Tạp chí Công nghệ Sinh học 16(3): 465–472, 2018 
465 
NGHIÊN CỨU CHUYỂN GEN OSNAC45 LIÊN QUAN TỚI TÍNH CHỊU HẠN VÀO CÂY 
NGÔ ZEA MAYS 
Nguyễn Duy Phương1, Phạm Thu Hằng1, Cao Lệ Quyên1, Bùi Thị Thu Hương2, Huỳnh Thị Thu Huệ3, 
Phạm Xuân Hội1, * 
1Viện Di truyền nông nghiệp, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 
2Học viện Nông nghiệp Việt Nam 
3Viện Nghiên cứu hệ gen, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
* Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: 
[email protected] 
Ngày nhận bài: 09.01.2018 
Ngày nhận đăng: 02.7.2018 
TÓM TẮT 
 Thực vật đáp ứng với các điều kiện bất lợi của môi trường thông qua một loạt các quá trình truyền tín hiệu 
khởi đầu, bao gồm cả quá trình hoạt hóa các nhân tố phiên mã để điều hòa hoạt động của các gen chức năng 
liên quan tới đáp ứng và chống chịu điều kiện bất lợi hạn. NAC (NAM, ATAF1/2, CUC2) là họ protein đặc 
trưng của thực vật, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và đáp ứng điều kiện stress hạn. Gen 
OsNAC45 có kích thước 1080 bp chứa một khung đọc mở mã hóa cho protein OsNAC45 của lúa, biểu hiện chủ 
yếu ở rễ và lá trong điều kiện hạn hán, độ mặn cao, nhiệt độ thấp và acid abscisic. Sự biểu hiện của gen 
OsNAC45 trong cây lúa chuyển gen làm tăng cường khả năng chống chịu hạn và mặn. Trong nghiên cứu này, 
cấu trúc biểu hiện gen OsNAC45 đã được thiết kế đặt dưới sự điều khiển của promoter hoạt động cảm ứng 
stress Rd29A và chuyển vào cây ngô (Zea mays) thông qua vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens. Các dòng ngô 
tái sinh mang một bản sao cấu trúc chuyển gen đã được sàng lọc bằng bằng PCR và Real-time qPCR với cặp 
mồi đặc hiệu. Một số dòng ngô chuyển gen biểu hiện OsNAC45 đã được xác định bằng phương pháp RT-PCR 
bán định lượng mRNA. Các dòng ngô chuyển gen OsNAC45 thu được là tiền đề cho các nghiên cứu chức năng 
gen OsNAC45 sau này, từ đó hướng tới việc tạo ra các giống ngô chuyển gen có khả năng chống chịu tốt với 
các điều kiện hạn hán. 
Từ khóa: Chịu hạn, chuyển gen, nhân tố phiên mã, ngô, OsNAC45 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Ngô (Zea mays L.) là cây trồng chính và là cây 
lương thực có vai trò kinh tế quan trọng nhất trên thế 
giới. Theo dự đoán của FAO, nhu cầu về ngô sẽ tăng 
lên 50% với hơn 800 triệu tấn một năm và có thể 
vượt qua cả gạo và lúa mì vào năm 2020. Tuy nhiên, 
do tác động biến đổi khí hậu, hạn hán xảy ra ngày 
càng thường xuyên, với mức độ ngày càng trầm 
trọng đang đe dọa mạnh mẽ tới nền sản xuất ngô trên 
thế giới. Trong bối cảnh đó, công nghệ sinh học 
được mong đợi sẽ đóng vai trò làm tăng sản lượng 
ngô đáp ứng đủ nhu cầu ngày một tăng của thế giới. 
 Tính trạng chịu hạn là tính trạng đa gen, trong 
đó sự biểu hiện của mỗi gen liên quan chặt chẽ với 
quá trình phiên mã. Vì vậy, nhóm gen mã hóa nhân 
tố phiên mã tham gia điều khiển quá trình phiên mã 
đang là trọng tâm trong các nghiên cứu chọn tạo 
giống ngô nhằm tăng cường tính chống chịu của cây 
trồng với điều kiện hạn. Nhân tố phiên mã NAC là 
họ nhân tố phiên mã lớn nhất và đặc trưng của thực 
vật. Nhân tố phiên mã này tham gia vào rất nhiều 
vào quá trình sinh lý, sinh hóa khác nhau trong tế bào, 
bao gồm các quá trình phát triển, già hóa, tạo thành tế 
bào thứ cấp và đáp ứng chống chịu stress môi trường 
như hạn, mặn và lạnh của tế bào. Một số gen đáp ứng 
stress hạn thuộc nhóm NAC như SNAC1, SNAC2, 
OsNAC5, OsNAC10 đã được chứng minh vai trò chức 
năng quá trình đáp ứng hạn (Hu et al., 2006; Jeong et 
al., 2013; Nakashima et al., 2007; Shinozaki, 
Yamaguchi-Shinozaki, 2007). 
 OsNAC45 là gen mã hóa nhân tố phiên mã thuộc 
họ NAC đã được phân lập và nghiên cứu chức năng ở 
lúa. Protein OsNAC45 đã được chứng minh định vị 
trong nhân và biểu hiện mạnh trong các điều kiện hạn, 
mặn, lạnh và xử lý ABA. Các kết quả phân tích 
Nguyễn Duy Phương et al. 
