa khí. Chính nhờ khoảng 
gian bào này làm cho cuống lá phình to chứa 
khí như chiếc phao giúp cây nổi trên mặt 
nước. Giữa các tế bào mô mềm là các tinh thể 
canxi oxalate hình kim. Số lượng các bó dẫn 
nhiều, nằm rải rác khắp cuống lá, bó dẫn kiểu 
chồng chất kín (libe ở phía ngoài, gỗ nằm 
phía trong). Trong cuống lá các bó dẫn nhỏ 
nằm phía ngoài, bó dẫn lớn hơn nằm phía 
trong (Hình 6). 
Hình 6. Cấu tạo cuống lá Bèo tây 
Nguyễn Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 105 - 110 
109 
Cấu tạo giải phẫu phiến lá 
Phiến lá được bao bọc bởi hai lớp biểu bì, 
biểu bì trên và biểu bì dưới đều có một lớp tế 
bào hình chữ nhật có vách dày xếp sít nhau 
làm nhiệm vụ bảo vệ. Lỗ khí có cả ở biểu bì 
trên và biểu bì dưới của lá giữ vai trò trao đổi 
khí cho cây. Cấu tạo lá Bèo tây có sự phân 
hóa thành mô giậu và mô xốp. Mô giậu có 2 - 
3 lớp tế bào, hình dạng tế bào dài, xếp vuông 
góc với biểu bì. Tế bào mô giậu có màng 
mỏng chứa nhiều diệp lục, xếp khá sít nhau 
để chừa ra các khoảng gian bào nhỏ cho 
không khí đi qua. Mô xốp gồm 10 - 12 lớp tế 
bào, hình dạng tế bào đồng đều (tròn hay bầu 
dục), xếp không sát nhau để chừa ra những 
khoảng gian bào lớn chứa khí, các tế bào mô 
xốp có ít diệp lục hơn ở tế bào mô giậu. Số 
lượng các bó dẫn ở lá thường nhiều (Hình 7). 
Hình 7. Cấu tạo phiến lá Bèo tây 
Cấu tạo giải phẫu rễ 
Ở bên ngoài rễ Bèo tây là biểu bì có một lớp 
tế bào kích thước đồng đều, màng hóa bần 
xếp sít nhau làm nhiệm vụ bảo vệ. Dưới biểu 
bì là lớp vỏ ngoài gồm 3 - 4 lớp tế bào có 
hình đa giác không đều, màng mỏng và xếp 
sít nhau. Tiếp theo là 10 - 12 lớp tế bào mô 
mềm vỏ có kích thước không đồng đều, các tế 
bào mô mềm nằm phía ngoài lớn hơn và xếp 
không sít nhau để lại những khoảng gian bào 
lớn chứa khí. Ở phía trong mô mềm vỏ với 
các tế bào nhỏ hơn hình tròn cạnh, gồm 3 - 4 
lớp tế bào xếp thành các vòng đồng tâm. Vỏ 
trong chỉ có một lớp tế bào và thường có đai 
caspari hình chữ U. Nhờ có đai này mà các 
chất được lông hút hút vào qua phần mô mềm 
vỏ chỉ được tiếp tục dẫn vào theo một chiều 
nhất định. Phần trụ giữa gồm vỏ trụ có một lớp 
tế bào có màng mỏng nằm sát với lớp vỏ 
trong. Hệ dẫn với các bó gỗ, bó libe riêng rẽ 
nhau và xếp xen kẽ nhau, bó gỗ phân hóa 
hướng tâm. Bó libe gồm các tế bào hình đa 
giác nhỏ, chiếm tỷ lệ nhỏ nằm xen kẽ với các 
bó gỗ. Phần ruột cấu tạo bởi các tế bào mô 
mềm hình tròn cạnh, xếp không sít nhau để 
hở những khoảng gian bào nhỏ chứa chất dự 
trữ (Hình 8). 
Hình 8. Cấu tạo rễ Bèo tây 
KẾT LUẬN 
Đặc điểm hình thái và cấu tạo giải phẫu cơ 
quan sinh dưỡng (rễ, thân, lá, cuống lá) của 
ba loài thực vật thủy sinh là cây rau Rút, rau 
Dừa nước và cây Bèo tây đã thể hiện sự thích 
nghi cao với môi trường sống ở nước. Các cơ 
quan, bộ phận của cây thường xốp hoặc biến 
đổi trở thành những phao chứa nhiều không 
khí, giúp cây nhẹ và sống nổi trên mặt nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003-2005), 
Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập 2-3, Nxb 
Nông nghiệp, Hà Nội. 
2. Phạm Hoàng Hộ (2003), Cây cỏ Việt Nam, Nxb 
Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 
3. Võ Thị Mai Hương, Trần Thanh Tùng (2008), 
“Nghiên cứu chỉ tiêu sinh lý-hóa sinh và khả năng 
xử lý nước thải lò mổ của rau Dừa nước 
(Ludwidgia adscendens L.)”, Tạp chí Khoa học, 
Đại học Huế, số 48, tr. 75-84. 
4. Đỗ Tất Lợi (2004), Những cây thuốc và vị thuốc 
Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 
5. Vũ Thị Nguyệt, Trần Văn Tựa, Nguyễn Trung 
Kiên, Đặng Đình Kim (2014), “Nghiên cứu sử dụng 
Bèo tây Eichhornia crassipes Solms để xử lý nitơ và 
phôtpho trong nước thải chăn nuôi lợn sau công nghệ 
biogas”, Tạp chí Sinh học, 37(1), tr. 53-59. 
Nguyễn Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 105 - 110 
110 
6. Hoàng Thị Sản, Nguyễn Phương Nga (2008), 
Thực tập hình thái - giải phẫu học thực vật, Nxb 
Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
7. El Zawahry M. M., Kamel M. M. (2004), 
“Removal of azo and anthraquinone dyes from 
aqueous solutions by Eichhornia crassipes”, 
Water Research, 38, pp. 2967-2972. 
SUMMARY 
STUDY OF MORPHOLOGICAL AND ANATOMICAL CHARACTERISTICS 
OF SOME AQUATIC PLANTS 
Nguyen Thi Thu Ha, Nguyen Thi Luyen, 
Cao Thi Phuong Thao, Le Phuong Dung
*
TNU – University of Education 
Several aquatic plants species such as Neptunia oleracea, Ludwidgia adscendens and Eichhornia 
crassipes are common species in ponds and lakes. They can be used for different purposes such as 
medicine, food as well as cleaning the contaminated water environment. Accordingly, many 
scientists have chosen them as subjects in recent studies. In this paper, we present the research 
results on morphological and anatomical characteristics of the above three aquatic plants in order 
to see how they adapt to the ponds and lakes water environment. The study findings have 
described the morphological and anatomical characteristics of Neptunia oleracea, Ludwidgia 
adscendens and Eichhornia crassipes adapted to their living in ponds and lakes water environment 
to provide data for study and research. 
Keywords: Neptunia oleracea, Ludwidgia adscendens, Eichhornia crassipes, roots, stems 
Ngày nhận bài: 12/3/2018; Ngày phản biện: 22/3/2018; Ngày duyệt đăng: 27/4/2018 
*
 Tel: 0971 338385, Email: 
[email protected]