466 
microarray trên cây chuyển gen mô hình cũng cho thấy 
biểu hiện của gen ngoại sinh OsNAC45 đã hoạt hóa 
hàng loạt gen chức năng liên quan đến tính chịu hạn, 
chứng tỏ OsNAC45 có tiềm năng là một nhân tố phiên 
mã điều hòa đáp ứng stress hạn ở lúa nói riêng và thực 
vật nói chung (Todaka et al., 2015; Zheng et al., 2009). 
 Trong nghiên cứu đã công bố gần đây, chúng tôi 
đã phân lập thành công gen mã hóa nhân tố phiên mã 
OsNAC45 từ cDNA của giống lúa Mộc Tuyền 
(Nguyễn Duy Phương, Phạm Xuân Hội, 2016). Để 
phục vụ mục đích nghiên cứu chức năng của 
OsNAC45, trong nghiên cứu này chúng tôi tiếp tục 
thiết kế cấu trúc biểu hiện OsNAC45 và chuyển vào 
cây ngô mô hình thông qua vi khuẩn A. tumefaciens. 
Kết quả nghiên cứu là tiền đề cho việc nghiên cứu 
chức năng gen OsNAC45, từ đó hướng tới mục tiêu 
tạo ra các giống ngô chuyển gen có khả năng chống 
chịu tốt với các điều kiện bất lợi của môi trường. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Nguyên liệu 
 Giống ngô MB67 do Bộ môn Công nghệ Gen, 
Viện Nghiên cứu Ngô cung cấp. 
 Vi khuẩn E. coli chủng DH5α được mua từ hãng 
Fermentas (Mỹ); vi khuẩn A. tumefaciens chủng 
LBA4404 khả biến được mua từ Công ty Clontech 
Laboratories (Mỹ). Vector pCAMBIA1300 được 
mua từ Công ty Marker Gene Technologies (Mỹ); 
vector pGEM-T (Promega) mang đoạn gen 
OsNAC45 (Nguyễn Duy Phương, Phạm Xuân Hội, 
2016) và pCAMBIA1301 mang cấu trúc biểu hiện 
gen Rd29A:NOS (Phạm Thu Hằng et al.,, 2014) do 
Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền nông 
nghiệp) cung cấp. 
 Các cặp oligonucleotide (Bảng 1) sử dụng làm 
mồi cho PCR được thiết kế dựa trên các trình tự đã 
được công bố trên GenBank và được đặt mua từ 
hãng Invitrogen (Mỹ) và Sigma (Mỹ). 
Bảng 1. Trình tự các cặp mồi sử dụng trong nghiên cứu. 
Tên mồi Trình tự mồi 
Kích thước 
sản phẩm 
PCR (bp) 
Gen/vector 
Actin-Fw 5’-CCTGGGATTGCCGATCGT -3’ 
146 Actin1 
Actin-Rv 5’-CTGCTGAAAAGTGCTGAGAG-3’ 
Hyg-Fw 5’-AAACTGTGATGGACGACACCGT-3’ 
294 Hygromycin (pCAM-Rd29A) 
Hyg-Rv 5’-GTGGCGATCCTGCAAGCTCC -3’ 
RD-Fw 5’-AAGCTTCGACTCAAAACAAACTTA-3’ 
1929 [Rd29A:Nos] (pCAM-Rd29A) 
NOS-Rv 5’-AGACCGGCAACAGGATTCAA-3’ 
NAC45-RT-Fw 5’-TGCCAACTACGGTGCAAGTA-3’ 
235 OsNAC45 
NAC45-RT-Rv 5’-ACGAATGACATCTCGTAGGG-3’ 
NAC45-Fw 5’-GGATCCCCATCGCGCGTCGTCTCCAC-3’ 
1092 OsNAC45 
NAC45-Fw 5’GGATCCAATTCGATGACCAAACGACC-3’ 
Phương pháp 
Thiết kế vector biểu hiện mang gen mã hóa nhân tố 
phiên mã OsNAC45 
 Vector pCAMBIA1301 mang cấu trúc 
Rd29A:NOS (Phạm Thu Hằng et al., 2014) và 
pCAMBIA1300 được xử lí đồng thời bằng 
EcoRI/HindIII. Cấu trúc Rd29A:NOS được ghép nối 
vào pCAMBIA1300 mạch thẳng để tạo vector 
chuyển gen pCAM-Rd. Tiếp theo, đoạn gen 
OsNAC45 được tách dòng khỏi pGEM/OsNAC45 và 
chèn vào vị trí BamHI nằm giữa vùng promoter 
Rd29A và terminator NOS. Vector tái tổ hợp được 
kiểm tra bằng PCR với cặp mồi OsNAC45-
Fw/OsNAC45-Rv, RD-Fw/OsNAC45-Rv và 
OsNAC45-Fw/NOS-Rv; xử lý với enzyme cắt giới 
hạn BamHI và HindIII/EcoRI và giải trình tự DNA. 
Biến nạp vector biểu hiện vào vi khuẩn A. 
tumefaciens 
 Vector biểu hiện được biến nạp vào tế bào vi 
khuẩn A. tumefaciens chủng LBA4404 theo phương 
pháp sốc nhiệt (Wang, 2006). DNA plasmid (1 µg) 
được bổ sung vào 100 µL dung dịch tế bào và sốc 
nhiệt ở 37oC trong 5 phút. Hỗn hợp phản ứng được cấy 
trải trên môi trường LB có chứa kanamycin 50 µg/mL, 
rifampicin 20 µg/mL và ủ ở 28°C trong 2 – 3 ngày. Thể 
biến nạp sau đó kiểm tra bằng phản ứng PCR trực tiếp 
Tạp chí Công nghệ Sinh học 16(3): 465–472, 2018 
467 
khuẩn lạc (Sambrook, Russel, 2001) với cặp mồi đặc 
hiệu RD-Fw/NAC45-Rv. 
Chuyển nạp gen vào ngô thông qua vi khuẩn A. 
tumefaciens 
 Thí nghiệm chuyển nạp gen vào ngô được thực 
hiện theo quy trình do Bộ môn Công nghệ Gen, Viện 
Nghiên cứu Ngô cung cấp. Phôi non (10 - 12 ngày 
sau khi thụ phấn) được đồng nuôi cấy với vi khuẩn 
A. tumefaciens tái tổ hợp mang cấu trúc biểu hiện 
gen pCAM-Rd/OsNAC45. Các phôi hình thành mô 
sẹo được chọn lọc trên môi trường MS-SE có bổ 
sung Cefotaxime 200 mg/L, Vancomycin 100 mg/L 
và Hygromycin 25 mg/L. Các mô sẹo sống sót được 
tái sinh trên môi trường tái sinh chồi, rễ thành cây 
hoàn chỉnh. 
Xác định kiểu gen của cây chuyển gen bằng PCR 
và Realtime-RT-PCR 
 DNA tổng số của cây chuyển gen được tách 
chiết theo phương pháp của Doyle và Doyle (1990), 
sử dụng dung dịch CTAB 2%. 
 Sự có mặt của cấu trúc biểu hiện gen đích trong 
cây chuyển gen được xác định bằng PCR 
(Sambrook, Russel, 2001) với các cặp mồi Actin-
Fw/Actin-Rv, Hyg-Fw/Hyg-Rv, OsNAC45-t-
Fw/NOS-Rv. Phản ứng PCR được thực hiện với chu 
trình nhiệt: (94oC – 30 giây, 56oC – 20 giây, 72oC - 
40 giây) x 35 chu kỳ. 
 Số bản sao của gen chuyển được xác định bằng 
Realtime PCR theo phương pháp của Zhang và et al., 
(2003). Phản ứng qPCR được thực hiện với chu trình 
nhiệt (94oC – 15 giây, 60oC – 30 giây, 72oC - 30 giây) 
x 40 chu kỳ, sử dụng cặp mồi Hyg-Fw/Hyg-Rv. 
Đánh giá mức độ biểu hiện gen bằng phương pháp 
RT-PCR bán định lượng mRNA 
 RNA tổng số được tách chiết từ lá ngô non bằng 
bộ kit RNA-spinTM Total RNA Extraction theo quy 
trình hướng dẫn của hãng Intron (Hàn Quốc). Phản 
ứng tổng hợp cDNA được thực hiện theo quy trình 
của hãng Stratagene, sử dụng các mẫu RNA tinh 
sạch. Hỗn hợp phản ứng được ủ ở 42oC trong 60 
phút và bảo quản ở nhiệt độ -80oC. Mẫu cDNA được 
sử dụng làm khuôn cho phản ứng PCR với cặp mồi 
NAC45-RT-Fw/NAC45-RT-Rv. Phản ứng PCR 
được thực hiện với chu trình nhiệt: (94oC – 30 giây, 
56oC – 20 giây, 72oC - 40 giây) x 35 chu kỳ. Sản 
phẩm phản ứng PCR được điện di trên gel agarose 
1% và phân tích bằng phần mềm ImageJ. Gen actin 
được sử dụng làm gen nội chuẩn. 
KẾT QUẢ & THẢO LUẬN 
Thiết kế cấu trúc biểu hiện OsNAC45 điều khiển 
bởi promoter cảm ứng stress Rd29A 
 Để thiết kế cấu trúc biểu hiện gen OsNAC45 
điều khiển bởi promoter Rd29A hoạt động cảm 
ứng stress, cấu trúc [Rd29A:NOS] ghép nối vào 
vector pCAMBIA1300, sau đó đoạn gen 
OsNAC45 được chèn giữa vùng promoter Rd29A 
và terminator NOS trên vector tái tổ hợp (Hình 1). 
Sự có mặt của đoạn gen OsNAC45 trong vector tái 
tổ hợp được kiểm tra bằng phương pháp PCR với 
ba cặp mồi khác nhau: cặp mồi đặc hiệu của 
OsNAC45 (NAC45-Fw/NAC45-Rv), cặp mồi đặc 
hiệu cho cấu trúc [Rd29A:Nos] (RD-Fw/NOS-Rv) 
và cặp mồi đặc hiệu cho cấu trúc 
[Rd29A:OsNAC45] (RD-Fw/NAC45-Rv). Kết quả 
điện di trên gel agarose 1% cho thấy sản phẩm 
PCR từ khuôn là plasmid tái tổ hợp cho 1 băng 
DNA duy nhất có kích thước lần lượt khoảng 1,1 
kb (Hình 2A, giếng 6), 1,15 kb (Hình 2A, giếng 4) 
và 2,0 kb (Hình 2A, giếng 2); các kích thước này 
là phù hợp với kích thước tính toán lý thuyết của 
các đoạn DNA được nhân bản. 
 Hình 1. Sơ đồ thiết kế cấu trúc biểu hiện OsNAC45 trong tế bào thực vật. 
Nguyễn Duy Phương et al. 
468 
 Để kiểm tra chắc chắn hơn đoạn DNA đã được 
chèn vào vector biểu hiện pCAM-Rd là đoạn gen 
OsNAC45, vector tái tổ hợp pCAM-Rd/OsNAC45 
tiếp tục được xử lý bằng enzyme cắt giới hạn. Kết 
quả điện di trên hình 2B cho thấy sản phẩm của phản 
ứng cắt bằng enzyme BamHI tạo ra 2 băng DNA: 
băng DNA có kích thước khoảng 10,0 kb tương ứng 
kích thước bộ khung vector pCAM-Rd mạch thẳng 
và băng DNA có kích thước 1092 bp tương ứng kích 
thước đoạn gen OsNAC45 (Hình 2B, giếng 3). 
Tương tự, đối với sản phẩm của phản ứng cắt bằng 
HindIII/EcoRI, kết quả điện di cũng xuất hiện 2 băng 
DNA có kích thước phù hợp với tính toán lý thuyết: 
băng 2129 kb tương ứng với cấu trúc 
[Rd29A:OsNAC45:NOS] và 10,0 kb tương ứng với 
bộ khung vector pCAMBIA1300 (Hình 2B, giếng 2). 
 Vector tái tổ hợp pCAM-Rd/OsNAC45 được 
giải trình tự nucleotide để đảm bảo các cấu trúc 
(Rd29A, OsNAC45 và NOS) được ghép nối đúng vào 
pCAMBIA1300 và không xảy ra đột biến. Vector tái 
tổ hợp sau đó được biến nạp vào vi khuẩn A. 
tumefaciens LBA4404 phục vụ nghiên cứu chuyển 
gen vào ngô. 
 Việc sử dụng các promoter hoạt động liên tục 
như 35S, Ubiquitin hay Actin để biểu hiện gen 
quan tâm trong cây chuyển gen thường mang lại hiệu 
quả rõ rệt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự 
biểu hiện liên tục của một gen đáp ứng điều kiện 
stress lại gây ảnh hưởng tiêu cực tới sinh trưởng và 
phát triển của thực vật trong điều kiện bình thường 
(Nakashima et al., 2014). Một giải pháp cho vấn đề 
này là sử dụng các promoter chỉ cảm ứng hoạt động 
đặc hiệu trong những điều kiện stress nhất định, ví 
dụ như Lip9 (A. thaliana), OsNAC6 và OsLEA3-1 
(lúa), HVA22 (lúa mạch)... Promoter Rd29A là một 
trong số các promoter hoạt động đặc hiệu được phân 
lập từ Arabidopsis, đã được chứng minh cảm ứng 
với điều kiện hạn, mặn, lạnh và ABA (Yamaguchi-
Shinozaki, Shinozaki, 1993). Sự biểu hiện của gen 
mã hóa nhân tố phiên mã DREB1 dưới sự điều khiển 
promoter Rd29A trong các dòng cây chuyển gen mô 
hình như thuốc lá (Nicotiana tabacum), khoai tây 
(Solanum tuberosum), đậu tương (Glycine max), lạc 
(Arachis hypogaea), lúa mì (Triticum aestivum) và 
lúa đã giúp tăng khả năng chống chịu stress nhưng 
ảnh hưởng tới tốc độ sinh trưởng trong điều kiện 
bình thường (Nakashima et al., 2014). Trong nghiên 
cứu này, cấu trúc biểu hiện gen mã hóa nhân tố phiên 
mã OsNAC45 đặt dưới sự điều khiển của promoter 
Rd29A đã được thiết kế để phục vụ cho các nghiên 
cứu sau này hướng tới mục tiêu tạo ra giống cây 
trồng chuyển gen chống chịu tốt với điều kiện bất lợi 
của môi trường, đồng thời vẫn cho năng suất ổn định 
trong điều kiện bình thường. 
Chuyển cấu trúc biểu hiện OsNAC45 vào ngô 
 Cấu trúc biểu hiện gen OsNAC45 được chuyển 
vào hệ gen ngô gián tiếp thông qua vi khuẩn A. 
tumefaciens. Kết quả chuyển gen OsNAC45 vào ~ 
3000 phôi non, sau giai đoạn chọn lọc có 73 phôi/mô 
sẹo sống sót và tái sinh trên môi trường chọn lọc 
(Bảng 2). Sự có mặt của cấu trúc biểu hiện gen đích 
trong cây ngô tái sinh được xác định bằng kĩ thuật 
PCR với các cặp mồi đặc hiệu cho gen đích 
OsNAC45 và gen chọn lọc Hygromycin (Hình 3, 
Hình 2. Thiết kế vector chuyển gen pCAM-RD/OsNAC45. Cấu trúc biểu hiện OsNAC45 được ghép nối vào pCAMBIA1300. 
(A) Kiểm tra plasmid tái tổ hợp bằng PCR; giếng 1, 2: PCR với cặp mồi RD-Fw/Nos-Rv; giếng 3, 4: PCR với cặp mồi RD-
Fw/NAC45-Rv; giếng 5, 6: PCR với cặp mồi NAC45-Fw/NAC45-Rv; giếng 1, 3 và 5: đối chứng âm (không có DNA khuôn); 
giếng 2, 4 và 6: khuôn là pCAM-RD/OsNAC45. (B) Kiểm tra plasmid tái tổ hợp bằng enzyme cắt giới hạn; giếng 1: vector 
nguyên bản; giếng 2: sản phẩm cắt giới hạn bằng HindIII/EcoRI; giếng 3: sản phẩm cắt giới hạn bằng BamHI. Giếng M: 
thang chuẩn DNA 1 kb. 
Tạp chí Công nghệ Sinh học 16(3): 465–472, 2018 
469 
Bảng 2). Kết quả điện di sản phẩm PCR cho thấy chỉ 
có 16/73 cây tái sinh mang gen đích OsNAC45; tỉ lệ 
biến nạp gen thành công đạt 0,53 %. Kết quả này 
cũng cho thấy hiệu quả của gen chọn lọc 
Hygromycin trong quy trình chuyển gen vào giống 
ngô mô hình không cao, tỉ lệ mô sẹo thoát khỏi ảnh 
hưởng của chất chọn lọc tương đối lớn (78,1%). Việc 
nhiều cây tái sinh đã trải qua môi trường chọn lọc 
không phát hiện được sự có mặt của gen chuyển cũng 
cho thấy hiệu quả chọn lọc của chất kháng sinh tương 
đối thấp. 
 Các cây ngô tái sinh có kết quả PCR dương 
tính với cả hai cặp mồi đặc hiệu được tiếp tục 
kiểm tra bằng Realtime PCR để xác định số bản 
sao của cấu trúc chuyển gen (thông qua định 
lượng gen Hygromycin) trong hệ gen. Kết quả thí 
nghiệm cho thấy 8/16 cây tái sinh có giá trị 2ΔCt từ 
0,4 – 0,67 tương ứng với 1 bản sao trong hệ gen 
(Bảng 2). Tuy nhiên, các cây ngô mang một bản 
sao gen chuyển khi được chuyển sang trồng trong 
điều kiện nhà lưới, chỉ có 5/8 cây sinh trưởng bình 
thường và kết hạt (cây T1). 
Bảng 2. Kết quả chuyển gen OsNAC45 vào cây ngô mô hình. 
Lô thí 
nghiệm 
Tổng số 
phôi Tái sinh 
PCR1 Realtime PCR2 
Thu hạt 
T1 Actin1 Hygromycin OsNAC45 1 bản sao 
>1 bản 
sao 
Lô I ~1000 25 25 3 3 2 1 0 
Lô II ~1000 11 11 1 1 1 0 1 
Lô III ~1000 37 37 12 12 5 7 4 
Ghi chú: 1Cây ngô tái sinh được kiểm tra bằng PCR với cặp mồi đặc hiệu của gen Actin1, gen kháng Hygromycin và gen 
đích OsNAC45 . 
2Thí nghiệm Realtime PCR xác định số bản sao dựa trên định lượng gen Hygromycin bằng giá trị 2ΔCt¸ gen Actin1 được sử 
dụng là gen nội chuẩn, thí nghiệm lặp lại 3 lần. 
 Như vậy, từ khoảng 3000 phôi ngô được chuyển 
gen ban đầu, 5 cây tái sinh mang 1 bản sao của cấu 
trúc biểu hiện gen chuyển đã sinh trưởng và kết hạt 
trong điều kiện nhà lưới. Tỉ lệ chuyển gen thành 
công của toàn bộ của quy trình đạt 0,17 %. 
 Trong các nghiên cứu chuyển gen ngô thông qua 
vi khuẩn A. tumefaciens đã được công bố, hiệu suất 
của quá trình chuyển gen rất khác nhau, dao động từ 
0-50% và phụ thuộc chủ yếu khả năng tái sinh và tiếp 
nhận gen của tế bào. Nghiên cứu trước đây đã chứng 
minh có ít nhất một hay một nhóm gen trong nhân tế 
bào có ảnh hưởng tới khả năng tạo phôi sinh dưỡng 
trên môi trường nuôi cấy in vitro của ngô (Bohorova 
et al., 1995). Một số giống ngô đã được chứng minh 
có hiệu suất tái sinh tương đối cao như (Hi-II - 100%, 
Gz 643 - 42.2%, A188 - 30%), tuy nhiên hiệu suất 
chuyển gen cũng rất thấp (Hi-II - 12%, A188 – 5%, 
H99 – 2%) (Pranjal et al., 2016). Các tác giả cũng sử 
dụng nhiều loại tế bào/mô khác nhau để chuyển gen 
như phôi non, phôi trưởng thành, nhị hoa, chồi, chồi 
thân tái sinh từ mô sẹo, nhưng phổ biến nhất vẫn là 
mô sẹo phát triển từ phôi non hay dịch huyền phù môi 
trường nuôi cấy mô sẹo (Torney et al., 2007). Mặc dù 
đã có một số quy trình cải tiến đã được công bố, hiệu 
quả chuyển gen thực tế vào ngô cho đến nay vẫn chưa 
N1	N2	N3	N4	N5	N6	N7	WT	(-)	(+)	
DNAs	
ZmActin	
Hygro	
OsNAC45	
Hình 3. Kiểm tra cây ngô chuyển gen bằng PCR. Cây ngô chuyển gen (N1-N7) và không chuyển gen (WT) được tách chiết 
DNA tổng số (DNAs) và PCR kiểm tra bằng cặp mồi đặc hiệu của gen nội chuẩn Actin1 (ZmActin), gen kháng Hygromycin 
(Hygro) và gen chuyển (OsNAC45). 
Nguyễn Duy Phương et al. 
470 
được cải thiện đáng kể. Ở Việt Nam, Tran et al., 
(2017) đã sử dụng phôi non của một số giống ngô lai 
cho thí nghiệm chuyển gen và thu được hiệu suất 
chuyển gen tương tự (H95 – 8,6%, N618 – 6,2%). 
 Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phôi 
non để chuyển gen OsNAC45 vào giống ngô MB67. 
Quy trình của chúng tôi mặc dù có tỉ lệ tái sinh chồi 
khá cao (đạt 66,7%, số liệu không công bố) nhưng tỉ 
lệ cây được chuyển nạp cấu trúc biểu hiện gen đích 
thành công rất thấp (0,53%), trong đó có ½ số cây 
mang 1 bản sao của gen chuyển. Các dòng ngô mang 
gen đích sinh trưởng bình thường được tiếp tục sử 
dụng cho thí nghiệm nghiên cứu hoạt động chức năng 
của gen chuyển. 
Đánh giá biểu hiện của OsNAC45 trong cây ngô 
chuyển gen 
 Mức độ biểu hiện của gen đích OsNAC45 trong 
các dòng ngô chuyển gen được xác định bằng 
phương pháp bán định lượng mRNA, sử dụng kĩ 
thuật RT-PCR với cặp mồi đặc hiệu của gen chuyển. 
Các dòng ngô chuyển gen sau khi xử lý hạn nhân tạo 
(ngừng tưới nước 1 tuần) được tách chiết RNA tổng 
số để sử dụng làm khuôn cho phản ứng RT-PCR. 
Mẫu RNA tổng số tách chiết từ cây lúa không 
chuyển gen được sử dụng làm mẫu đối chứng; gen 
actin được sử dụng làm gen nội chuẩn. Mức độ biểu 
hiện của gen OsNAC45 giữa các dòng ngô được so 
sánh với nhau thông qua gen nội chuẩn actin. 
 Kết quả phân tích biểu hiện gen bằng RT-PCR 
cho thấy tất cả các mẫu cây được kiểm tra đều dương 
tính với PCR sử dụng cặp mồi nội chuẩn (Actin-
Fw/Actin-Rv), băng DNA đặc hiệu có độ sáng đồng 
đều giữa các mẫu xét nghiệm (Hình 4A). Tuy nhiên, 
trong thí nghiệm sử dụng cặp mồi đặc hiệu của gen 
đích (OsNAC45-RT-Fw/OsNAC45-RT-Rv), chỉ có 3 
trong số 5 dòng ngô chuyển gen được kiểm tra có 
biểu hiện gen đích với sự xuất hiện của 1 băng DNA 
(Hình 4A, dòng N1, N2 và N3) tương tự mẫu đối 
chứng dương sử dụng khuôn là vector pCAM-
Rd/OsNAC45. Ngược lại, 2 dòng ngô chuyển gen 
(Hình 4, dòng N4 và N5) và dòng ngô đối chứng 
không chuyển gen (Hình 4A, dòng WT) đều cho kết 
quả PCR âm tính. 
 Sử dụng phần mềm ImageJ, mức độ biểu hiện gen 
OsNAC45 tương quan giữa các dòng ngô chuyển gen 
đã được xác định (Hình 4B). Kết quả so sánh cho thấy 
mức độ biểu hiện của gen đích OsNAC45 có sự khác 
biệt giữa các dòng ngô chuyển gen. Cụ thể, hàm lượng 
mRNA OsNAC45 cao được phát hiện ở dòng N1 và 
N3; dòng N2 có mức độ biểu hiện gen đích ở mức thấp; 
hai dòng N4 và N5 hầu như không phát hiện có mặt của 
mRNA gen đích, tương tự dòng ngô không chuyển gen. 
 Như vậy, bằng phương pháp bán định lượng 
mRNA, chúng tôi đã xác định được sự biểu hiện của 
gen chuyển OsNAC45 trong một số dòng ngô chuyển 
gen mô hình có mang một bản sao của cấu trúc 
chuyển gen ở mức độ mRNA. 
 Trong nhiều nghiên cứu trước đây, thí nghiệm 
phân tích cây chuyển gen thường được thực hiện 
với các cây đồng hợp tử từ thế hệ T2 trở đi để xác 
định chính xác sự biểu hiện của gen chuyển nhằm 
tìm hiểu cơ chế điều hòa hoạt động gen của nhân tố 
phiên mã được nghiên cứu (Hu et al., 2006). Tuy 
nhiên, với mục đích chứng minh mối liên hệ giữa 
sự biểu hiện của gen mã hóa nhân tố phiên mã với 
Hình 4. Mức độ biểu hiện của OsNAC45 trong các dòng ngô chuyển gen T0. (A) Sản phẩm RT-PCR nhân bản đoạn gen 
đích (OsNAC45) và gen nội chuẩn (Actin) được điện di trên gel agarose 1%;(+): đối chứng dương (khuôn là pCAM-
RD/OsNAC45); (-): đối chứng âm (không có DNA khuôn); (WT): khuôn là mẫu RNA tách chiết từ cây ngô không chuyển gen; 
(N1-N5): khuôn là mẫu RNA tách chiết từ cây ngô chuyển gen.(B) Đồ thị so sánh hàm lượng mRNA OsNAC45 tương quan 
giữa các dòng ngô; hàm lượng mRNA OsNAC45 của dòng N2 có giá trị bằng 1; giá trị thể hiện trên đồ thị là kết quả trung 
bình của 3 lần thí nghiệm RT-PCR. 
Tạp chí Công nghệ Sinh học 16(3): 465–472, 2018 
471 
sự xuất hiện tính trạng mới của cây chuyển gen, 
một số nghiên cứu đã phân tích cây chuyển gen ở 
ngay thế hệ T0 hay T1. Ví dụ, khi nghiên cứu chức 
năng của gen OsMAPK2, Hur và Kim (2014) đã 
phân tích biểu hiện của gen chuyển trong các dòng 
A. thaliana chuyển gen T1 bằng phương pháp lai 
RNA. Biểu hiện của gen OsNAC6 dưới sự điều 
khiển của promoter 35S trong các dòng lúa chuyển 
gen cũng được Rachmat và nhóm nghiên cứu 
chứng minh bằng kỹ thuật Real-time RT-PCR ở 
thế hệ cây chuyển gen T1 (Rachmat et al., 2014). 
Ở đây, mức độ biểu hiện gen đích của 5 dòng ngô 
chuyển gen khác nhau đã được xác định dựa trên 
kết quả phân tích hàm lượng mRNA bằng kỹ thuật 
RT-PCR. Mức độ biểu hiện gen đích khác nhau 
giữa các dòng ngô chuyển gen trong các nghiên 
cứu này đã cho thấy mỗi dòng cây chuyển gen là 
một sự kiện chuyển gen độc lập và không đồng 
nhất về mặt di truyền. Tất cả các dòng ngô biểu 
hiện gen OsNAC45 này sẽ được tiếp tục được 
phân tích khả năng chống chịu hạn ở các thế hệ 
tiếp theo để chứng minh vai trò chức năng của 
nhân tố phiên mã OsNAC45. 
KẾT LUẬN 
 Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thiết kế 
được cấu trúc biểu hiện gen OsNAC45 liên quan 
tới đáp ứng stress hạn của lúa Mộc tuyền, điều 
khiển bởi promoter hoạt động cảm ứng stress 
Rd29A. Cấu trúc biểu hiện gen đã được chuyển nạp 
thành công vào cây ngô mô hình thông qua vi 
khuẩn A. tumefaciens với hiệu suất chuyển gen đạt 
0,17%. Các dòng ngô chuyển gen đã được sàng lọc 
bằng phương pháp PCR xác định sự có mặt và 
Realtime PCR xác định số bản sao của cấu trúc 
chuyển gen. Bằng kĩ thuật RT-PCR bán định lượng 
mRNA, sự biểu hiện của OsNAC45 đã chứng minh 
được trong các dòng ngô chuyển gen T0 được xử lý 
hạn nhân tạo. Các kết quả nghiên cứu này là tiền 
đề cho các nghiên cứu sâu hơn về chức năng của 
OsNAC45, từ đó hướng tới việc cải tạo tính trạng 
chịu hạn của các giống cây trồng nhờ công nghệ 
chuyển gen thực vật. 
Lời cảm ơn: Nghiên cứu được hỗ trợ kinh phí từ đề 
tài “Phân lập thiết kế gen chịu hạn phục vụ công tác 
tạo giống ngô biến đổi gen” (2014-2018) do Viện 
Nghiên cứu hệ gen là chủ trì, thuộc Chương trình 
Công nghệ sinh học Nông nghiệp - Thủy sản, Bộ 
Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chúng tôi xin 
trân trọng cảm ơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bohorova NE, Luna B, Briton RM, Huerta LD, 
Hoistington DA (1995) Regeneration potential of tropical, 
and subtropical, mid altitude, and highland maize 
inbreds. Maydica 40: 275–281. 
Doyle JJ, Doyle JL, (1990) Isolation of plant DNA from 
fresh tissue. Focus 12: 13–15. 
Hu H, Dai M, Yao J, Xiao B, Li X, Zhang Q, Xiong L (2006) 
Overexpressing a NAM, ATAF, and CUC (NAC) 
transcription factor enhances drought resistance and salt 
tolerance in rice. Proc Natl Acad Sci USA 103(35): 12987–92. 
Hu H, Dai M, Yao J, Xiao B, Li X, Zhang Q, Xiong L 
(2006) Overexpressing a NAM, ATAF, and CUC (NAC) 
transcription factor enhances drought resistance and salt 
tolerance in rice. Proc Natl Acad Sci USA 103(55): 12987–
12992. 
Hur Y, Kim D (2014) Overexpression of OsMAPK2 
enhances low phosphate tolerance in rice and Arabidopsis 
thaliana”, Am J Plant Sci 5(4): 452–462. 
Jeong JS, Kim YS, Redillas MC, Jang G, Jung H, Bang 
SW, Choi YD, Ha SH, Reuzeau C, Kim JK (2013) 
OsNAC5 overexpression enlarges root diameter in rice 
plants leading to enhanced drought tolerance and increased 
grain yield in the field. Plant Biotechnol J 11(1): 101–114. 
Nakashima K, Jan A, Todaka D, Maruyama K, Goto S, 
Shinozaki K, Yamaguchi-Shinozaki K (2014) Comparative 
functional analysis of six drought-responsive promoters in 
transgenic rice. Planta 239(1): 47–60. 
Nakashima K, Tran LS, Nguyen DV, Fujita M, Maruyama 
K, Todaka D, Tto Y, Hayashi N, Shinozaki K, 
Yamaguchi-Shinozaki K, (2007) Functional analysis of a 
NAC-type transciption factor OsNAC6 involved in abiotic 
and biotic stress-responsive gene expression in rice. Plant 
J 51: 617–630. 
Nguyễn Duy Phương, Phạm Xuân Hội (2016) Phân lập 
gien mã hóa nhân tố phiên mã OsNAC45 liên quan tới tính 
chống chịu hạn của giống lúa Mộc Tuyền Tạp chí Nông 
nghiệp & Phát triển nông thôn, 19: 45–50. 
Phạm Thu Hằng, Nguyễn Duy Phương, Trần Lan Đài, Phan 
Tuấn Nghĩa, Phạm Xuân Hội (2014) Thiết kế vector biểu 
hiện mang gen OsNAC1 được điều khiển bởi promoter cảm 
ứng điều kiện bất lợi RD29A. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 30(4): 1-10. 
Pranjal Y, Alok A, Reeva S, Ishwar S, Tanushri K, 
Arunava P, Pawan KA (2016) Advances in Maize 
Transformation Technologies and Development of 
Transgenic Maize. Front Plant Sci 7: 1949. DOI: 
10.3389/fpls.2016.01949. 
Rachmat A, Nugroho S, Sukma D, Aswidinnoor H, 
Sudarsono S (2014) Overexpression of OsNAC6 
transcription factor from Indonesia rice cultivar enhances 
Nguyễn Duy Phương et al. 
472 
drought and salt tolerance. Emir J Food Agric, 26(6): 
519–527. 
Sambrook J, Russel DW (2001) Molecular Cloning: A 
Laboratory Manual, 3rd ed. Cold Spring Harbour 
Laboratory Press, Cold Spring Harbour, New York. 
Shinozaki K, Yamaguchi-Shinozaki K (2007) Gene 
networks involved in drought stress response and 
tolerance. J Exp Bot 58: 221–227. 
Tran TL, Ho TH, Nguyen DT (2017) Overexpression of 
the IbOr gene from sweet potato (Ipomea batatas ‘Hoang 
Long’) in maize increases total carotenoid and β-carotene 
contents. Turk J Biol 41: 1003–1010. 
Todaka D, Shinozaki K, Yamaguchi-Shinozaki K (2015) 
Recent advances in the dissection of drought-stress 
regualatory networks and strategies for development of 
drought-tolerant transgenic rice plants. Plant Sci 6:84. 
DOI: 10.3389/fpls.2015.00084. 
Torney F, Moeller L, Scarpa A, Wang K (2007) Genetic 
engineering approaches to improve bioethanol production 
from maize. Curr Opin Biotechnol 18(3): 193–9. 
Wang K (2006) Agrobacterium Protocols. In Methods 
Mol. Biol. 343, 2nd ed. Humana Press, Totowa, New 
Jersey. 
Yamaguchi-Shinozaki K, Shinozaki K (1993) 
Characterization of the expression of a desiccation-
responsive rd29 gene of Arabidopsis thaliana and analysis 
of its promoter in transgenic plants. Mol Gen Genet 236(2-
3): 331-–0. 
Zhang Y, Zang D, Li W, Cheng J, Peng Y, Cao W (2003) 
A novel real-time quatitative PCR method using attached 
universal template probe. Nucleic Acids Res 31: e123. 
Zheng X, Chen B, Lu G, Han B (2009) Overexpression of 
NAC transcription factor enhances rice drought and salt 
tolerance. Biochem Biophys Res Commun 379(4): 985–989. 
STUDY ON GENETIC TRANSFORMATION OF ZEA MAYS WITH DROUGHT-
RESPONSIVE OsNAC45 GENE 
Nguyen Duy Phuong1, Pham Thu Hang1, Cao Le Quyen1, Bui Thi Thu Huong2, Huynh Thi Thu Hue3, 
Pham Xuan Hoi1 
1Agricultural Genetics Institute, Vietnam Academy of Agricultural Sciences 
2Vietnam National University of Agriculture 
3Institute of Genome Research, Vietnam Academy of Science and Technology 
SUMMARY 
 Plants response to abiotic stresses by initiating a series of processes including the activation of 
transcription factors that can regulate expression of various stress-responsive and adaptive genes. NAC family 
(NAM, ATAF1/2, CUC2), which is the largest plant transcription factor family, plays an important role in the 
development and stress responses of plants. OsNAC10 gene fragment has 1080 nucleotide containing an open 
reading frame (OFR) encoding for protein OsNAC45. OsNAC45 is expressed predominantly in roots and 
leaves and induced by drought, high saliniy, low temperature and abscisic acid. Overexpression of OsNAC45 in 
rice increased the plant tolerance to drought and high salinity. In this study, recombinant expression vector 
containing OsNAC45-encoding sequence under the control of the Arabidopsis stress-inducible Rd29A 
promoter was designed and successfully transformed into model maize plants via Agrobacterium tumefaciens 
bacteria. The genotype of regeneration plants was identified by PCR and Real-time pPCR. Using semi-
quantitative RT-PCR, the expression of transgene OsNAC45 in some T0 transgenic plants were detected. These 
results provide a basis for the study of the function of OsNAC45 in drought responses and for the development 
of drought stress tolerant crops. 
Keywords: Drought tolerance, gene transfomation, maize, OsNAC45, transcription factor